CÔNG ƯỚC
VỀ XOÁ BỎ
MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ CHỐNG LẠI PHỤ NỮ, 1979
(Được thông qua và để mở
cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết 34/180 ngày 18/12/1979 của
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.Có hiệu lực từ ngày 3/9/1981, theo điều 27 (1). Việt
Nam phê chuẩn ngày 18/12/1982))
Lời mở đầu
Các quốc gia thành viên Công ước,
Lưu ý rằng, Hiến chương Liên Hợp
Quốc khẳng định niềm tin vào các quyền con người cơ bản, vào nhân phẩm và giá
trị của mỗi con người và vào các quyền bình đẳng giữa đàn ông và phụ nữ;
Lưu ý rằng, Tuyên ngôn toàn thế
giới về quyền con người khẳng định nguyên tắc không chấp nhận sự phân biệt đối
xử và tuyên bố rằng tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về nhân phẩm
và các quyền, và rằng tất cả mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do
được ghi nhận trong Tuyên ngôn mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, kể cả sự
phân biệt về giới tính;
Lưu ý rằng, các quốc gia thành
viên hai Công ước quốc tế về quyền con người năm 1966 có nghĩa vụ bảo đảm các
quyền bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền về
dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội vào văn hóa.
Xem xét những Công ước quốc tế
đó được ký dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên
Hợp Quốc nhằm thúc đẩy sự bình đẳng về các quyền giữa nam giới và phụ nữ;
Đồng thời lưu ý đến các nghị quyết,
tuyên bố, khuyến nghị do Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên mụn của Liên Hợp
Quốc thông qua nhằm thúc đẩy sự bình đẳng về các quyền giữa nam giới và phụ nữ;
Tuy nhiên, lo ngại rằng, dự đã có những văn kiện kể
trên, sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vẫn đang tồn tại ở rất nhiều nơi;
Nhắc lại rằng, sự phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ vi phạm các nguyên tắc bình đẳng về các quyền và tôn trọng
nhân phẩm, là một trở ngại với sự tham gia của phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng với
đàn ông, vào đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội và chính trị của quốc gia họ,
làm ảnh hưởng tới sự thịnh vượng của xã hội và gia đình, và gây nhiều khó khăn
cho sự phát triển đầy đủ các khả năng tiềm tàng của phụ nữ trong việc phục vụ đất
nước và loài người;
Lo ngại rằng, trong những hoàn cảnh
nghèo khổ, phụ nữ là những người có ít cơ hội nhất trong việc hưởng lương thực,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, các cơ hội về việc làm và các nhu cầu
khác;
Tin tưởng rằng, việc thiết lập một
trật tự kinh tế quốc tế mới dựa trên sự Công bằng và Công lý sẽ góp phần đáng kể
vào việc thúc đẩy thực hiện bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ;
Nhấn mạnh rằng, việc xóa bỏ chủ
nghĩa a-pác-thai, tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, sự xâm lược, chiếm đóng, thống trị và
can thiệp của nước ngoài vào Công việc nội bộ của các nước là thiết yếu để bảo
đảm sự hưởng thụ đầy đủ các quyền của cả nam giới và phụ nữ;
Khẳng định rằng, việc củng cố
hoà bình và an ninh quốc tế, giảm căng thẳng quốc tế, sự hợp tác giữa tất cả
các quốc gia không phân biệt chế độ kinh tế, xã hội, việc giải trừ quân bị toàn
diện toàn diện và triệt để, đặc biệt đối với vũ khí hạt nhân dưới sự kiểm soát
quốc tế chặt chẽ và có hiệu quả, việc khẳng định các nguyên tắc công bằng, bình
đẳng và cùng có lợi trong quan hệ giữa các nước, việc thực hiện quyền tự quyết
và độc lập của các dân tộc còn đang phải sống dưới ách đô hộ của chủ nghĩa thực
dân và dưới sự chiếm đóng của nước ngoài cũng như việc tôn trọng chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, sẽ thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội,
và do vậy, sẽ góp phần đạt được sự bình đẳng hoàn toàn giữa nam giới và phụ nữ;
Tin tưởng rằng, sự phát triển đầy
đủ và toàn diện của một quốc gia, sự giàu mạnh của thế giới và sự nghiệp hoà
bình đòi hỏi sự tham gia tối đa của phụ nữ vào tất cả các lĩnh vực, trên cơ sở
bình đẳng với nam giới;
Ghi nhớ sự đóng góp lớn lao của
phụ nữ vào hạnh phúc gia đình và vào sự phát triển của xã hội mà lâu nay chưa
được công nhận đầy đủ, ghi nhớ ý nghĩa xã hội của việc làm mẹ, và vai trò của cả
bố lẫn mẹ trong gia đình và trong nuôi dạy trẻ em; và nhận thức rằng, vai trò của
phụ nữ trong việc sinh đẻ không thể được viện dẫn làm cơ sở cho sự phân biệt đối
xử, và rằng, việc nuôi dạy trẻ em đòi hỏi có sự chia sẻ trách nhiệm giữa đàn
ông và phụ nữ và xã hội nói chung;
Nhận thức rằng, một sự thay đổi
về vai trò truyền thống của nam giới cũng như của phụ nữ trong xã hội và trong
gia đình là cần thiết để đạt được sự bình đẳng đầy đủ giữa nam giới và phụ nữ;
Quyết tâm thực hiện các nguyên tắc
đề ra trong Tuyên bố về xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, và nhằm mục
đích đó, thông qua các biện pháp cần thiết để xoá bỏ tất cả những sự phân biệt
đối xử như vậy dưới tất cả những hình thức và biểu hiện của chúng.
