BỘ
GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN-BỘ LAO ĐỘNG-BỘ TÀI CHÍNH-BỘ THUỶ LỢI VÀ KIẾN TRÚC-BỘ Y
TẾ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
18-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 9 năm 1957
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG - TÀI CHÍNH - Y TẾ - THỦY LỢI VÀ KIẾN TRÚC -
GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN SỐ 18-TT/LB NGÀY 23 THÁNG 9 NĂM 1957 QUY ĐỊNH CHI TIẾT
CÁC QUYỀN LỢI CỦA DÂN CÔNG ĐÃ ĐƯỢC GHI TRONG ĐIỀU LỆ SỐ 339-TTG NGÀY 27-7-1957
Căn cứ vào Điều lệ tạm thời về
huy động và sử dụng dân công trong thời bình của Thủ tướng phủ số 339-TTg ngày
27-7-1957, Liên bộ quy định chi tiết việc thi hành các điều 13 về bảo vệ sức
khoẻ, 15 về tai nạn lao động và các điều 16, 17 về sinh hoạt tập thể như sau:
I. BẢO VỆ SỨC
KHOẺ CHO DÂN CÔNG
Công tác bảo vệ sức khoẻ cho dân
công trên công trường chủ yếu là công tác vệ sinh phòng bệnh.
1. Tổ chức phòng bệnh:
Ở công trường tổ chức ra các bộ
phận vệ sinh an toàn lao động có nhiệm vụ:
Tổ chức và lãnh đạo an toàn lao
động trong dân công.
Hướng dẫn công tác vệ sinh phòng
bệnh trong dân công.
Thường xuyên kiểm soát việc thực
hiện nội quy về vệ sinh an toàn lao động trong dân công.
Thành phần gồm có:
Chung cả công trường:
Đại biểu ban chỉ huy công trường
(1 người).
Đại biểu y tế (1, 2 hay 3 người).
Trong mỗi Đại đội:
(Kể cả những đơn vị ngày đi làm
việc, tối về gia đình) có một tổ vệ sinh an toàn lao động gồm có:
Ban chỉ huy Đại đội (1 người).
Cán bộ y tế (1 người)
Mỗi trung đội có một tổ vệ sinh
an toàn lao động gồm có:
Một đại biểu ban chỉ huy Trung đội
và các vệ sinh viên ở tiểu đội họp thành.
Mỗi tiểu đội có một vệ sinh viên
do dân công cử ra.
2. Tổ chức chữa bệnh:
Mỗi công trường tập trung là
1.000 đến 1.500 dân công thành lập một Trạm xá để chữa bệnh đồng thời làm nhiệm
vụ phát thuốc và cấp cứu cho dân công. Ty Y tế tỉnh có trách nhiệm lãnh đạo cữa
bệnh, cho mượn y dụng cụ, dự trù thuốc men và cử y tá phục vụ.
Công trường có dưới 1.000 dân
công (kể cả dân công ở nhà đi làm tối về gia đình) thành lập trạm phát thuốc và
làm nhiệm vụ cấp cứu. Do Ty Y tế tỉnh cử y tá phụ trách.
Mỗi đại đội (150 người) có 1 cán
bộ y tế do xã cử đi học do Ty Y tế chọn lựa làm nhiệm vụ phát thuốc và cấp cứu ở
đơn vị.
3. Thuốc men:
Tiêu chuẩn về thuốc men của công
trường tập trung tính theo đầu người được 350đ một tháng cho một dân công miền
xuôi làm việc ở đồng bằng, 600đ một tháng cho một dân công miền núi làm việc ở
địa phương mình.
Tiền chi về thuốc men của công
trường giao việc cho xã dân công ở nhà đi làm tối về gia đình được 175đ một
tháng cho mỗi người ở đồng bằng, 300đ một tháng cho mỗi dân công ở miền núi.
Trường hợp dân công ở đồng bằng
làm việc ở miền núi, được 900đ một tháng cho mỗi người.
Riêng các Trạm xá của công trường
ngoài số tiền thuốc trên đây, còn được thêm mỗi giường bệnh 400đ tiền thuốc điều
trị một ngày.
