THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 59-TTg/CN
|
Hà Nội, ngày
04 tháng 04 năm 1967
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT CÁC MẶT HÀNG PHỤ BẰNG NGUYÊN LIỆU,
VẬT LIỆU LOẠI RA TRONG CÁC XÍ NGHIỆP
Hiện nay trong các xí nghiệp công nghiệp, những
nguyên liệu, vật liệu loại ra có nhiều nhưng chưa được tận dụng hợp lý. Một số
ít nguyên liệu, vật liệu loại ra như sắt vụn, gỗ vụn, vải, giấy vụn, v.v… đã được
Công ty phế phẩm phế liệu thu mua để cung cấp cho các cơ sở công nghiệp địa
phương và thủ công nghiệp dùng lại trong sản xuất. Một số nguyên liệu, vật liệu
loại khác tuy đã được sử dụng nhưng chưa tận dụng vào sản xuất, đem vứt bỏ lãng
phí. Trong các loại nguyên liệu, vật liệu loại ra chưa được sử dụng hợp lý hoặc
còn bị vứt bỏ lãng phí này, có nhiều loại còn có giá trị sử dụng tốt như sắt
thép vụn, gỗ vụn, bông, vải, sợi vụn, mảnh da và các loại bã thải khác, v.v… nếu
được tận dụng hợp lý thì còn có thể sản xuất được nhiều loại mặt hàng cần thiết.
Tình hình trên đây là một thiếu sót trong việc quản lý sản xuất, một chỗ yếu
kém trong việc quản lý kỹ thuật, đồng thời cũng là một sự tổn thất cho Nhà nước
cần phải ra sức khắc phục. Đặc biệt trong điều kiện chiến tranh hiện nay,
nguyên liệu, vật liệu khan hiếm và hàng hóa thiếu thốn thì tình hình lãng phí
như trên lại càng không thể cho phép tồn tại được.
Căn cứ vào tình hình nói trên, đồng thời để đáp ứng
nhu cầu của sản xuất và chiến đấu hiện nay, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị
này nhằm xác định rõ trách nhiệm của các ngành và cơ sở sản xuất trong việc tận
dụng hơn nữa các loại nguyên liệu, vật liệu loại ra để sản xuất các mặt hàng cần
thiết cho nhân dân, đồng thời quy định tạm thời một số chế độ cần thiết nhằm tạo
ra những điều kiện thuận lợi trong việc tận dụng các loại nguyên liệu, vật liệu
để sản xuất các mặt hàng phụ trong các xí nghiệp.
I. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC NGÀNH
VÀ ĐƠN VỊ SẢN XUẤT CÓ NGUYÊN LIỆU, VẬT LIỆU LOẠI RA
1. Các ngành và đơn vị sản
xuất có nguyên liệu, vật liệu loại ra (bao gồm cả các loại nguyên liệu, vật liệu
loại ra sau quá trình sản xuất, các loại sản phẩm hoặc nửa thành phẩm không đủ
quy cách, không sửa chữa được, không tiêu thụ được và các loại nguyên liệu hỏng
không đủ tiêu chuẩn dùng vào sản xuất các mặt hàng chính) đều có trách nhiệm tận
dụng đến mức cao nhất những nguyên liệu, vật liệu loại ra đó để sản xuất ra các
mặt hàng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Trong trường hợp
các ngành và cơ sở sản xuất không có khả năng tận dụng được những nguyên liệu,
vật liệu loại ra để sản xuất thành những mặt hàng hoàn chỉnh thì cũng phải có
trách nhiệm đặt quan hệ hợp tác sản xuất với các xí nghiệp khác hoặc ngành khác
để tận dụng được các nguyên liệu, vật liệu loại ra.