Đó thoả thuận như sau:
Phần I
Điều 1.
Vì những mục đích của Công ước này,
thuật ngữ “phân biệt đối xử với phụ nữ" sẽ có nghĩa là bất kỳ sự phân biệt,
loại trừ hay hạn chế nào được đề ra dựa trên cơ sở giới tính, mà có tác dụng hoặc
nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ, bất kể tình trạng hôn
nhân của họ như thế nào, được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các quyền con
người và tự do cơ bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,
dân sự hay bất kể lĩnh vực nào khác, trên cơ sở bình đẳng giữa nam giới và phụ
nữ.
Điều 2.
Các quốc gia thành viên Công ước lên
án sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ thể hiện dưới mọi hình thức, đồng ý áp
dụng tất cả những biện pháp thích hợp và không chậm trễ để thực hiện một chính
sách xoá bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, và nhằm mục đích đó, cam kết:
a) Thể hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ vào hiến pháp nước
mình, hoặc vào các văn bản pháp luật thích hợp khác, nếu như việc này chưa được
thực hiện, và bảo đảm, thông qua pháp luật và các biện pháp khác, việc thực hiện
các nguyên tắc này trên thực tế;
b) Thông qua các biện pháp pháp lý và các biện pháp thích hợp
khác, kể cả việc trừng phạt trong những trường hợp cần thiết, nhằm ngăn cấm tất
cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;
c) Thiết lập sự bảo vệ về mặt luật pháp các quyền của phụ nữ
trên cơ sở bình đẳng với nam giới và đảm bảo bảo vệ phụ nữ một cách có hiệu quả
chống lại bất kỳ hành động phân biệt đối xử nào thông qua các Tòa án quốc gia
có thẩm quyền và các thiết chế công cộng khác;
d) Kiềm chế tham gia bất kỳ hành động hoặc hoạt động nào có
tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và bảo đảm rằng các giới chức
và cơ quan chính quyền sẽ hành động phù hợp với nghĩa vụ này;
e) Thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ do bất kỳ cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nào
tiến hành;
f) Thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp, kể cả về mặt
pháp lý, nhằm sửa đổi hoặc xoá bỏ các luật và văn bản pháp luật hiện hành, các
tập quán và phong tục tạo nên sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;
g) Hủy bỏ tất cả quy định hình sự quốc gia mà tạo nên sự
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.
Điều 3.
Các quốc gia thành viên Công ước phải
tiến hành mọi biện pháp thích hợp, kể cả về mặt lập pháp, trên tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa, để đảm bảo sự phát
triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, với mục đích đảm bảo cho họ thực hiện và được
hưởng các quyền của con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới.
Điều 4.
1. Việc các quốc gia thành viên Công ước
thông qua những biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm thúc đẩy nhanh sự bình đẳng
trên thực tế giữa phụ nữ và nam giới sẽ không bị coi là phân biệt đối xử như đã
định nghĩa trong Công ước này, nhưng với điều kiện là không vì thế mà đưa đến
việc duy trì những tiêu chuẩn bất bình đẳng hoặc khác nhau giữa nam giới và phụ
nữ; và những biện pháp này phải được chấm dứt khi các mục tiêu bình đẳng về cơ
hội và đối xử giữa nam giới và phụ nữ đó đạt được.