Dân công làm việc ở những vùng
khí hậu xấu tuỳ theo khu vực được phát 9 viên hay 12 viên phòng bệnh sốt rét (kể
cả những dân công sáng đi làm tối về gia đình).
Công trường chỉ phụ trách chữa
cho dân công mắc những bệnh xảy ra trong thời gian làm việc ở công trường do thời
tiết hay mệt nhọc mà sinh ra như : cúm, đau bụng, kiết lỵ, cảm, tê liệt, ho, sốt
rét, tai nạn lao động v.v...
Chỉ đưa dân công ốm vào bệnh viện
tỉnh khi gặp những trường hợp bệnh nhân bị đau nặng, hoặc cấp cứu mà ở Trạm xá
không thể cứu chữa được. Bệnh viện tỉnh cần bố trí giường để nhận bệnh nhân
trong những trường hợp nói trên.
4. Bồi dưỡng, săn sóc khi dân
công ốm đau:
Dân công ốm nặng nằm điều trị ở
đơn vị, trạm xá của công trường hay bệnh viện tỉnh, ngoài tiền thù lao (600đ một
ngày cho dân công thường và dân công thợ, 800đ một ngày cho dân công vận tải tiếp
tế ở miền núi) còn được bồi dưỡng 150đ hay 300đ tùy theo bệnh trạng. Việc bồi
dưỡng cho dân công nằm điều trị ở trạm xá và bệnh viện do người phụ trách những
nơi đó quyết định.. Việc bồi dưỡng cho dân công ốm nằm ở đơn vị thì do y tá hay
Ban chỉ huy đại đội dân công đề nghị và cơ quan y tế của công trường quyết định.
Ở những nơi dân công ngày đi làm
việc, tối về gia đình được phát thuốc trong những trường hợp cấp cứu ngay trên công
trường.
Dân công bị ốm đau xin về nhà điều
trị được cấp cho một số thuốc dùng trong lúc đi đường và để chữa trong một hai
ngày đầu mới về gia đình (nếu có đề nghị của y tá hay Ban chỉ huy đại đội và khả
năng công trường có thể cấp được). Nếu dân công bị ốm nặng mà cũng xin về gia
đình điều trị thì tuỳ theo tình hình bệnh trạng và khả năng thuốc men do y tá đề
nghị được cấp một số thuốc, tiền bồi dưỡng, tiền lộ phí trong lúc đi đường.
Khi đưa dân công ốm từ công trường
đến trạm xá, bệnh viện công trường phải sử dụng những phương tiện cần thiết
như: cáng, đi xe, thuyền, tàu v.v... để đi nhanh đến nơi cứu chữa. Trong lúc đi
đường, cắt đặt người đi theo chăm sóc. Trường hợp không có phương tiện phải
cáng đi bộ thì công trường lấy ngay dân công ở đơn vị có người ốm cùng đi. Những
dân công đi cùng người ốm được coi như dân công làm việc, những ngày đi và về
được hưởng thù lao và tính công.
5. Tiền phí tổn về chôn cất:
Nếu người dân công bị ốm chết ở
công trường thì công trường sẽ đài thọ tiền phí tổn về chôn cất gồm có:
Một áo quan loại thường.
Sáu thước vải diềm bâu loại
trung bình để liệm.
Tiền thuê người chôn, hay thuê đất
chôn (nếu có)
Hương thơm, nến thắp.
Ngoài ra công trường phải báo
cho chính quyền, đoàn thể địa phương người chết và an ủi gia đình người chết
chu đáo.
6. Tất cả những phí tổn về tiền
thuốc, tiền bồi dưỡng, tiền chôn cất những dân công chết, thù lao cho dân công ốm
nằm ở trạm xá, tiền thuê phương tiện chuyên chở bệnh nhân từ công trường đến trạm
xá, bệnh viện và từ trạm xá, bệnh viện về nhà, đều do công trường đài thọ.
7. Cơ quan sử dụng dân công từng
cấp phải báo cho cơ quan y tế cấp mình biết dự trù kế hoạch dân công hàng ba
tháng, sáu tháng, một năm. Và trước khi mở công trường phải báo cho cơ quan y tế
địa phương biết trước một tháng để có thời gian chuẩn bị mọi điều kiện về phòng
và chữa bệnh cho dân công.
