CÔNG ƯỚC
VỀ KẾT HÔN TỰ NGUYỆN,
TUỔI KẾT HÔN TỐI THIỂU VÀ VIỆC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, 1962
(Được thông
qua và để ngỏ cho các nước ký, phê chuẩn theo Nghị quyết 1763 (XVII) ngày 07/11/1962
của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Có hiệu lực ngày 09/12/1964, phù hợp với Điều
6).
Các
Quốc gia thành viên,
Mong
muốn, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, thúc đẩy sự tôn trọng
và thực hiện trên phạm vi toàn cầu các quyền và tự do cơ bản của con người cho
tất cả mọi người, không phân biệt về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn
giáo;
Nhắc
lại rằng, Điều 16 của Tuyên ngôn Toàn thế giới về
Quyền con người đã nêu rõ:
1. Nam và nữ khi đủ tuổi, không hạn chế về chủng
tộc, quốc tịch hay tôn giáo, đều có quyền kết hôn và lập gia đình. Họ có quyền
được hưởng những quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân và sau khi
hôn nhân tan vỡ.
2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý
hoàn toàn và tự nguyện của các cặp kết hôn;
Nhắc
lại thêm rằng, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, theo Nghị quyết 843 (IX)
ngày 17/12/1954, đã tuyên bố rằng, một số tập quán, luật lệ và hủ tục liên quan
đến hôn nhân và gia đình không phù hợp với những nguyên tắc quy định tại Hiến
chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người cần được
xóa bỏ;
Khẳng
định lại rằng, tất cả các quốc gia, kể cả những quốc gia có hoặc giữ
trách nhiệm quản lý các Lãnh thổ Ủy trị và Lãnh thổ Quản thác cho đến khi những
lãnh thổ này giành được độc lập, cần thực hiện tất cả những biện pháp thích hợp
nhằm xóa bỏ những tập quán, luật lệ và hủ tục này, bằng việc đảm bảo sự tự do
hoàn toàn trong việc lựa chọn vợ hoặc chồng, xóa bỏ hoàn toàn những trường hợp
tảo hôn và hứa hôn cho trẻ em gái trước khi đến tuổi dậy thì, có những hình phạt
thích hợp trong trường hợp cần thiết, và lập một cơ quan đăng ký dân sự hoặc cơ
quan đăng ký khác, trong đó lưu giữ hồ sơ của tất cả các cuộc hôn nhân.
Dưới
đây nhất trí theo những điều khoản sau:
Điều 1.
1. Mọi cuộc hôn nhân sẽ được coi là tiến hành
trái pháp luật nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên. Sự
đồng ý này phải được các bên bày tỏ trực tiếp sau khi đã khai báo đầy đủ và với
sự hiện diện của cơ quan chức năng có thẩm quyền tuyên bố công nhận hôn nhân và
những người chứng kiến theo quy định của pháp luật.
2. Ngoại trừ những quy định tại khoản 1 ở trên,
một trong các bên có thể không cần thiết có mặt nếu cơ quan chức năng có thẩm
quyền chấp nhận rằng đây là trường hợp ngoại lệ, và rằng bên đó, trước một cơ
quan chức năng có thẩm quyền và theo một phương thức do pháp luật quy định, đã
bày tỏ và không rút lại sự đóng ý.
Điều 2.
Các Quốc gia thành viên của Công ước này cần có
hành động lập pháp nhằm cụ thể hóa độ tuổi tối thiểu được kết hôn. Mọi cuộc hôn
nhân của bất kỳ cá nhân nào được tiến hành dưới độ tuổi này sẽ bị coi là trái
pháp luật, trừ trường hợp cơ quan chức năng có thẩm quyền cho miễn về tuổi tác
vì những lý do nghiêm trọng, phù hợp với lợi ích của những cặp kết hôn.
Điều 3.
Tất cả các cuộc hôn nhân phải được đăng ký trong
hồ sơ đăng ký chính thức của cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Điều 4.
1. Công ước này, tính đến ngày 31 tháng 12 năm
1963, để ngỏ cho việc ký kết của tất cả các Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
hoặc của các Quốc gia thành viên của các cơ quan chuyên môn Liên Hợp Quốc, cũng
như của bất kỳ quốc gia nào được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc mời ký kết.
2. Công ước này phải được phê chuẩn. Các văn kiện
phê chuẩn sẽ được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc lưu chiểu.
Điều 5.
1.
Công ước này sẽ để ngỏ cho việc gia nhập đối với tất cả các quốc
gia được đề cập tại khoản 1 của Điều 4.
2. Việc gia nhập sẽ có hiệu lực sau khi văn kiện
gia nhập được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc lưu chiểu.
Điều 6.
1.
Công ước này sẽ có hiệu lực sau 90 ngày kể từ ngày văn kiện phê chuẩn
hoặc gia nhập thứ 8 được lưu chiểu.
2. Đối với quốc gia phê chuẩn hoặc gia nhập Công
ước sau khi vãn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 8 được lưu chiểu, Công ước này
sẽ có hiệu lực sau 90 ngày kể từ ngày quốc gia đó nộp lưu chiểu văn kiện phê
chuẩn hoặc gia nhập của mình.
Điều 7.
1.
Mọi Quốc gia thành viên có thể rút khỏi Công ước này bằng cách gửi
văn bản thông báo cho Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc. Việc bãi ước sẽ có hiệu lực
sau một năm kể từ ngày Tổng Thư ký nhận được thông báo.
2. Công ước này sẽ không còn hiệu lực kể từ thời
điểm mà văn bản bãi ước khiến cho số Quốc gia thành viên của Công ước giảm xuống
ít hơn 8 quốc gia có hiệu lực.
Điều 8.
Bất kỳ tranh chấp nào phát sinh giữa hai hay nhiều
Quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước này mà
không giải quyết được bằng thương lượng, thì theo đề nghị của tất cả các bên
tranh chấp, sẽ được chuyển tới Tòa án Công lý Quốc tế để phán xử, trừ trường hợp
các bên nhất trí có một phương thức giải quyết khác.
Điều 9.
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả
các Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc và các quốc gia chưa phải là thành
viên được nêu tại khoản 1 của Điều 4 của Công ước này về:
1. Các nước đã ký và
các văn kiện phê chuẩn nhận được phù hợp với Điều 4;
2. Các văn kiện gia nhập
nhận được phù hợp với Điều 5;
3. Ngày Công ước có hiệu
lực phù hợp với Điều 6;
4. Những thông báo chấm
dứt hiệu lực nhận được phù hợp với khoản 1 của Điều 7;
5. Việc bãi ước phù hợp
với khoản 2 của Điều 7.
Điều 10
1. Công ước này được làm bằng tiếng Trung Quốc,
Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha, các bản có giá trị như nhau và sẽ được lưu giữ tại
Kho lưu trữ tư liệu của Liên Hợp Quốc.
2. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi một bản sao
Công ước có chứng thực cho tất cả các Quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và các
quốc gia chưa phải là thành viên được nêu tại khoản 1 của Điều 4.