2. Việc các quốc gia thành viên Công ước thông qua những biện
pháp đặc biệt nhằm bảo vệ thiên chức làm mẹ, kể cả các biện pháp đã định nghĩa
trong Công ước này, sẽ không bị coi là phân biệt đối xử.
Điều 5.
Các quốc gia thành viên Công ước phải
tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để:
a) Sửa đổi các khuôn mẫu văn hóa - xã hội về hành vi của nam
giới và phụ nữ, nhằm đạt được việc xoá bỏ những thành kiến, phong tục tập quán
và tất cả những hành động khác mà dựa trên tư tưởng cho giới này là hơn, cho giới
kia là kém, hoặc dựa trên nhận thức mang tính rập khuôn về vai trò của nam giới
và phụ nữ.
b) Để bảo đảm rằng giáo dục về gia đình bao gồm một sự
hiểu biết phù hợp về tính chất xã hội của chức năng làm mẹ và công nhận trách
nhiệm chung của cả cha và mẹ đối với sự trưởng thành và phát triển của trẻ em
con cái họ. Cần phổ biến nhận thức rằng trong tất cả các trường hợp, lợi ích của
trẻ em cần phải đặt lên hàng đầu.
Điều 6.
Các quốc gia thành viên Công ước phải
tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp, kể cả về lập pháp, để xoá bỏ tất cả
các hình thức buôn bán phụ nữ và bóc lột mại dâm phụ nữ.
Phần II
Điều 7.
Các quốc gia thành viên Công ước phải
tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ trong đời sống chính trị và công cộng của đất nước, cụ thể, phải đảm
bảo cho phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng với nam giới, các quyền:
a) Bỏ phiếu trong tất cả các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân,
và ứng cử vào tất cả các cơ quan mà áp dụng chế độ tuyển cử công khai:
b) Tham gia vào việc xây dựng và thực hiện các chính sách của
chính phủ, giữ các chức vụ trong các cơ quan công cộng và thực hiện tất cả chức
năng công cộng ở mọi cấp chính quyền;
c) Tham gia các tổ chức và hiệp hội phi chính phủ liên quan
đến đời sống công cộng và chính trị của đất nước.
Điều 8.
Các quốc gia thành viên Công ước phải
tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo cho phụ nữ, trên cơ sở
bình đẳng với nam giới mà không có sự phân biệt đối xử nào, có cơ hội đại diện
cho chính phủ của họ ở cấp quốc tế và tham gia vào công việc của các tổ chức quốc
tế.
Điều 9.
1. Các quốc gia thành viên Công ước phải
dành cho phụ nữ quyền bình đẳng với nam giới trong việc nhập, thay đổi hay giữ
nguyên quốc tịch của mình. Cụ thể, các nước phải bảo đảm rằng việc kết hôn với
người nước ngoài hay sự thay đổi quốc tịch của người chồng trong thời gian hôn
nhân sẽ không tự động dẫn tới việc thay đổi quốc tịch của người vợ, hoặc biến
người vợ thành người không có quốc tịch hay buộc người vợ phải lấy quốc tịch của
chồng.
2. Các quốc gia thành viên Công ước phải bảo đảm cho phụ nữ
các quyền bình đẳng với nam giới trong các vấn đề liên quan đến quốc tịch của
con cái họ.
Phần III
Điều 10.