II. VỀ TAI NẠN
LAO ĐỘNG TRONG DÂN CÔNG
1. Việc đề phòng tai nạn lao
động:
Khi mở công trường, cơ quan sử dụng
phải nghiên cứu va có nội quy đề phòng tai nạn lao động trong dân công và thường
xuyên giáo dục ý thức đề phòng tai nạn lao động cho dân công.
Khi làm những công việc có tính
cách nguy hiểm như: dốc cao, leo cầu, chặt cây, lội suối, bắn mìn, đào hầm lấy
đất v.v... công trường phải có kế hoạch đề phòng tai nạn lao động và dụng cụ đề
phòng như: dây, phao an toàn v.v...
Suốt thời gian làm việc phải thường
xuyên phổ biến nội quy đề phòng tai nạn lao động.
Mỗi người dân công phải luôn luôn
nghiêm chỉnh chấp hành nội quy đề phòng tai nạn lao động của công trường.
2. Việc trợ cấp tai nạn lao động
cho dân công:
Trong khi làm việc dân công bị
tai nạn lao động thì được trợ cấp tai nạn lao động. Việc trợ cấp tai nạn lao động
cho dân công nhằm mục đích giúp đỡ cho người dân công và gia đình họ giải quyết
một phần khó khăn lúc đầu sau khi bị tai nạn lao động (kể cả dân công tổ chức
ăn ở tập trung và dân công ở nhà mình ngày đi làm việc trên công trường tối về
gia đình).
A. NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC KỂ LÀ
TAI NẠN LAO ĐỘNG:
Được kể là tai nạn lao động, những
tai nạn xẩy ra trong khi làm việc, và tại nơi làm việc không phân biệt do dân
công vô ý, công trường sơ suất trong việc đề phòng, hoặc do thiên tai gây nên.
Ví dụ: đào, cuốc, chặt, phát phải
chân tay, chặt cây đổ phải người, khiêng, gánh, đội lên, xuống dốc trượt ngã
sai khớp xương hay gẫy chân tay, cuốc đất bị đá bắn phải mặt, sụt núi, sụt đất
đè phải người, cấp dưỡng bị bỏng khi nấu ăn, đốt mìn bị đất, đá bắn phải người
v.v...
Cũng kể là tai nạn lao động những
tai nạn xẩy ra ngoài công trường khi người dân công đang làm công tác, do cơ
quan sử dụng cử đi.
Ví dụ: Dân công đi mua tiếp phẩm,
đi vận chuyển vật liệu trong lúc làm công tác đó mà bị tai nạn như: bị tầu, xe
đè, qua sông bị đắm thuyền, qua suối bị nước lũ cuốn đi, leo cầu bị ngã, dẫm phải
mìn, bị thú giữ cắn v.v...
Những tai nạn xẩy đến cho dân
công ngoài thì giờ làm việc không coi là tai nạn lao động.
Ví dụ: Dân công ở các lán trại của
công trường ngoài thời giờ sản xuất, lúc đi từ địa phương đến công trường, từ
công trường về địa phương, từ nơi làm việc về chỗ ở, hoặc từ chỗ ở đến nơi làm
việc, những ngày nghỉ việc, những lúc vui chơi, đùa nghịch mà xẩy ra tai nạn đều
không coi là tai nạn lao động, chỉ được được điều trị thuốc men không được trợ
cấp.
Ngoài ra nếu có những trường hợp
chưa phân biệt rõ rệt là tai nạn lao động thì đơn vị sử dụng dân công phải thỉnh
thị ngành dọc và xin ý kiến của cơ quan lao động địa phương trước khi giải quyết.
B. PHÂN HẠNG TAI NẠN LAO ĐỘNG:
Thương tật của dân công bị tai nạn
lao động chia làm sáu hạng như sau:
a) Hạng 1: Những nạn nhân bị một
trong những trường hợp dưới đây, mất hết khả năng làm việc và cần phải có người
săn sóc thì xếp vào thương tật hạng 1:
1- Bị mất ba chân tay trở lên
hay bị thương ba chân tay trở lên mà các chân tay đó đều mất hết tác dụng.
2- Bị tê liệt ba chân tay trở
lên.
3- Cả hai chân tay bị tê liệt vì
dây thần kinh xương sống (tuỷ bộ) bị thương.