2. Đối với những loại
nguyên liệu, vật liệu loại ra còn dùng được vào sản xuất nhưng cơ sở sản xuất
không có điều kiện tận dụng, thì cơ sở sản xuất có trách nhiệm phân loại để lọc
ra những thứ còn dùng được và giao cho ngành nội thương thu mua theo đúng như
các quyết định và chỉ thị số 63-CP ngày 14-11-1960 và số 03-TTg ngày 08-01-1962
của Thủ tướng Chính phủ (hoặc nếu cơ quan thương nghiệp không tổ chức thu mua
được thì phải giao cho các cơ quan quản lý công nghiệp địa phương và thủ công
nghiệp tận dụng vào sản xuất). Tuyệt đối không được vứt bỏ lộn xộn, bừa bãi hoặc
đem bán cho tư nhân ở thị trường tự do. Giá bán nguyên liệu loại ra cho các cơ
sở sản xuất phải tùy theo chất lượng và quy cách mà định cho hợp lý trên tinh
thần hạn chế việc sinh ra nguyên liệu, vật liệu thải và khuyến khích các cơ sở
sản xuất tận dụng nguyên liệu vật liệu loại ra, nhưng cũng không được định giá
quá rẻ.
3. Đối với số nguyên liệu,
vật liệu loại ra trước đây đã được coi là nguồn cung cấp nguyên liệu thường
xuyên cho các cơ sở sản xuất khác (kể cả cơ sở công nghiệp địa phương và thủ
công nghiệp) thì nay vẫn phải cung cấp như cũ, không được vì sản xuất các mặt
hàng phụ của xí nghiệp mình mà cắt nguồn cung cấp những nguyên liệu, vật liệu
loại ra cho cơ sở sản xuất khác. Trong trường hợp có sự tranh chấp về sử dụng
nguyên liệu loại ra giữa các xí nghiệp hoặc giữa các xí nghiệp quốc doanh và hợp
tác xã mà các ngành và địa phương không giải quyết được thì phải báo cáo lên Ủy
ban kế hoạch Nhà nước và Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng giải quyết theo
nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế cao nhất của sản xuất (nơi nào sản xuất có
hiệu quả kinh tế hơn thì giao cho nơi đó sản xuất), đồng thời có chiếu cố đến
công ăn việc làm của thợ thủ công.
4. Các Bộ, Tổng cục và Ủy
ban hành chính các địa phương có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra và giúp đỡ các
điều kiện cho các xí nghiệp tận dụng được các nguyên liệu, vật liệu loại ra để
sản xuất các mặt hàng phụ (như giúp đỡ thêm thiết bị, cán bộ kỹ thuật, thiết kế
các loại sản phẩm v.v…) đồng thời có trách nhiệm tổ chức phân công hợp tác sản
xuất giữa các xí nghiệp và điều chỉnh nguyên liệu loại ra giữa các xí nghiệp
trong ngành để tận dụng được những nguyên liệu, vật liệu loại ra trong ngành
mình đến mức cao nhất và hợp lý nhất.
5. Trong việc tận dụng
các nguyên liệu, vật liệu loại ra để sản xuất các mặt hàng phụ, các ngành và xí
nghiệp phải cố gắng tận dụng những thiết bị và phân công sẵn có, không được vì
lý do tăng thêm mặt hàng phụ mà sử dụng lãng phí nhân lực và thiết bị.
Trong trường hợp xét thấy cần phải
bỏ vốn đầu tư lớn để lợi dụng triệt để nguyên liệu, vật liệu thì các ngành và
cơ sở sản xuất phải làm đề án kinh tế kỹ thuật để trình Chính phủ xét duyệt.