Các quốc gia thành viên Công ước phải
áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ nhằm bảo đảm cho họ được hưởng các quyền bình đẳng với nam giới trong
lĩnh vực giáo dục, cụ thể nhằm bảo đảm những vấn đề dưới đây, trên cơ sở bình đẳng
nam nữ:
a) Những điều kiện như nhau trong giáo dục hướng nghiệp,
học nghề, tiếp cận với các hoạt động nghiên cứu và đạt được bằng cấp ở các cơ sở
giáo dục thuộc những tất cả các loại hình khác nhau, ở vùng nông thôn cũng như
thành thị; sự bình đẳng này phải được bảo đảm từ giai đoạn giáo dục mẫu giáo,
phổ thông, đào tạo kỹ thuật, chuyên môn, kể cả đào tạo kỹ thuật bậc cao, cũng
như tất cả các loại hình đào tạo nghề;
b) Có những chương trình giảng dạy và thi cử như nhau, các
giáo viên với trình độ chuyên môn tương đương, cơ sở vật chất và trang bị của
trường học có chất lượng tương đương;
c) Xóa bỏ bất kỳ quan niệm rập khuôn nào về vai trò của nam
giới và phụ nữ ở tất cả các cấp và trong tất cả các hình thức giáo dục, bằng
cách khuyến khích hình thức giáo dục chung cho cả học sinh nam nữ và các hình
thức giáo dục khác mà có tác dụng đạt tới mục tiêu này, đặc biệt là bằng cách sửa
lại các sách giáo khoa, chương trình học tập, và điều chỉnh các phương pháp giảng
dạy;
d) Nam giới và phụ nữ có những cơ hội như nhau về học bổng
và các trợ cấp học tập khác;
e) Phụ nữ được tạo những cơ hội như nam giới trong việc tham
gia các chương trình giáo dục thường xuyên, kể cả các chương trình xóa mù chữ
chức năng cho người lớn, đặc biệt là những chương trình nhằm thu hẹp trong thời
gian ngắn nhất có thể bất kỳ khoảng cách nào về giáo dục giữa nam giới và phụ nữ;
f) Giảm tỷ lệ nữ sinh bỏ học và tổ chức các chương trình
dành cho những phụ nữ và trẻ em gỏi đó phải bỏ học;
g) Đảm bảo cơ hội bình đẳng trong việc tham gia tích cực vào
các hoạt động giáo dục thể chất và các hoạt động thể thao;
h) Bình đẳng trong việc tiếp cận với những thông tin giáo dục
riêng biệt về đảm bảo sức khỏe và hạnh phúc gia đình, kể cả những thông tin và
tư vấn về kế hoạch hóa gia đình.
Điều 11.
1. Các quốc gia thành viên Công ước
phải áp dụng tất cả những biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ trong lĩnh vực việc làm, nhằm đảm bảo những quyền như nhau trên cơ sở
bình đẳng nam nữ, cụ thể là:
a) Quyền được làm việc, một quyền không thể chuyển nhượng của
tất cả mọi người;
b) Quyền được hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, kể cả
việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi tuyển dụng;
c) Quyền tự do lựa chọn ngành nghề và việc làm, quyền thăng
chức, an ninh việc làm, tất cả các phúc lợi và điều kiện dịch vụ, quyền được
đào tạo nghề và được đào tạo lại, kể cả thực tập nghề, đào tạo nâng cao và đào
tạo định kỳ;
d) Quyền được trả thù lao bình đẳng, kể cả trong việc hưởng
các phúc lợi, được trả lương như nhau khi làm những Công việc có giá trị ngang
nhau, cũng như được đối xử như nhau trong việc đánh giá chất lượng công việc;
e) Quyền được hưởng an sinh xã hội, đặc biệt trong các trường
hợp về hưu, thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các tình trạng mất khả
năng lao động khác, cũng như quyền được nghỉ phép có hưởng lương;
f) Quyền được bảo vệ sức khỏe và an toàn lao động, kể cả bảo
vệ chức năng sinh đẻ.
2. Nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ với
lý do hôn nhân hay sinh đẻ, để đảm bảo một cách hiệu quả quyền về việc làm cho
phụ nữ, các quốc gia thành viên Công ước phải áp dụng các biện pháp thích hợp
nhằm:
a) Cấm những hành động kỷ luật, sa thải phụ nữ với lý do có
thai hay nghỉ đẻ, và có sự phân biệt đối xử trong việc sa thải phụ nữ vỡ lý do
hôn nhân;
b) Áp dụng chế độ nghỉ đẻ vẫn hưởng lương hoặc được hưởng
các phúc lợi xã hội tương đương mà không bị mất việc làm cũ, mất thâm niên, hay
các phụ cấp xã hội;
c) Khuyến khích việc cung cấp những dịch vụ xã hội cần thiết
hỗ trợ cho các bậc cha mẹ để giúp họ có thể kết hợp các nghĩa vụ gia đình với
trách nhiệm Công tác và tham gia các hoạt động công cộng, cụ thể bằng cách thúc
đẩy việc thiết lập và sự phát triển của hệ thống các cơ sở chăm sóc trẻ em;
d) Đảm bảo sự bảo vệ đặc biệt đối với phụ nữ trong thời kỳ
mang thai trong những loại công việc đã được chứng minh là có hại cho họ.
e) Các quy định pháp luật về bảo vệ phụ nữ liên quan đến những
vấn đề được đề cập trong điều này phải được định kỳ xem xét lại, đối chiếu với
những tiến bộ mới của khoa học và kỹ thuật, để sửa đổi, hủy bỏ hoặc mở rộng nếu
cần thiết.
