CÔNG
ƯỚC VỀ CÁC DÂN TỘC VÀ BỘ LẠC BẢN ĐỊA Ở CÁC QUỐC GIA ĐỘC LẬP, 1989
(Công ước số 169,
được Đại Hội đồng của Tổ chức Lao động quốc tế thông qua trong kỳ họp lần thứ
76, ngày 27/6/1989. Có hiệu lực từ ngày 05/9/1991).
Đại Hội đồng của Tổ chức Lao động quốc tế, được Hội
đồng Quản trị Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập trong kỳ họp lần thứ 76,
ngày 7/6/1989.
Ghi nhớ những chuẩn mực quốc tế đã được thiết
lập trong Công ước và Khuyến nghị của ILO về nhân dân bản địa và bộ lạc năm
1957,
Nhắc lại những chuẩn mực được ghi nhận trong
Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người; Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội, văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự. chính trị và nhiều
văn kiện quốc tế khác về ngăn chặn sự phân biệt đối xử, và
Nhận thức rằng, sự phát triển trong luật quốc
tế từ năm 1957 cũng như sự phát triển về tình hình của nhân dân bản địa và bộ lạc
ở tất cả các khu vực trên thế giới đã cho thấy sự cần thiết phải thông qua những
chuẩn mực quốc tế mới về chủ đề người bản địa, với mục đích xóa bỏ xu hướng đồng
hóa trong các chuẩn mực trước đó, và
Thừa nhận những nguyện vọng khát khao của
các dân tộc bản địa trong việc thiết lập và điều hành những thiết chế riêng của
họ; trong việc xác lập cách sống, sự phát triển kinh tế và việc duy trì, phát
triển những bản sắc, ngôn ngữ, tôn giáo của họ, trong khuôn khổ của các quốc
gia mà họ sống, và
Ghi nhớ rằng, ở nhiều khu vực trên thế giới,
những dân tộc bản địa vẫn chưa được hưởng thụ những quyền con người cơ bản của họ
giống như những cộng đồng khác trong cùng một quốc gia mà họ đang sống, và rằng,
luật pháp, các giá trị, tập quán và tiền đồ của họ vẫn bị hao mòn, và
Kêu gọi quan tâm tới sự đóng góp đặc biệt của
các dân tộc và bộ tộc bản địa vào tính đa dạng và hài hòa về văn hóa, xã hội,
sinh thái của nhân loại và sự hợp tác và hiểu biết quốc tế, và
Ghi nhớ rằng, những quy định sau đây đã được
soạn thảo với sự hợp tác của Liên Hợp Quốc; Tổ chức Nông - Lương của Liên Hợp
Quốc; Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Y tế thế
giới cũng như của Viện người da đỏ Liên Mỹ, ở tất cả các cấp độ và lĩnh vực
tương ứng, và rằng, cần tiếp tục sự hợp tác trong việc thúc đẩy và bảo đảm sự
áp dụng các quy định này, và
Quyết định chấp nhận những đề xuất cụ thể
liên quan đến sự sửa đổi từng phần của Công ước về nhân dân bản địa và bộ lạc
năm 1957 (Công ước số 107 của ILO) thể hiện trong bốn mục trong chương trình
nghị sự của kỳ họp, và
Đã quyết định rằng, những đề xuất này cần được
thể hiện dưới hình thức của một điều ước quốc tế sửa đổi Công ước về nhân dân bản
địa và bộ lạc năm 1957,
Thông qua Công ước này vào ngày 27/6-1989, gọi
là Công ước về các dân tộc và bộ lạc bản địa năm 1989.
PHẦN I: CHÍNH SÁCH CHUNG
Điều 1.
1. Công ước này áp dụng cho:
a. Các bộ tộc trong các quốc gia độc lập mà tình trạng
kinh tế, xã hội, văn hóa của họ khác biệt so với các bộ phận dân cư khác trong
quốc gia đó, và một phần hay toàn bộ vị thế của họ được quy định bởi các tập tục
truyền thống hay các luật lệ, quy định đặc biệt của riêng họ.
b. Các dân tộc trong các quốc gia độc lập mà được đề
cập như là những người bản địa, trên cơ sở xem xét nguồn gốc của các cộng đồng
dân cư định cư ở quốc gia đó, hoặc trên cơ sở khu vực địa lý mà quốc gia đó thuộc
vào, mà ở thời điểm sự xâm chiếm, thuộc địa hóa hay việc thiết lập đường biên
giới hiện tại của quốc gia đó thì họ là những người, bất kể vị thế pháp lý của
họ, đã duy trì được một số hoặc tất cả các thể chế về chính trị, văn hóa, kinh
tế và xã hội của riêng cộng đồng mình.
2. Sự tự đồng nhất với phạm trù người bản địa hay bộ
tộc sẽ được coi như là một tiêu chuẩn cơ bản cho việc xác định các nhóm là chủ
thể được áp dụng các quy định trong Công ước này.
