ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------
|
Số
: 52/CT-UB
|
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 10 năm 1978
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC BAN HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH NHẰM KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI GIA SÚC,
GIA CẦM TRONG THÀNH PHỐ
Thực hiện nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV và Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ I
về phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, nghề cá, nhằm giải quyết nhu cầu về
thịt, cá, trứng, sữa cho nhân dân thành phố và một phần phục vụ cho xuất khẩu;
Ủy ban nhân dân thành phố ban
hành kèm theo đây một số quy định nhằm khuyến khích phát triển mạnh mẽ việc
chăn nuôi gia súc, gia cầm, cá – đặc biệt là chăn nuôi heo để phục vụ cho yêu
cầu trên.
Yêu cầu các cơ quan, các đơn vị
thành phố, Ủy ban nhân dân quận, huyện phối hợp với các đoàn thể quần chúng tổ
chức phổ biến sâu rộng trong các cơ quan, các đơn vị và toàn thể nhân dân trong
thành phố những quy định này, để tích cực hưởng ứng thi hành, đạt kết quả tốt.
Ủy ban nhân dân thành phố giao
trách nhiệm cho Sở Nông nghiệp phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan tổ
chức và chỉ đạo việc thực hiện.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
CHỦ TỊCH
Vũ Đình Liệu
|
MỘT SỐ QUY ĐỊNH
VỀ
VIỆC KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI GIA SÚC, GIA CẦM Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Ban hành kèm theo chỉ thị số 52 ngày 10 tháng 10 năm 1978 của UBND thành phố
Hồ Chí Minh)
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV và Đại
hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ nhứt về phát triển chăn nuôi gia súc
(heo, trâu bò, dê, ngựa…), gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng…) và cá, giải quyết
nhu cầu thịt, trứng, cá, sữa cho nhân dân và có phần xuất khẩu.
- Căn cứ tuyên bố ngày 25 tháng 9 năm 1976 của Chánh phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về chánh sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở
miền Nam.
- Căn cứ vào chỉ thị số 20/CT/TV ngày 7/1/1978 của Thường vụ Thành ủy thành phố
Hồ Chí Minh về việc đẩy mạnh phát triển nuôi heo gia đình giải quyết nhu cầu
thực phẩm cho nhân dân thành phố.
- Căn cứ chỉ thị số 93/TTg ngày 3/2/1978 của Phủ Thủ tướng về việc thi hành một
số chánh sách cụ thể trong công tư hợp doanh ở các tỉnh miền Nam.
- Căn cứ thông tư số 291/TTg ngày 5/8/1978 của Thủ tướng Chánh phủ về vấn đề
đất trồng cây thức ăn gia súc phát triển chăn nuôi.
- Căn cứ vào yêu cầu và nguyện vọng phát triển chăn nuôi của nhân dân, cán bộ,
cơ quan thành phố.
Ủy ban nhân dân thành phố ban
hành một số quy định nhằm khuyến khích phát triển chăn nuôi trong phạm vị thành
phố Hồ Chí Minh như sau :
Phần I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh khuyến khích mọi gia đình, mọi cơ quan, đơn vị, các nhà
chăn nuôi ra sức đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt là chăn nuôi
geo, góp phần tích cực vào việc giải quyết nhu cầu thịt, cá, trứng, sữa cho
nhân dân thành phố và cung cấp nguồn hàng xuất khẩu.
Điều 2. Đối với các cơ sở
chăn nuôi, chế biến thức ăn gia súc, trạm ấp, các cơ sở sản xuất, cung cấp
trang thiết bị chuyên dùng phục vụ chăn nuôi thú y… mà chủ đã bỏ ra nước ngoài
hoặc tư sản mại bản đã bị xử lý qua các chiến dịch cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh nay chuyển thành công quản, là cơ sở quốc doanh của Nhà nước
chịu sự quản lý thống nhất của Sở Nông nghiệp thành phố.
- Các cơ sở chăn nuôi, sản xuất
thức ăn gia súc… trước của tư nhân, nay do Nhà nước và người chủ cũ (hoặc người
đại diện có đủ tư cách pháp nhân) của xí nghiệp cùng nhau quản lý, gọi là xí
nghiệp công tư hợp doanh. Nhà nước giữ địa vị lãnh đạo, quyền lợi hợp pháp của
các cổ phần tư nhân được Nhà nước bảo hộ, các quyền lợi cơ bản của công nhân,
viên chức trong xí nghiệp được Nhà nước bảo đảm.