II. MỘT SỐ CHẾ ĐỘ TẠM THỜI NHẰM
KHUYẾN KHÍCH VIỆC SẢN XUẤT CÁC MẶT HÀNG PHỤ BẰNG NGUYÊN LIỆU, VẬT LIỆU
LOẠI RA
Để giải quyết những khó khăn mắc
mứu, đồng thời để khuyến khích các ngành và xí nghiệp tận dụng những nguyên liệu,
vật liệu loại ra để sản xuất các mặt hàng phụ. Thủ tướng Chính phủ quyết định
thi hành một số chế độ tạm thời sau đây:
1. Đối với các mặt hàng sản
xuất bằng nguyên liệu loại ra trong các xí nghiệp, nếu sản xuất chưa ổn định hoặc
số lượng không nhiều, thì không ghi vào chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, nhưng vẫn
được coi là giá trị sản lượng của xí nghiệp thực hiện được. Khi tính giá trị sản
lượng của xí nghiệp, giá trị được thực hiện bằng các mặt hàng phụ phải tính vào
một mục riêng, không được tính lẫn lộn với các sản phẩm chính.
2. Những hợp đồng kinh tế
ký kết về việc sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng phụ sản xuất bằng nguyên liệu
loại ra, mặc dù không nằm trong kế hoạch Nhà nước cũng vẫn có giá trị pháp lý.
3. Các xí nghiệp tận dụng
nguyên liệu, vật liệu loại ra để sản xuất các mặt hàng phụ, có thể xin Nhà nước
cấp thêm thiết bị để đẩy mạnh sản xuất sau khi đã tận dụng năng lực thiết bị sẵn
có.
4. Các xí nghiệp có thể
dùng số nhân công tiết kiệm được trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã
giao cho xí nghiệp để sản xuất các mặt hàng phụ. Đối với những công việc đơn giản
không cần thiết phải tổ chức thêm lao động trong xí nghiệp, xí nghiệp có thể tổ
chức gia công ở bên ngoài để làm một phần công việc sản xuất các mặt hàng phụ.
Trong trường hợp cần mở rộng sản xuất mặt hàng phụ, xí nghiệp có thể đề nghị với
cấp trên tổ chức thêm những phân xưởng phụ. Tùy theo tình hình sản xuất của các
phân xưởng phụ này, Ủy ban kế hoạch Nhà nước và Tổng cục Thống kê có thể cho
tính giá trị sản lượng và hạch toán chung với xí nghiệp hoặc tính riêng.
5. Đối với lợi nhuận (lợi
nhuận nói đây phải tính theo đúng chế độ quản lý tài chính, nghĩa là số tiền
thu được sau khi đã tính đủ các yếu tố của giá thành sản xuất như giá trị
nguyên liệu, kể cả nguyên liệu loại ra đem dùng lại, nhân công, động lực, khấu
hao thiết bị, quản lý phí v.v…, tuyệt đối không được coi toàn bộ số tiền bán sản
phẩm phụ là lợi nhuận) thu được trong việc sản xuất các mặt hàng phụ, nếu là những
mặt hàng hoàn toàn do xí nghiệp tận dụng nguyên liệu, vật liệu loại ra và thiết
bị có sẵn, không xin cung cấp thêm vật tư, thiết bị của Nhà nước, thì xí nghiệp
có thể sử dụng toàn bộ lợi nhuận thu được vào việc đầu tư cho sản xuất hoặc bổ
sung vào quỹ xí nghiệp hàng năm. Nếu được Nhà nước cấp thêm một phần trang bị
và nguyên liệu, vật liệu tốt thì xí nghiệp phải nộp cho Nhà nước một phần lợi
nhuận thu được theo tỷ lệ thích đáng với số thiết bị và vật tư Nhà nước cấp
thêm. Tỷ lệ này do Bộ Tài chính cùng với các Bộ, Tổng cục chủ quản quy định. Nếu
việc sản xuất mặt hàng phụ được Nhà nước trang bị thành một hệ thống sản xuất
hoàn chỉnh và coi như một trong những phân xưởng chính của xí nghiệp, thì việc
sử dụng lợi nhuận thu được vẫn theo như chế độ trích lập quỹ xí nghiệp hiện
hành.