3. Việc sử dụng thuật ngữ "các dân tộc"
trong Công ước này không có nghĩa là gắn với việc áp dụng tất cả các quyền liên
quan đến khái niệm này trong luật quốc tế.
Điều 2.
1. Các chính phủ phải có
trách nhiệm phát triển, với sự tham gia của các dân tộc được đề cập trong Công
ước này, các hành động mang tính hệ thống và phối hợp, để bảo vệ các quyền của
các dân tộc và bảo đảm sự tôn trọng tính toàn vẹn của họ.
2. Những hành động như vậy cần phải bao gồm các biện
pháp:
a. Bảo đảm rằng các thành viên của các dân tộc được
hưởng thụ trên cơ sở bình đẳng, các quyền và cơ hội mà pháp luật và quy định của
quốc gia trao cho các thành viên của các cộng đồng khác.
b. Thúc đẩy sự thừa nhận đầy đủ các quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa của các dân tộc này đồng thời với việc bảo đảm sự tôn trọng
tính toàn vẹn về văn hóa, xã hội của họ, các tập quán, truyền thống và các thể
chế của họ.
c. Trợ giúp các thành viên của các dân tộc được đề
cập trong Công ước này xóa bỏ những khoảng cách về văn hóa - xã hội mà có thể
đang hiện hữu giữa những người bản địa và những thành viên khác của cộng đồng
quốc gia, theo tinh thần phù hợp với những nguyện vọng về cách sống của họ.
Điều 3.
1 . Các dân tộc và bộ
tộc bản địa phải được hưởng thụ đầy đủ các quyền và tự do cơ bản mà không bị cản
trở hoặc phân biệt đối xử. Các quy định của Công ước này phải được áp dụng
không có sự phân biệt đối xử giữa các thành viên nam hay nữ trong các dân tộc
này.
2. Không được sử dụng các thủ tục, quyền lực hoặc sự
ép buộc nào để vi phạm các quyền con người và tự do cơ bản của các dân tộc bản
địa, bao gồm các quyền được ghi nhận trong Công ước này.
Điều 4.
1. Khi cần thiết, cần
ban hành các biện pháp đặc biệt để bảo vệ những cá nhân, thể chế, tài sản, công
việc, văn hóa và môi trường của các dân tộc được đề cập trong Công ước này.
2. Các biện pháp đặc biệt này sẽ không được trái với
những ước nguyện thực sự của các dân tộc được đề cập trong Công ước này.
3. Việc hưởng thụ các quyền cơ bản của công dân
không có sự phân biệt đối xử, theo bất kỳ cách thức nào, phải không được làm tổn
hại đến các biện pháp đặc biệt như vậy.
Điều 5.
Trong việc áp dụng các quy định
của Công ước:
1. Các giá trị tư tưởng, tín ngưỡng, văn hóa, xã hội
và các thói quen của các dân tộc này phải được thừa nhận và bảo vệ, và cần phải
lưu ý đến bản chất của các vấn đề khó khăn mà cả các cá nhân cũng như các nhóm
này phải đối mặt.
2. Tính toàn vẹn của các giá trị, thói quen và thể
chế của các dân tộc này phải được tôn trọng.
3. Cần ban hành những chính sách hướng vào việc giảm
nhẹ những khó khăn mà các dân tộc này phải gánh chịu trong những hoàn cảnh mới
của cuộc sống, với sự tham gia và hợp tác của các dân tộc được đề cập trong
Công ước này.
Điều 6.
1. Trong việc áp dụng
các quy định của Công ước này, các chính phủ phải:
a. Lấy ý kiến tư vấn của các dân tộc được đề cập
trong Công ước này, thông qua các thủ tục phù hợp và các thể chế đại diện cụ thể
của họ vào bất cứ khi nào có sự cân nhắc đưa các biện pháp pháp lý và hành
chính có liên quan trực tiếp đến họ.
b. Thiết lập các biện pháp để cho các dân tộc này
có thể tham gia một cách tự do, ít nhất là với mức độ rộng rãi như các bộ phận
dân cư khác, vào tất cả các cấp độ của quá trình ra quyết định trong các thể chế
dân cử, hành chính và các cơ quan có trách nhiệm thiết lập các chính sách.
chương trình liên quan đến họ.
2. Cần lấy ý kiến tư vấn của các dân tộc này trong
quá trình áp dụng Công ước, với niềm tin và bằng hình thức thích hợp, với mục
đích nhằm đạt được sự nhất trí hoặc đồng ý của họ về các biện pháp đưa ra.
Điều 7.
1. Các dân tộc được đề cập
trong Công ước này có quyền được quyết định những ưu tiên của riêng họ trong
các tiến trình phát triển mà tác động đến cuộc sống, tín ngưỡng, các thể chế và
sự hài hòa về tinh thần của họ, cũng như liên quan đến đất đai mà họ đang chiếm
hữu hay sử dụng; và phải mở rộng sự tham gia quản lý của họ ở mức rộng rãi có
thể vào sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của riêng họ.