Quyền lợi của chủ cũ và các
chuyên viên kỹ thuật như việc chia lãi, giải quyết công ăn việc làm, quyền cư
trú… được thực hiện đúng tinh thần bản tuyên bố của Chánh phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 25/9/1976.
- Đối với các chủ trại chăn
nuôi, xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc… muốn hiến hoặc giao nộp cơ sở sản
xuất của mình cho Nhà nước sẽ được nghiên cứu và giải quyết cụ thể từng trường
hợp.
Điều 3. Nhà nước thừa
nhận và bảo hộ những quyền lợi và tài sản chánh đáng của các nhà chăn nuôi đang
kinh doanh và yêu cầu các chủ trại chăn nuôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi
chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, và thi hành nghiêm túc mọi luật pháp
của Nhà nước.
- Các nhà tư sản thương nghiệp
muốn chuyển sang sản xuất chăn nuôi bằng cách bỏ vốn, máy móc, lao động ra xây
dựng các trại chăn nuôi mới, nhứt là chăn nuôi heo, Nhà nước giúp đỡ về đị điểm
xây dựng, kỹ thuật và các yêu cầu phục vụ sản xuất.
- Các nhà tư sản thương nghiệp
muốn bỏ vốn, máy móc của mình ra hợp doanh với các cơ sở chăn nuôi hoặc phục vụ
chăn nuôi của Nhà nước, hoặc mở rộng sản xuất các trại tư doanh tập đoàn chăn
nuôi, Nhà nước tiếp nhận hoặc thừa nhận quyền sở hữu chánh đáng của cổ đông
mới.
Điều 4. Các nhà tư sản từ
bỏ bóc lột, từ bỏ cách làm ăn có hại cho quốc kế dân sinh, toàn tâm toàn ý cải
tạo mình bằng cách bỏ vốn, tài sản tham gia sản xuất chăn nuôi, chấp hành
nghiêm túc luật pháp của Nhà nước, Ủy ban nhân dân thành phố xét và giải quyết
cho gia đình và con cái ở lại thành phố cải tạo tại chỗ bằng nghề chăn nuôi
hoặc phục vụ chăn nuôi.
Phần II
QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Điều 5. Giải quyết thức
ăn gia súc và phân phối thức ăn gia súc :
1. Toàn thành phố dành ra 15 –
20% đất canh tác trồng các loại cây làm thức ăn gia súc. Đất này sẽ phân bổ cho
các quân, huyện, xã, nông trường sản xuất tập trung theo kế hoạch thống nhất
của thành phố.
2. Sau khi cân đối đủ yêu cầu
lương thực cho số nhân khẩu nông nghiệp, phần lương thực còn lại sẽ được chuyển
sang phục vụ phát triển chăn nuôi, lấy sản phẩm chăn nuôi giao nộp Nhà nước
thay cho việc giao nộp lương thực.
3. Tất cả các nguyên liệu dùng
làm thức ăn gia súc của Nhà nước từ các nguồn, đều giao cho Sở Nông nghiệp
thành phố quản lý và sử dụng thống nhất theo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân
thành phố.
- Tất cả các nguồn phế phụ phẩm
công nghiệp có thể làm thức ăn gia súc phục vụ chăn nuôi có trong phạm vi thành
phố Hồ Chí Minh cần giao cho Sở Nông nghiệp quản lý và sử dụng vào mục đích
phát triển chăn nuôi theo kế hoạch của thành phố.
4. Ngoài nguồn thức ăn gia súc
của Nhà nước ra, các trại chủ, các cơ quan, các gia đình chăn nuôi được phép
mua, bán, vận chuyển thức ăn gia súc một cách tự do trong phạm vi thành phố và
từ các tỉnh bạn vào thành phố.
5. Nhà nước cung cấp thức ăn gia
súc cho các trại chăn nuôi và người chăn nuôi theo nguyên tắc có thu hồi lại
sản phẩm chăn nuôi theo tỷ lệ mà chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đã quy định và tương
xứng với số lượng thức ăn Nhà nước cấp.
6. Việc cung cấp thức ăn gia súc
cho các trại chăn nuôi và người chăn nuôi tùy thuộc vào khả năng thực có của
thành phố mà ra kế hoạch cung cấp cụ thể. Thứ tự ưu tiên cung cấp thức ăn gia
súc được quy định như sau :
a) Các cơ sở chăn nuôi quốc
doanh, các trại nghiên cứu thí nghiệm, thực nghiệm của Nhà nước…
b) Gia súc giống (cái và đực làm
giống, hậu bị).
c) Chăn nuôi gia công giao nộp
sản phẩm cho Nhà nước.
d) Chăn nuôi gia đình của các
tập đoàn sản xuất, tổ hợp và Hợp tác xã.