Điều 12.
1. Các quốc gia thành viên Công ước
phải áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nhằm đảm bảo cho họ, trên cơ sở
bình đẳng nam nữ, được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bao gồm những
dịch vụ liên quan đến kế hoạch hóa gia đình.
2. Ngoài những quy định trong khoản 1 điều này, các quốc gia
thành viên Công ước phải đảm bảo cho phụ nữ các dịch vụ thích hợp liên quan đến
việc thai nghén, sinh đẻ và thời gian sau khi đẻ, cung cấp các dịch vụ không phải
trả tiền nếu cần thiết, đảm bảo cho phụ nữ có đầy đủ dinh dưỡng trong thời gian
mang thai và cho con bú.
Điều 13.
Các quốc gia thành viên Công ước phải
áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ trong các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế và xã hội, nhằm đảm bảo cho
họ những quyền bình đẳng với nam giới, cụ thể là:
a) Quyền được hưởng trợ cấp gia đình;
b) Quyền vay tiền của ngân hàng, thế chấp tài sản và tham
gia các hình thức tín dụng khác;
c) Quyền được tham gia các hoạt động giải trí, thể thao và
vào tất cả các khía cạnh của đời sống văn hóa.
Điều 14.
1. Các quốc gia thành viên Công ước
phải xem xét các vấn đề cụ thể đặt ra đối với phụ nữ nông thôn và vai trò quan
trọng của phụ nữ nông thôn trong đời sống kinh tế của gia đình họ, bao gồm những
Công việc của họ trong khu vực kinh tế không tính thành tiền, và phải áp dụng tất
cả các biện pháp thích hợp để đảm bảo việc thực hiện các điều khoản của Công ước
này đối với phụ nữ ở các vùng nông thôn.
2. Các quốc gia thành viên Công ước phải áp dụng tất cả các
biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ ở các vùng
nông thôn để đảm bảo, trên cơ sở bình đẳng nam nữ, việc họ tham gia phát triển
nông thôn và được hưởng lợi từ sự phát triển đó; đặc biệt, các quốc gia thành
viên Công ước phải đảm bảo cho phụ nữ nông thôn các quyền;
a) Được tham gia xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển
ở tất cả các cấp;
b) Được tiếp cận với những điều kiện chăm sóc sức khỏe thích
đáng, kể cả về thông tin, tư vấn và những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình;
c) Được hưởng lợi ích trực tiếp từ các chương trình an sinh
xã hội;
d) Được tham gia tất cả các loại hình đào tạo, giáo dục, kể
cả chính quy và không chính quy, bao gồm các chương trình xoá mù chữ, và ngoài
những vấn đề khác, được hưởng lợi từ những dịch vụ chung trong cộng đồng để
nâng cao năng lực kỹ thuật của họ;
e) Được tổ chức các nhóm tương trợ và các hợp tác xã của phụ
nữ nhằm giúp nhau đạt được sự bình đẳng về cơ hội kinh tế qua các việc làm công
ăn lương hoặc việc làm độc lập;
f) Được tham gia tất cả các hoạt động của cộng đồng;
g) Được tiếp cận với các loại hình tín dụng và vay vốn trên
lĩnh vực nông nghiệp, những hỗ trợ về thị trường, kỹ thuật phù hợp và được đối
xử bình đẳng trong cải cách ruộng đất, cải cách nông nghiệp, cũng như trong các
dự án quy hoạch lại đất đai;
h) Được hưởng các tiêu chuẩn sống thích đáng, nhất là về vấn
đề nhà ở, điều kiện vệ sinh, cung cấp điện nước, thông tin liên lạc và giao
thông.
Phần IV
Điều 15.
1. Các quốc gia thành viên Công ước
phải thừa nhận sự bình đẳng của phụ nữ với nam giới trước pháp luật.