2. Việc thúc đẩy điều kiện sống, việc làm, các cấp
độ về chăm sóc y tế và sức khỏe cho các dân tộc được đề cập trong Công ước này,
với sự tham gia và hợp tác của họ, cần phải coi là một vấn đề ưu tiên trong kế
hoạch phát triển toàn diện về kinh tế ở các vùng họ cư trú. Cũng cần thiết phải
xây dựng các dự án đặc biệt về phát triển các khu vực như vậy để thúc đẩy tiến
trình này.
3. Các chính phủ phải bảo đảm rằng, ở bất cứ nơi
nào thích hợp, tiến hành các nghiên cứu, với sự tham gia của các dân tộc được đề
cập trong Công ước này, về những tác động tới họ trong các hoạt động phát triển
đã được xác định, trên các lĩnh vực về môi trường, văn hóa, tinh thần và xã hội
của họ.
4. Các chính phủ phải tiến hành các biện pháp, với
sự hợp tác của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, để bảo vệ và bảo tồn
môi trường tự nhiên ở các khu vực mà họ đang cư trú.
Điều 8.
1. Trong việc áp dụng các luật
lệ và quy định với các dân tộc được đề cập trong Công ước này, cần chú ý thích
đáng đến các tập quán và luật tục của họ.
2. Những dân tộc được đề cập trong Công ước này phải
có quyền được duy trì những tập quán và thể chế của riêng họ, nếu như chúng
không trái với những quyền cơ bản được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc
gia và với những quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.
Các thủ tục phải được thiết lập ở những nơi cần thiết, để giải quyết những xung
đột có thể phát sinh trong việc áp dụng nguyên tắc này.
3. Việc áp dụng quy định trong đoạn 1 và 2 của điều
này không ngăn cản các thành viên của các dân tộc được đề cập trong Công ước
này được hưởng thụ các quyền và phải gánh vác những trách nhiệm pháp lý mà được
quy định với tất cả các công dân của quốc gia đó.
Điều 9.
1. Để mở rộng sự phù hợp với
hệ thống pháp luật quốc gia và những quyền con người đã được cộng đồng quốc tế
thừa nhận rộng rãi, cần tôn trọng các biện pháp xử lý những người vi phạm các
luật lệ trong nội bộ dân tộc theo truyền thống của các dân tộc được đề cập
trong Công ước này.
2. Các tập quán của các dân tộc được đề cập trong
Công ước này liên quan tới vấn đề hình sự sẽ được xét xử bởi các nhà chức trách
và tòa án có thẩm quyền trong các vụ việc đó.
Điều 10.
1. Trong việc quyết định các
hình phạt được quy định trong pháp luật chung với những thành viên của các dân
tộc được đề cập trong Công ước này cần tính đến những đặc thù về kinh tế, xã hội
và văn hóa của họ.
2. Trong việc xử lý hình sự những thành viên của
các dân tộc được đề cập trong Công ước này cần lựa chọn các biện pháp trừng phạt
khác, hơn là biện pháp bỏ tù.
Điều 11.
Việc đòi hỏi các thành viên
của các dân tộc được đề cập trong Công ước này phải thực hiện những công việc
cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào, dù có được trả công hay không, đều phải bị
cấm và bị pháp luật trừng trị, trừ khi những công việc đó được pháp luật quy định
với tất cả công dân của quốc gia.
Điều 12.
Những dân tộc được đề cập
trong Công ước này phải được bảo vệ chống lại những vi phạm các quyền của họ và
phải có khả năng tiếp cận với các thủ tục pháp lý, với tư cách cá nhân hay
thông qua các cơ quan đại diện của họ, để có sự bảo vệ có hiệu quả với các quyền
này. Phải tiến hành các biện pháp nhằm bảo đảm rằng các thành viên của các dân
tộc được đề cập trong Công ước này có thể hiểu và được hiểu những diễn biến
trong các tiến trình tố tụng pháp lý có liên quan tới họ ở những nơi cần thiết,
thông qua việc quy định về phiên dịch hoặc các biện pháp có hiệu quả khác.
PHẦN II: ĐẤT ĐAI
Điều 13.
1. Trong khi áp dụng các quy
định trong phần này của Công ước, các Quốc gia thành viên phải tôn trọng tầm
quan trọng của các giá trị tinh thần và văn hóa mà liên quan đến các vùng đất
đai hoặc lãnh thổ của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, hoặc khi có
thể với cả các vùng đất đai hoặc lãnh thổ, mà họ đang sinh sống hoặc sử dụng,
và đặc biệt là các khía cạnh tập thể của quan hệ đó.
2. Việc sử dụng thuật ngữ "đất đai" trong
Điều 15 và 16 của Công ước sẽ bao gồm cả các lãnh thổ bao chứa các khu vực môi
trường toàn vẹn mà trên đó các dân tộc được đề cập trong Công ước này đang cư
trú hoặc sử dụng.
Điều 14.