Đối với các hộ nông dân ngoại
thành, thức ăn gia súc lấy từ lúa và hoa màu được tính cân đối để lại gia đình,
hoa màu phụ, phế phụ phẩm nông nghiệp và rau cỏ khai thác trong thiên nhiên. Nhà
nước chỉ hỗ trợ cho đàn heo đã được đăng ký nuôi giống và chịu sự quản lý, phân
phối giống của chánh quyền địa phương.
Điều 6. Cung cấp vật tư
phục vụ chăn nuôi (xăng, dầu, xi măng,…) khả năng vật tư của Nhà nước có hạn,
Nhà nước cố gắng cung cấp những vật tư thiết yếu cho các nhà chăn nuôi như
xăng, dầu, thuốc thú y, xi măng, gỗ theo nguyên tắc :
+ Cấp cho những trại và người
chăn nuôi có ký hợp đồng bán sản phẩm lại cho Nhà nước.
+ Sản xuất thật sự cần dùng đến
đâu cấp đến đấy, cần loại gì cấp loại nấy. Sử dụng đúng mục đích, đúng yêu cầu.
Điều 7. Thuế
1. Bãi bỏ thuế 10% trị giá gia
tăng đối với sản phẩm làm thức ăn gia súc và sản phẩm chăn nuôi.
2. Miễn mọi thứ thuế đối với
những người chăn nuôi từ 1 đến 20 heo/năm.
3. Đối với những cơ sở chăn nuôi
kinh doanh trên 20 heo/năm chỉ nộp 2 loại thuế :
+ Thuế kinh doanh : 2,7%
+ Thuế lợi tức : 25,0%
phần lời.
- Mỗi đầu heo khi giết mổ chịu
thuế sát sinh theo quy định là 6đ/con và trâu bò 8đ/con, ngoài ra không phải
nộp thuế gì khác nữa.
- Đối với các trại chăn nuôi mới
xây dựng dù của Nhà nước hay của tư nhân đều được miễn thuế trong 2-3 năm đầu
vì sản xuất chưa ổn định.
Điều 8. Cho vay vốn.
Trong lúc thành phố còn nhiều
khó khăn, nhiều công trình phải đầu tư xây dựng, Ủy ban nhân dân thành phố kêu
gọi các nhà tư sản, bà con chăn nuôi cần kiệm, tập trung vốn sẵn có của mình
vào công cuộc phát triển chăn nuôi. Trong trường hợp đã tập trung mọi khả năng
rồi mà vẫn thiếu vốn để sản xuất kinh doanh thì Nhà nước sẽ xét cho vay thêm
với lãi suất thấp và thỏa mãn yêu cầu chánh đáng của người vay, nếu được chánh
quyền địa phương xác nhận, thủ tục cho vay đơn giản và dễ dàng.
Điều 9. Chánh sách giá
cả.
1. Đối với các cơ sở chăn nuôi
tập trung cũng như chăn nuôi gia đình, nếu có nhận thức ăn gia súc, vật tư phục
vụ chăn nuôi của Nhà nước thì phải bán sản phẩm lại cho Nhà nước theo giá Nhà
nước quy định. Phần sản phẩm bán vượt kế hoạch thì được mua giá khuyến khích
cao hơn giá quy định từ 30-40%.
2. Phần sản phẩm làm ra bằng
thức ăn gia súc mua theo giá thị trường tự do thì được bán theo giá thỏa thuận
cho Nhà nước (tức giá phải chăng, nhưng phải bán cho Nhà nước).
3. Giá mua sản phẩm chăn nuôi
phải bảo đảm cho người chăn nuôi có được phần lời thỏa đáng, bảo đảm đời sống
gia đình ổn định và sản xuất không ngừng tái mở rộng, giá bán thỏa thuận do
nhân dân bàn bạc tập thể quy định 6 tháng 1 lần.
4. Hạ giá thức ăn gia súc từ
bình quân 55 xu/kg hiện nay xuống bình quân 40-45 xu/kg với chất lượng sản phẩm
cao. Nhà nước bù lỗ khâu nguyên liệu làm thức ăn gia súc.
Điều 10. Thu mua phân
phối.