2. Trong các quan hệ dân sự, các quốc gia thành viên Công ước
phải thừa nhận phụ nữ có tư cách pháp lý giống như nam giới và những cơ hội như
nhau để thực hiện tư cách đó. Cụ thể, các quốc gia thành viên phải trao cho phụ
nữ quyền bình đẳng trong việc giao kết các hợp đồng, quản lý tài sản, và phải đối
xử với họ một cách bình đẳng trong tất cả các giai đoạn tố tụng trước các Tòa
án và cơ quan tài phán.
3. Các quốc gia thành viên Công ước nhất trí rằng, tất cả
các hợp đồng và tất cả các tài liệu riêng tư khác, dưới bất kỳ dạng nào mà có
tác động pháp lý dẫn đến việc hạn chế tư cách pháp lý của phụ nữ, sẽ bị coi là
vụ giá trị và không có hiệu lực thi hành.
4. Các quốc gia thành viên Công ước phải đảm bảo cho đàn ông
và phụ nữ có những quyền pháp lý như nhau Liên quan đến việc đi lại và tự do lựa
chọn nơi cư trú, chỗ ở.
Điều 16.
1. Các quốc gia thành viên phải áp dụng
tất cả các biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
trong tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình, cụ thể phải
bảo đảm những quyền dưới đây, trên cơ sở bình đẳng nam nữ:
a) Quyền kết hôn như nhau;
b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn
và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;
c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời
gian hôn nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy bỏ;
d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất
kể tình trạng hôn nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con cái họ.
Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi là điều quan trọng
nhất;
e) Quyền như nhau trong việc quyết định một cách tự do và có
trách nhiệm về số con và khoảng cách giữa các lần sinh, quyền được tiếp cận với
những thông tin, giáo dục và các phương tiện cho phép họ thực hiện các quyền
này;
f) Quyền và trách nhiệm như nhau đối trong các vấn đề về
nuôi dưỡng, giám hộ, bảo trợ, ủy thác và cho nhận con nuôi, hoặc trong những vấn
đề tương tự ở những nơi mà các khái niệm này có trong pháp luật quốc gia. Trong
tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi là điều quan trọng nhất;
g) Các quyền cá nhân như nhau giữa vợ và chồng, bao gồm quyền
được lựa chọn tên họ, nghề nghiệp, việc làm của bản thân mình;
h) Các quyền như nhau của cả vợ và chồng đối với việc sở hữu,
tiếp nhận, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là tài sản
không phải trả tiền, hay đó là tài sản có giá trị lớn;
2. Việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không
có hiệu lực pháp lý, và phải tiến hành tất cả các hành động cần thiết, kể cả lập
pháp, nhằm quy định tuổi tối thiểu có thể kết hôn và để bảo đảm việc kết hôn phải
được đăng ký một cách chính thức và bắt buộc.
Phần V
Điều 17.
1. Để xem xét những tiến bộ trong
công việc thực hiện Công ước này, sẽ thành lập Uỷ ban về xóa bỏ sự phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ (dưới đây sẽ gọi tắt là Uỷ ban), bao gồm 18 uỷ viên vào thời
điểm Công ước bắt đầu có hiệu lực, và sẽ tăng lên 23 người sau khi quốc gia thứ
35 phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước - là những chuyên gia có uy tín đạo đức và
thông thạo về các lĩnh vực được đề cập trong. Các uỷ viên Uỷ ban sẽ do các quốc
gia thành viên Công ước lựa chọn trong số các Công dân của nước mình, các chuyên
gia này đảm đương chức vụ với danh nghĩa cá nhân. Việc lựa chọn các uỷ viên Uỷ
ban cần chú ý đến sự phân bố cân bằng về mặt địa lý và tính đại diện của các
hình thỏi văn minh cũng như của các hệ thống pháp lý chủ yếu.
2. Các ủy viên của Uỷ ban được bầu bằng bỏ phiếu kín từ danh
sách do các quốc gia thành viên Công ước đề cử. Mỗi quốc gia thành viên Công ước
có quyền đề cử một ứng cử viên trong số các công dân của nước mình.
3. Lần bầu cử đầu tiên sẽ được tiến hành 6 tháng sau khi
Công ước có hiệu lực. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi thư cho các quốc gia
thành viên Công ước trước mỗi lần bầu cử ớt nhất là 3 tháng, đề nghị họ trong
vũng hai tháng phải giới thiệu ứng cử viên. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuẩn
bị một danh sách các ứng cử viên do các quốc gia giới thiệu theo thứ tự chữ
cái, có ghi rõ quốc gia nào chỉ định và danh sách này được gửi cho các quốc gia
thành viên Công ước.