1. Quyền sở hữu và quyền chiếm
hữu các vùng đất đai mà họ đã cư trú một cách truyền thống của các dân tộc được
đề cập trong Công ước này phải được thừa nhận. Thêm vào đó: cần phải đưa ra các
biện pháp, trong những trường hợp thích hợp, để bảo vệ quyền của các dân tộc được
đề cập trong Công ước này được sử dụng các vùng đất đai mà họ cùng cư trú với
các cộng đồng khác, nhưng xét về mặt truyền thống, họ đã cư trú trên và khai
thác các vùng đất đó từ trước tới nay. Cần phải đặt sự quan tâm đặc biệt với
hoàn cảnh của các dân tộc du cư và làm nông nghiệp.
2. Các chính phủ phải tiến hành những biện pháp cần
thiết để xác định các vùng đất đai mà các dân tộc được đề cập trong Công ước
này cư trú trong truyền thống, và để bảo đảm sự bảo vệ có hiệu quả các quyền sở
hữu và chiếm hữu của họ.
Điều 15.
1. Các quyền với các
nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng đất đai của các dân tộc được đề cập
trong Công ước này phải được bảo vệ đặc biệt. Những quyền này bao gồm quyền của
những dân tộc đó được tham gia vào việc sử dụng, quản lý và bảo tồn những nguồn
tài nguyên đó.
2. Trong trường hợp mà các quốc gia duy trì
quyền sở hữu công cộng với các khoáng sản hoặc các nguồn tài nguyên dưới lòng đất
hoặc các quyền với các nguồn tài nguyên khác ở một vùng đất, các chính phủ phải
thiết lập và duy trì những thủ tục lấy ý kiến tư vấn của các dân tộc được đề cập
trong Công ước này, nhằm xác định là các quyền lợi của các dân tộc được đề cập
trong Công ước này có bị ảnh hướng hay không và ảnh hưởng như thế nào, trước
khi quyết định hoặc cho phép tiến hành bất kỳ một chương trình khảo sát hoặc
khai thác những nguồn tài nguyên như vậy ở trên các vùng đất đó. Các dân tộc được
đề cập trong Công ước này phải được hưởng lợi từ các hoạt động khai thác đó ở bất
cứ nơi nào, và phải được nhận sự đền bù cho bất kỳ sự thiệt hại nào mà họ phải
gánh chịu do hậu quả từ những hành động khảo sát, khai thác đó.
Điều 16.
1. Các dân tộc được đề
cập trong Công ước này sẽ không bị di dời khỏi các vùng đất đai mà họ đang sinh
sống trong các bối cảnh nêu ở các đoạn dưới đây.
2. Việc tái định cư các dân tộc được đề cập trong
Công ước này cần thiết phải được xem như là một biện pháp ngoại lệ, việc tái định
cư như vậy chỉ được thực hiện với sự đồng ý một cách tự do và có nhận thức của
họ. Tại những nơi mà không thể đạt được sự tự nguyện đồng ý của họ, việc tái định
cư như vậy chỉ được thực hiện theo những thủ tục thích hợp mà được quy định
trong pháp luật và các quy định của quốc gia, bao gồm những hướng dẫn chung ở
những nơi thích hợp mà cho phép các dân tộc được đề cập trong Công ước này có
cơ hội đại diện có hiệu quả trong quá trình đó.
3. Tại bất kỳ nơi nào có thể, các dân tộc được đề cập
trong Công ước này phải có quyền được trở lại những vùng đất truyền thống của họ
ngay khi những cơ sở cho việc tái định cư họ ở vùng đất khác không còn nữa.
4. Khi việc trở về như vậy là không thể được, theo
quyết định trong một thỏa thuận, hoặc nếu như không có một thỏa thuận như vậy,
thì thông qua những thủ tục thích hợp, các dân tộc được đề cập trong Công ước
này phải được cung cấp tất cả những khả năng có thể được định cư ở những vùng đất
có chất lượng và với vị thế pháp lý ít nhất là ngang bằng với những vùng đất mà
họ đã sinh sống trước đó, các vùng đất mới đó phải phù hợp với những nhu cầu hiện
tại và sự phát triển trong tương lai của họ. Tại những nơi mà các dân tộc được
đề cập trong Công ước này bày tỏ yêu cầu về sự bồi thường bằng tiền hoặc về những
thứ khác, họ phải được bảo đảm sự bồi thường như vậy.
5. Những người mà đã tái định cư phải được đền bù đầy
đủ cho tất cả những thiệt hại và mất mát mà họ phải gánh chịu.
Điều 17.
1. Các thủ tục do các
dân tộc được đề cập trong Công ước này đã thiết lập liên quan đến việc chuyển
các quyền về đất đai giữa các thành viên trong cộng đồng của họ với nhau phải
được tôn trọng.