1. Các cơ sở công quản (trại, xí
nghiệp quốc doanh) sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước và giao nộp cho Nhà nước
toàn bộ sản phẩm.
2. Đối với các cơ sở chăn nuôi
gia công, chăn nuôi cơ quan, chăn nuôi gia đình các quận nội thành và ven nội
có nghĩa vụ bán lại cho Nhà nước số sản phẩm chăn nuôi làm ra tương ứng với
thức ăn gia súc và vật tư đã được nhận của Nhà nước. Phần sản phẩm làm ra bằng
thức ăn gia súc chạy tự do theo giá thị trường thì được bán theo giá thỏa thuận
cho thương nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ, hoặc giết mổ chia nhau tiêu dùng.
3. Đối với các hộ nông dân ngoại
thành, sản phẩm chăn nuôi được làm ra trên cơ sở đất đai sản xuất trồng trọt.
Do đó có nghĩa vụ bán cho Nhà nước 50% sản phẩm theo giá Nhà nước, 50% còn lại
được tiêu dùng hoặc bán theo giá thỏa thuận.
4. Đối với các cơ sở chăn nuôi
thí nghiệm, thực nghiệm của Nhà nước, phân sản phẩm làm ra do kết quả thí
nghiệm phải bán cho cơ quan thương nghiệp để tăng nguồn hàng phân phối cho dân.
5. Đối với những người chăn nuôi
heo đực giống sẽ được Nhà nước bán thức ăn gia súc để bảo đảm chất lượng giống
tốt, hoạt động phối giống theo sự hướng dẫn về giá, về địa bàn hoạt động và
thực hiện định kỳ giám định kiểm tra chất lượng con giống.
6. Đối với những người nuôi heo
nái, có nhận thức ăn gia súc của Nhà nước thì phải cung cấp giống cho nhân dân
theo giá Nhà nước quy định, hoặc bán sản phẩm cho Nhà nước theo hợp đồng kinh
tế đã ký kết.
7. Trong phạm vị thành phố, nhân
dân được tự do mua bán, chuyên chở heo giống từ nơi này sang nơi khác, không
được tự do bán con giống ra ngoài phạm vi thành phố. Mọi việc vận chuyển gia
súc ra khỏi thành phố, nhứt là con giống nếu không có giấy phép xuất khỏi thành
phố của Sở Nông nghiệp, sẽ bị bắt giữ - Sở Nông nghiệp cùng với Ban quản lý thị
trường Quận có trách nhiệm xét xử lý theo chánh sách.
Điều 11. Về thú y.
1. Tất cả các trại chăn nuôi,
người chăn nuôi, các cơ quan có trách nhiệm thu mua, giết mổ, vận chuyển gia
súc sống và thịt phải tuân thủ nghiêm túc và triệt để luật pháp thú y của Nhà
nước đã ban hành. Ai vi phạm các luật pháp thú y hiện hành sẽ bị xử lý theo
pháp luật.
2. Công ty vật tư nông nghiệp và
Trạm thú y thành phố có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các loại thuốc cần thiết
thông thường để chữa trị gia súc và dụng cụ phục vụ công tác thú y trong phạm
vi toàn thành phố theo giá Nhà nước quy định.
Mỗi phường, xã được trang bị một
tủ thuốc thú y, mỗi quận, huyện có trạm thú y lo việc phòng chống dịch bệnh và
chữa trị bệnh cho gia súc, gia cầm.
3. Chỉ những thú y sĩ, Bác sĩ
thú y do Nhà nước hoặc nhân dân cử ra làm nhiệm vụ bảo vệ đàn gia súc, gia cầm
mới được quyền hoạt động hành nghề và được thu lệ phí theo quy định của Nhà
nước.
4. Đối với các gia đình quá
nghèo, gia đình thương binh, liệt sĩ, neo đơn, Sở Nông nghiệp sẽ xét miễn lệ
phí thú y theo đề nghị của địa phương.
5. Tất cả các loại gia súc (heo,
trâu, bò, chó…), và gia cầm (vịt, gà nuôi tập trung), nuôi trong thành phố đều
phải thực hiện tiêm phòng dịch theo định kỳ hàng năm – tiền thuốc do Nhà nước đài
thọ.
Phần III.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 12. Các quy định
trên đây có giá trị thi hành trong phạm vi toàn thành phố kể từ ngày Ủy ban
nhân dân thành phố ký ban hành.
Điều 13. Những quy định
đã ban hành trước đây về vấn đề này trái với các quy định trên đều bị bãi bỏ.