4. Các ủy viên Uỷ ban sẽ được bầu trong một cuộc họp các quốc
gia tham gia Công ước do Tổng thư ký triệu tập tại trụ sở Liên Hợp Quốc. Cuộc họp
này phải có ớt nhất 2/3 tổng số các nước thành viên Công ước tham gia thì mới
có hiệu lực quyết định. Các ứng cử viên trúng cử là những người được nhiều phiếu
nhất và phải đạt được đa số tuyệt đối phiếu bầu của các nước tham gia bầu cử.
5. Các ủy viên của Uỷ ban được bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Tuy
nhiên, nhiệm kỳ của 5 trong số các ủy viên trúng cử trong lần bầu đầu tiên sẽ kết
thúc sau 2 năm. Ngay sau khi bầu cử lần đầu, chủ tịch Uỷ ban sẽ rút thăm để xác
định tên của 5 ủy viên này.
6. Năm ủy viên bổ sung sẽ được bầu theo quy định ở các khoản
2, 3 và 4 điều 17, sau khi quốc gia thứ 35 phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước.
Nhiệm kỳ của 2 trong số 5 ủy viên được bầu bổ sung là 2 năm. Chủ tịch Uỷ ban sẽ
rút thăm để xác định tên của 2 ủy viên này.
7. Trong trường hợp đột xuất, khi có một uỷ viên thôi không
thực hiện nhiệm vụ nữa, thì quốc gia tham gia Công ước mà ủy viên này là công
dân cần chỉ định người thay thế trong số các Công dân của mình, với điều kiện
người thay thế phải được Uỷ ban thông qua.
8. Các uỷ viên Uỷ ban sẽ được nhận thù lao từ các nguồn của
Liên Hợp Quốc, sau khi có sự chấp thuận của Đại hội đồng và phù hợp với những
điều kiện được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua. Hình thức và điều kiện trả
thù lao do Đại hội đồng quy định, căn cứ vào mức độ quan trọng của các trách
nhiệm trong Uỷ ban.
9. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ cung cấp nguồn nhân lực và
phương tiện để Uỷ ban có thể hoàn thành một cách hữu hiệu các chức năng của
mình theo quy định của Công ước này.
Điều 18.
1. Các quốc gia thành viên Công ước sẽ
cam kết gửi cho Uỷ ban, qua Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, để Uỷ ban xem xét báo
cáo về những biện pháp lập pháp, tư pháp và hành chính hay các biện pháp khác
mà họ đó tiến hành nhằm thực hiện các điều khoản của Công ước này và thông báo
về những tiến bộ đạt được trong vấn đề này:
a) Trong thời gian một năm kể từ khi Công ước có hiệu lực đối
với quốc gia;
b) Sau đó ít nhất cứ 4 năm một lần, và ngoài ra mỗi khi được
Uỷ ban yêu cầu.
2. Các báo cáo nói trên cần chỉ rõ những yếu tố và những khú
khăn làm ảnh hưởng đến mức độ hoàn thành nghĩa vụ nêu ra trong Công ước.
Điều 19.
1.Uỷ ban sẽ thông qua quy chế làm việc
riêng của mình;
2. Uỷ ban sẽ bầu ra các quan chức của mình với nhiệm kỳ 2 năm.
Điều 20.
1. Uỷ ban họp thường kỳ mỗi năm một lần
trong thời gian không quá 2 tuần để xem xét các báo cáo do các quốc gia thành
viên Công ước gửi đến theo điều 18 Công ước này.
2. Các cuộc họp của Uỷ ban thông thường được tổ chức ở trụ sở
của Liên Hợp Quốc, hoặc ở bất kỳ địa điểm thuận lợi nào do Uỷ ban quyết định.
Điều 21.
1. Hàng năm, thông qua Hội đồng Kinh
tế và Xã hội, Uỷ ban sẽ báo cáo về các hoạt động của mình với Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc, và có thể nêu những gợi ý hoặc kiến nghị có tính chất tổng quát trên
cơ sở xem xét các báo cáo, thông tin nhận được từ các quốc gia thành viên Công
ước. Những gợi ý và ý kiến ấy cần được nêu kèm theo báo cáo của Uỷ ban, cùng với
ý kiến, nếu có, của các quốc gia thành viên Công ước.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các báo cáo của Uỷ
ban cho Uỷ ban về Địa vị của phụ nữ để tham khảo.