2. Các dân tộc được đề cập trong Công ước này phải
được trưng cầu ý kiến bất cứ khi nào đặt ra việc xem xét việc chuyển nhượng các
vùng đất của họ hoặc các hình thức chuyển giao khác về các quyền của họ diễn ra
bên ngoài cộng đồng của họ.
3. Cần phải ngăn chặn việc những người không thuộc
các dân tộc này kiếm lợi từ việc khai thác các tập tục của họ hoặc từ việc thiếu
hiểu biết về pháp luật của một số thành viên trong các cộng đồng của họ, liên
quan tới các quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc sử dụng các vùng đất đai của họ.
Điều 18.
Cần quy định các hình phạt
thích đáng trong pháp luật với các hành vi xâm lấn, sử dụng trái phép đất đai của
các dân tộc được đề cập trong Công ước này, và các chính phủ phải đưa ra các biện
pháp để ngăn ngừa những hành động như vậy.
Điều 19.
Các chương trình đất đai quốc
gia phải bảo đảm cho các dân tộc được đề cập trong Công ước này sự đối xử tương
tự mà các cộng đồng khác trong quốc gia được hưởng, liên quan tới:
1. Quy định về đất đai thêm cho các dân tộc được đề
cập trong Công ước này khi họ không có các khu vực cần thiết mà có thể cung cấp
những thứ thiết yếu cho cuộc sống bình thường, hoặc cho bất kỳ sự tăng trưởng
dân số nào của họ.
2. Quy định về các biện pháp cần thiết cho việc
thúc đẩy sự phát triển ở các vùng đất mà họ đã chiếm hữu.
PHẦN III: TUYỂN DỤNG VÀ CÁC
ĐIỀU KIỆN LÀM VIỆC
Điều 20.
1 . Trong phạm vi luật
pháp và quy định của quốc gia và trong việc hợp tác với các dân tộc được đề cập
trong Công ước này, các chính phủ phải thông qua những biện pháp đặc biệt để bảo
đảm sự bảo vệ có hiệu quả về việc tuyển dụng và các điều kiện làm việc cho những
người lao động thuộc các dân tộc được đề cập trong Công ước này, trong chừng mực
mà họ không được bảo vệ một cách có hiệu quả bằng pháp luật áp dụng cho những
người lao động nói chung.
2. Các chính phủ phải làm tất cả những gì có thể để
ngăn chặn bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa những người lao động thuộc các
dân tộc được đề cập trong Công ước này và những người lao động khác cụ thể liên
quan tới:
a. Việc thu nhận vào làm việc, bao gồm cả các việc
làm đòi hỏi kỹ năng cũng như trong việc thăng chức và đề bạt.
b. Việc trả lương bình đẳng cho các công việc như
nhau.
c. Sự trợ giúp xã hội và y tế, an toàn và vệ sinh
lao động, tất cả các lợi ích về bảo trợ xã hội và bất kỳ lợi ích nào khác liên
quan đến việc làm, và nơi ở;
d. Quyền được lập hội và tự do hoạt động công đoàn
theo pháp luật và quyền được thỏa ước tập thể với những người sử dụng lao động
hoặc với các tổ chức của những người sử dụng lao động.
3. Các biện pháp đó cần bảo đảm rằng:
a. Những người lao động thuộc các dân tộc được đề cập
trong Công ước này, bao gồm lao động di trú, lao động theo mùa, lao động theo vụ
việc trong nông nghiệp và trong các nghề nghiệp khác, cũng như lao động theo hợp
đồng, đều được hưởng sự bảo vệ của luật pháp quốc gia như những người lao động
thuộc các cộng đồng khác trong cùng các bối cảnh như vậy.
b. Những người lao động thuộc các dân tộc dược đề cập
trong Công ước này không phải làm việc trong các điều kiện có hại cho cho sức
khỏe của họ, đặc biệt là các công việc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu và các
hóa chất độc hại khác.
c. Những người lao động nam và nữ thuộc các dân tộc
được đề cập trong Công ước này được hưởng các cơ hội bình đẳng và được đối xử
bình đẳng trong lao động, và được bảo vệ khỏi sự quấy rối tình dục.
4. Phải có sự quan tâm đặc biệt tới việc thiết lập
các cơ quan thanh tra lao động thích hợp ở những vùng mà những người lao động
thuộc các dân tộc được đề cập trong Công ước này đang làm việc để bảo đảm sự
tuân thủ các quy định trong Phần này của Công ước.
PHẦN IV: ĐÀO TẠO NGHỀ, THỦ
CÔNG VÀ CÁC NGHỀ NGHIỆP NÔNG THÔN
Điều 21.
Các thành viên của các dân tộc
được đề cập trong Công ước này phải được hưởng các cơ hội ít nhất là ngang bằng
với những công dân thuộc các cộng đồng khác về vấn đề đào tạo nghề nghiệp.
Điều 22.
1 . Cần tiến hành các
biện pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia tự nguyện của các thành viên của các dân tộc
được đề cập trong Công ước này vào các chương trình đào tạo nghề nghiệp được áp
dụng chung.