III. QUẢN LÝ SẢN XUẤT VÀ TIÊU
THỤ CÁC MẶT HÀNG PHỤ CỦA XÍ NGHIỆP
Việc sản xuất các mặt hàng phụ bằng
nguyên liệu, vật liệu loại ra cần được quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa tình trạng
tham ô, lãng phí, làm bừa, làm ẩu, hoặc gây ảnh hưởng không tốt tới thị trường.
Vì vậy cần phải theo đúng các điều quy định sau đây:
1. Việc sản xuất các mặt
hàng phụ bằng nguyên liệu, vật liệu loại ra trong các xí nghiệp phải báo cáo với
Bộ chủ quản (nếu là xí nghiệp trực thuộc Bộ) và báo cáo với Ủy ban hành chính tỉnh,
thành phố (nếu là xí nghiệp của địa phương), đồng thời báo cáo lên Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước và Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng.
2. Đối với các loại
nguyên liệu hiếm, quý mà Nhà nước đã quy định phải thu hồi hoặc phải chế biến lại
để dùng vào việc sản xuất những sản phẩm chính, thì nói chung không được dùng
vào việc sản xuất các mặt hàng phụ, trừ trường hợp dùng những nguyên liệu này
vào việc sản xuất tư liệu sản xuất như dao cụ, các phụ kiện quan trọng của máy
móc, v.v… và phải được Bộ chủ quản đồng ý.
3. Phải thực hiện đúng chế
độ hạch toán kinh tế, chế độ quản lý tài chính và chế độ hợp đồng kinh tế hiện
hành, bất cứ là mặt hàng có ghi hay không ghi vào chỉ tiêu kế hoạch.
4. Phải theo đúng các
tiêu chuẩn kỹ thuật mà Nhà nước hoặc các Bộ đã ban hành. Trong trường hợp chưa
có tiêu chuẩn ban hành thì phải tôn trọng các tiêu chuẩn chất lượng ghi trong hợp
đồng kinh tế, không được làm bừa, làm ẩu.
5. Những mặt hàng sản xuất
ra chỉ được bán cho các đối tượng sau đây:
- Cho cơ quan thương nghiệp Nhà
nước, nếu là hàng tiêu dùng hoặc các tư liệu sản xuất thông dụng;
- Cho các xí nghiệp và cơ quan
Nhà nước, nếu là các bán thành phẩm hoặc dụng cụ chuyên dùng cho các cơ quan,
xí nghiệp đó.
Riêng đối với các mặt hàng nông
cụ, nếu số lượng không nhiều thì xí nghiệp có thể bán thẳng cho các công ty tư
liệu sản xuất nông nghiệp cấp 2 ở địa phương, hoặc cho các hợp tác xã mua bán ở
gần, nếu số lượng quá ít.
Giá bán những sản phẩm chế biến
bằng nguyên liệu, vật liệu vừa bảo dảm mức lãi thích đáng cho cơ sở sản xuất, vừa
bảo đảm phí lưu thông và mức lãi thương nghiệp đồng thời phải tương xứng với chất
lượng và giá trị sử dụng của sản phẩm khi đến tay người tiêu dùng.
6. Bộ Tài chính và các Bộ
chủ quản có trách nhiệm quy định các chế độ cần thiết để đẩy mạnh việc sản xuất
các mặt hàng phụ bằng nguyên liệu, vật liệu loại ra và để quản lý tốt việc sản
xuất mặt hàng phụ trong các xí nghiệp, công nghiệp.
7. Bộ Nội thương có trách
nhiệm bàn bạc với các Bộ, các Tổng cục để hướng dẫn các cơ sở sản xuất trong việc
sản xuất ra các mặt hàng phụ nhằm đáp ứng đúng các nhu cầu hiện nay ở từng vùng
đồng thời có trách nhiệm tổ chức giới thiệu các mặt hàng mới và tổ chức tiêu thụ
những mặt hàng sản xuất ra trên tinh thần khuyến khích việc tận dụng những
nguyên liệu, vật liệu loại ra.
|
K.T. THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|