Điều 22.
Các tổ chức chuyên mụn của Liên Hợp
Quốc có quyền cử đại diện tham gia xem xét việc thực hiện những điều khoản liên
quan đến hoạt động của mình trong Công ước này. Uỷ ban có thể đề nghị các tổ chức
chuyên mụn gửi báo cáo về việc thực hiện Công ước trong các lĩnh vực liên quan
đến chức năng hoạt động của những tổ chức này.
Phần VI
Điều 23.
Những quy định của Công ước này không
ảnh hưởng đến bất cứ kỳ quy định nào có lợi cho việc thực hiện bình đẳng nam nữ,
mà có thể có trong:
a) Luật pháp của một quốc gia thành viên Công ước, hoặc
b) Trong bất kỳ Công ước, hiệp ước hoặc thỏa thuận quốc tế
nào mà có hiệu lực pháp lý với nước đó.
Điều 24.
Các quốc gia thành viên Công ước cam
kết sẽ áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết ở cấp độ quốc gia nhằm thực hiện
đầy đủ các quyền đó được công nhận trong Công ước này.
Điều 25.
1. Công ước này sẽ để ngỏ cho tất cả
các quốc gia ký.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc được giao nhiệm vụ lưu chiểu
Công ước này.
3. Công ước này phải được phê chuẩn phải được gửi cho Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc lưu chiểu.
4. Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia gia nhập. Việc
gia nhập được thực hiện bằng cách nộp văn kiện xin gia nhập Công ước cho Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 26.
1. Bất kỳ lúc nào các quốc gia thành
viên đều có thể đề nghị sửa đổi, bổ sung Công ước này bằng cách gửi văn bản cho
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Nếu cần, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc sẽ quyết định các biện
pháp phải tiến hành trong trường hợp có đề nghị như trên.
Điều 27.
1. Công ước này sẽ có hiệu lực vào
ngày thứ 30, kể từ ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được văn kiện phê chuẩn
hoặc gia nhập thứ 20.
2. Đối với mỗi quốc gia thành viên phê chuẩn hoặc gia nhập
Công ước này sau khi văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 20 được Tổng thư ký
Liên Hợp Quốc lưu chiểu, Công ước sẽ có hiệu lực từ ngày thứ 30 kể từ ngày văn
kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của quốc gia đó được lưu chiểu.
Điều 28.
1. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ nhận
và thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên những bảo lưu do một quốc gia
đưa ra khi phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước.
2. Các bảo lưu không phù hợp với mục tiêu và mục đích của
Công ước này sẽ không được chấp nhận.
3. Các quốc gia thành viên có thể rút những bảo lưu vào bất
kỳ lúc nào bằng một văn bản thông báo gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, và Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên về việc
đó. Thông báo rút bảo lưu này sẽ có hiệu lực từ ngày Tổng thư ký nhận được.
Điều 29.
1. Mọi tranh chấp giữa hai hoặc nhiều
quốc gia thành viên xung quanh việc giải thích hoặc áp dụng Công ước này, nếu
không giải quyết được bằng thương lượng thì một trong các quốc gia đó có thể
yêu cầu đưa ra hoà giải. Nếu trong vũng 6 tháng kể từ khi yêu cầu hoà giải được
đưa ra mà các bên vẫn không đi đến thống nhất được về cách tổ chức hoà giải thì
một bên bất kỳ có thể đệ trình vấn đề tranh chấp với Tòa án Công lý quốc tế bằng
cách nộp đơn theo đúng quy chế của Tòa án.
2. Mọi quốc gia khi ký hay phê chuẩn Công ước này có thể
tuyên bố không bị ràng buộc bởi quy định trong khoản 1 điều 29. Các quốc gia
thành viên Công ước khác sẽ không bị ràng buộc bởi nội dung của khoản này trong
quan hệ với quốc gia đó có bảo lưu như vậy.
Bất kỳ quốc gia thành viên nào đó có bảo lưu theo khoản 2 điều
này đều có thể rút bảo lưu vào bất kỳ lúc nào bằng cách gửi văn bản thông báo
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 30.
Công ước này, mà các văn bản bằng tiếng
Ả-rập, Trung, Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha đều có giá trị như nhau, được nộp
lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Để làm bằng, các đại diện có đủ thẩm quyền có tên dưới đây
đó ký vào văn bản Công ước này.