2. Bất cứ khi nào có các chương trình đào tạo nghề
nghiệp được áp dụng chung mà không đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của các dân tộc
được đề cập trong Công ước này, các chính phủ phải bảo đảm cung cấp cho các dân
tộc đó những chương trình đào tạo và trợ giúp đặc biệt, với sự tham gia của các
dân tộc đó.
3. Bất kỳ chương trình đào tạo đặc biệt nào cũng phải
dựa trên các điều kiện về văn hóa, xã hội, kinh tế, môi trường và các nhu cầu
thực tế của các dân tộc được đề cập trong Công ước này. Bất kỳ nghiên cứu nào về
vấn đề này cần được thực hiện với sự cộng tác của các dân tộc được đề cập trong
Công ước này đều phải lấy ý kiến tư vấn của họ về việc tổ chức và điều hành các
chương trình như vậy. Tại những nơi có thể thực hiện được, các dân tộc được đề
cập trong Công ước này phải từng bước được giao gánh vác trách nhiệm trong việc
tổ chức và điều hành các chương trình đào tạo đặc biệt như vậy, nếu họ muốn.
Điều 23.
1. Những nghề thủ công, các
nghề nghiệp có tính cộng đồng và ở nông thôn, nền kinh tế hiện hữu và các hoạt
động sinh kế truyền thống của các dân tộc được đề cập trong Công ước này như
săn bắn, đánh cá, đánh bẫy và hái lượm, phải được thừa nhận như là những yếu tố
quan trọng trong việc duy trì các nền văn hóa của họ và trong sự tự lực về kinh
tế và phát triển của họ. Các chính phủ phải bảo đảm rằng những hoạt động này được
tăng cường và phát triển, với sự tham gia của những dân tộc được đề cập trong
Công ước này vào bất cứ khi nào thích hợp.
2. Trên cơ sở những yêu cầu của các dân tộc được đề
cập trong Công ước này, phải cung cấp cho họ sự trợ giúp về tài chính và kỹ thuật
ở bất cứ nơi nào có thể, có tính đến những kỹ thuật truyền thống và các đặc
trưng văn hóa của họ cũng như với tầm quan trọng của sự phát triển thỏa đáng và
hợp lý của họ.
PHẦN V: BẢO TRỢ XÃ HỘI VÀ Y TẾ
Điều 24.
Các chương trình bảo trợ xã
hội phải được từng bước mở rộng tới các dân tộc được đề cập trong Công ước này
và phải được áp dụng không có sự phân biệt đối xử nào với họ.
Điều 25.
1. Các chính phủ phải bảo đảm
cung cấp các dịch vụ y tế thích đáng cho các dân tộc được đề cập trong Công ước
này, hoặc phải cung cấp cho họ các nguồn lực để họ tự thiết lập và tổ chức những
dịch vụ như vậy với sự quản lý và trách nhiệm của riêng họ, để họ có thể hưởng
thụ những tiêu chuẩn cao nhất có thể đạt được về sức khỏe thể chất và tinh thần.
2. Các dịch vụ y tế phải được mở rộng đến mức có thể
và phải dựa trên cơ sở cộng đồng. Các dịch vụ này phải được xây dựng và quản lý
với sự hợp tác của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, có tính đến các
điều kiện về văn hóa, xã hội, địa lý và kinh tế của họ cũng như đến các loại dược
thảo, phương pháp phòng, chữa bệnh truyền thống của họ.
3. Phương thức chăm sóc sức khỏe phải được chuyển
giao và đào tạo để được thực hiện bởi các nhân viên y tế cộng đồng, và chú trọng
đến việc chăm sóc sức khỏe ban đầu trong khi vẫn chú ý duy trì các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe ở các cấp độ khác.
4. Quy định về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe như vậy
phải phù hợp với các điều kiện về văn hóa, kinh tế và xã hội ở quốc gia.
PHẦN VI: GIÁO DỤC VÀ CÁC HOẠT
ĐỘNG TRUYỀN THÔNG
Điều 26.
Phải tiến hành các biện pháp
nhằm bảo đảm cho các thành viên trong các dân tộc được đề cập trong Công ước
này có cơ hội tiếp cận với giáo dục ở mọi cấp độ, ít nhất là ngang bằng với các
thành viên trong các cộng đồng khác ở quốc gia.
Điều 27.
1. Phải xây dựng và thực
hiện các chương trình và dịch vụ giáo dục cho các dân tộc được đề cập trong
Công ước này với sự hợp tác của họ để đáp ứng các nhu cầu đặc biệt của họ, và
phải liên hệ với lịch sử, các tri thức, các công nghệ, hệ thống các giá trị của
họ và những nguyện vọng về văn hóa, kinh tế, xã hội của họ. Phải bảo đảm sự
tham gia của họ vào việc lập, thực hiện và đánh giá các kế hoạch, chương trình
phát triển khu vực và quốc gia mà có tác động trực tiếp đến họ.
2. Các nhà chức trách có thẩm quyền phải bảo đảm
đào tạo các thành viên của các dân tộc được đề cập trong Công ước này cũng như
bảo đảm sự tham gia của họ vào việc thiết lập và thực hiện các chương trình
giáo dục, nhằm chuyển giao dần dần trách nhiệm điều hành các chương trình này
cho các dân tộc đó khi thích hợp.
3. Thêm vào đó, các chính phủ phải thừa nhận quyền
của các dân tộc được đề cập trong Công ước này được thiết lập các thiết chế và
cơ sở giáo dục của riêng họ, với điều kiện các thiết chế đó phải đáp ứng những
chuẩn mực tối thiểu do nhà chức trách có thẩm quyền quy định trên cơ sở có sự
tư vấn của các dân tộc này. Các nguồn lực thích hợp phải được cung cấp cho mục
đích này.
Điều 28.
1. Trẻ em thuộc các dân tộc
được đề cập trong Công ước này, ở bất cứ nơi nào có thể, phải được dạy đọc và
viết bằng ngôn ngữ bản địa của riêng các dân tộc đó hoặc bằng ngôn ngữ phổ biến
nhất được sử dụng trong các cộng đồng của họ. Nếu điều này không thể thực hiện
được, những nhà chức trách có thẩm quyền phải lấy ý kiến tư vấn của các dân tộc
này để xác định những biện pháp nhằm đạt được mục tiêu đó.
2. Phải thực hiện các biện pháp thích hợp để bảo đảm
rằng các dân tộc được đề cập trong Công ước này có cơ hội đạt được sự thuần thục
về ngôn ngữ chính thức dùng trong quốc gia hoặc về một trong các ngôn ngữ chính
thức được sử dụng ở quốc gia.
3. Phải thực hiện các biện pháp nhằm bảo tồn và
thúc đẩy sự phát triển, thực hành các ngôn ngữ bản địa của các dân tộc được đề
cập trong Công ước này.
Điều 29.
Việc phổ biến những kiến thức
và kỹ năng thông thường mà sẽ giúp trẻ em của các dân tộc được đề cập trong
Công ước này tham gia một cách đầy đủ và bình đẳng vào đời sống của cộng đồng họ
và vào đời sống cộng đồng của quốc gia phải được coi là một mục tiêu trong giáo
dục của các dân tộc này.
Điều 30.
1. Các chính phủ cần phải
đưa ra những biện pháp thích hợp với truyền thống và văn hóa của các dân tộc được
đề cập trong Công ước này, để giúp họ nhận thức được các quyền và nghĩa vụ của
họ, đặc biệt về các vấn đề lao động, các cơ hội kinh tế, các vấn đề giáo dục, y
tế, phúc lợi xã hội và các quyền của họ được ghi nhận trong Công ước này.
2. Nếu cần thiết, vấn đề này cần phải được thực hiện
bằng các biện pháp như dịch các văn kiện có liên quan ra các ngôn ngữ của họ và
sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền bằng các ngôn ngữ của
họ.
Điều 31.
Các biện pháp giáo dục phải
được thực hiện trong tất cả các cộng đồng sinh sống ở quốc gia, và đặc biệt là
trong số các cộng đồng mà có quan hệ trực tiếp nhất với các dân tộc được đề cập
trong Công ước này, với mục đích nhằm xóa bỏ những thành kiến với các dân tộc bản
địa. Để xóa bỏ những thành kiến đó, cần có những nỗ lực để bảo đảm rằng các
sách giáo khoa về lịch sử và các tài liệu giáo dục khác phải đề cập một cách
đúng đắn, chính xác và miêu tả sinh động về xã hội và văn hóa của các dân tộc bản
địa.
PHẦN VII: LIÊN LẠC VÀ HỢP TÁC
QUA BIÊN GIỚI
Điều 32.
Các chính phủ phải thực hiện
các biện pháp thích hợp, bao gồm việc thiết lập các thỏa thuận quốc tế, để trợ
giúp duy trì các mối liên hệ và hợp tác giữa các dân tộc và bộ tộc bản địa qua
các biên giới, bao gồm các hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
tinh thần và môi trường.
PHẦN VIII: VIỆC QUẢN LÝ
Điều 33.
1. Những nhà chức
trách có thẩm quyền có trách nhiệm với các vấn đề được nêu trong Công ước này
phải bảo đảm thiết lập các cơ quan đại diện hoặc các cơ chế hiện hành thích hợp
khác để quản lý các chương trình tác động đến các dân tộc được đề cập trong
Công ước này, và phải bảo đảm rằng các thiết chế đó phải có các biện pháp cần
thiết để hoàn thành đúng đắn các chức năng mà họ được giao phó.
2. Các chương trình này cần bao gồm:
a. Việc thiết lập, điều phối, thực hiện và đánh giá
các biện pháp để thực hiện Công ước này, với sự cộng tác của các dân tộc được đề
cập trong Công ước này.
b. Đề xuất các văn bản pháp luật và các biện pháp
khác với các nhà chức trách có thẩm quyền và việc giám sát việc áp dụng các biện
pháp đã tiến hành, với sự cộng tác của các dân tộc được đề cập trong Công ước
này.
PHẦN IX: CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 34.
Tính chất và phạm vi của các
biện pháp được đưa ra để thực hiện Công ước này phải được quyết định theo một
cách thức mềm dẻo, có tính đến các điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia.
Điều 35.
Việc áp dụng các quy định của
Công ước này phải không làm ảnh hưởng bất lợi đến các quyền và lợi ích của các
dân tộc được đề cập trong Công ước này theo quy định tại các công ước và khuyến
nghị, các văn kiện, hiệp định quốc tế hoặc các đạo luật, quy định, tập quán và
các thỏa thuận khác ở quốc gia.
PHẦN X: CÁC QUY ĐỊNH CUỐI
CÙNG
Điều 36.
Công ước này sửa đổi Công ước
về nhân dân bản địa và bộ lạc năm 1957.
Điều 37.
Công ước này phải được đăng
ký phê chuẩn chính thức với Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế.
Điều 38.
1. Công ước này chỉ ràng buộc
các Quốc gia thành viên Tổ chức Lao động quốc tế đã đăng ký phê chuẩn.
2. Công ước này sẽ có hiệu lực sau 12 tháng kể từ
ngày có hai Quốc gia thành viên đăng ký phê chuẩn.
3. Sau đó, Công ước sẽ có hiệu lực sau 12 tháng với
bất kỳ Quốc gia thành viên nào đăng ký phê chuẩn với Tổng giám đốc Văn phòng
Lao động quốc tế.
Điều 39.
1. Mỗi Quốc gia thành
viên đã phê chuẩn Công ước này có thể tuyên bố rút khỏi Công ước sau 10 năm kể
từ thời điểm Công ước này bắt đầu có hiệu lực, bằng cách thông báo bằng văn bản
cho Tổng giám đốc. Việc bãi ước này chỉ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày quốc
gia đó đăng ký bãi ước với Tổng giám đốc.
2. Mỗi Quốc gia thành viên đã phê chuẩn và chưa phê
chuẩn Công ước này, trong vòng một năm sau khi kết thúc thời hạn 10 năm nói
trong khoản trên mà không thực hiện quyền bãi ước đã quy định tại điều này thì
sẽ bị ràng buộc trong thời hạn 10 năm nữa rồi sau đó mới được bãi ước mỗi khi kết
thúc thời hạn 10 năm theo những quy định tại điều này.
Điều 40.
1. Tổng giám đốc Văn phòng
Lao động quốc tế sẽ thông báo cho các nước thành viên của Tổ chức Lao động quốc
tế biết mọi trường hợp đăng ký phê chuẩn và bãi ước nhận được.
2. Khi thông báo cho các nước thành viên Tổ chức
Lao động quốc tế về việc đăng ký phê chuẩn của nước thành viên thứ hai, Tổng
giám đốc sẽ lưu ý các nước thành viên về thời điểm Công ước có hiệu lực
Điều 41.
Tổng giám đốc Văn phòng Lao
động quốc tế phải thông tin đầy đủ với Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc để đăng ký
theo Điều 102 của Hiến chương Liên Hợp Quốc về những chi tiết của tất cả các hành động phê chuẩn
và bãi ước đã được đăng ký theo nội dung của các điều khoản trên.
Điều 42.
Mỗi khi xét thấy cần thiết,
Hội đồng Quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế sẽ trình một báo cáo về tình
hình thực hiện Công ước này lên Hội nghị toàn thể của tổ chức và sẽ xem xét có cần
đưa vào chương trình nghị sự của Hội nghị toàn thể vấn đề sửa đổi một phần hay
toàn bộ Công ước này hay không.
Điều 43.
1. Nếu Hội nghị toàn thể chấp
nhận một công ước mới sửa đổi lại một phần hoặc toàn bộ Công ước này và nếu
công ước mới không quy định khác thì:
a. Việc phê chuẩn của một Quốc gia thành viên với một
Công ước mới sửa đổi Công ước này, sẽ đương nhiên dẫn đến sự bãi ước ngay lập tức
với Công ước này mà không cần theo quy định tại Điều 39 trên đây, vào lúc Công
ước sửa đổi bắt đầu có hiệu lực.
b. Kể từ ngày Công ước mới sửa đổi bắt đầu có hiệu
lực, Công ước này sẽ thôi không mở để các nước phê chuẩn nữa.
2. Trong mọi trường hợp, Công ước này vẫn sẽ giữ
nguyên hiệu lực về mặt hình thức và nội dung như hiện nay với những Quốc gia
thành viên nào đã phê chuẩn Công ước này mà không phê chuẩn Công ước mới sửa đổi.
Điều 44.
Cả hai bản tiếng Anh và tiếng
Pháp của Công ước này đều có giá trị như nhau.