4- Mất hết hai tay hoặc hai chân
mà không thể lắp được chân tay giả.
5- Vì bị thương mà loạn óc điên
dại.
6- Có một vết thương trong hạng
2 và một vết thương trong hạng 3.
b) Hạng 2: Những nạn nhân
bị một trong những trường hợp dưới đây mất hết khả năng làm việc nhưng không cần
thiết có người săn sóc thì xếp vào thương tật hạng 2:
1- Hai chân tay bị cụt một phần
hoặc vì bị thương mà mất hết tác dụng.
2- Mù cả hai mắt.
3- Dây thần kinh óc hay óc bị
thương sinh ngớ ngẩn, không làm được việc gì.
4- Bị thương vào mồm không nhai
và không nói được.
5- Có hai vết thương trong hạng 3
hoặc hai vết thương mà một vết trong hạng 3 và một vết trong hạng 4.
6- Các bộ phận nội tạng quan trọng
hay các bộ phận khác bị thương tương đương với những điểm trên.
c) Hạng 3: Những nạn nhân
bị một trong những trường hợp dưới đây xếp vào hạng 3:
1- Mất một chân hay một tay hoặc
vì bị thương mà mất hết tác dụng.
2- Bị thương từ hai chân tay trở
lên, có bộ phận cứng thẳng nhưng còn có thể miễn cưỡng làm việc được.
3- Cụt mất mười ngón tay.
4- Hai mắt vì bị thương hoặc hỏng
nên chẩy máu hay có màng, sức nhìn rất kém, chỉ trông thấy trong khoảng một thước
và không chữa được.
5- Bị thương vào mồm không nhai
được.
6- Các bộ phận nội tạng quan trọng
hay các bộ phận khác bị thương tương đương với những điều kiện trên.
7- Vết thương vào sọ não hoặc chấn
động thần kinh gây nên những cơn động kinh (épilepsie).
8- Vết thương các dây thần kinh
bị bỏng rát (causalgie) chỉ bị thương, tuy còn nhưng không làm việc được.
9- Có từ hai vết thương trở lên ở
hạng 4.
d) Hạng 4: Những nạn nhân
bị một trong những trường hợp dưới đây xếp vào thương tật hạng 4:
1- Mất một bàn chân hay một bàn
tay.
2- Vết thương gẫy xương làm cứng
một chân hay một tay hoặc khớp xương cử động rất khó khăn.
3- Mất cả hai ngón tay cái hay
chỉ mất một ngón tay cái và các ngón khác từ ba ngón trở lên.
4- Mất hết mười ngón chân hay một
phần bàn chân.
5- Mồm bị thương rụng gần hét
răng, không thể lắp được răng giả, nhai khó khăn.
6- Một mắt mù và một mắt mờ, hoặc
cả hai mắt cùng bị mờ, chỉ trông thấy những vật trong khoảng hai thước và phải
lâu mới khỏi được.
7- Đầu hoặc ngang thắt lưng bị
thương nhiều chỗ cử động khó khăn hoặc khó khỏi.
8- Các bộ phận nội tạng quan trọng
hoặc các bộ phận khác bị thương tương đương với các điều trên.
9- Có từ hai vết thương trở lên ở
hạng 5.
e) Hạng 5: Những nạn nhân bị một
trong những trường hợp dưới đây được xếp vào thương tật hạng 5:
1- Mù một mắt hoặc hai mắt bị mờ,
nhìn không rõ và khó chữa khỏi.
2- Mất một ngón tay cái hay cụt
đốt thứ nhất và đồng thời cụt một ngón tay trỏ ở bàn tay kia, hay hai ngón tay
khác ở bàn tay kia.
3- Mất năm ngón chân trở lên,
hay bàn chân cứng đờ không cử động được.
4- Gân cốt bị thương, cử động
không thuận tiện.
5- Những thương tích khách tương
đương với các khoản trên.
6- Có từ hai vết thương trở lên ở
hạng 6:
g) Hạng 6: Những nạn nhân bị một
trong những trường hợp dưới đây xếp vào thương tật hạng 6.
1- Một ngón tay cái bị cụt đốt
thứ nhất, hay mất một ngón tay trỏ hay mất cả hai ngón tay khác.
2- Mất từ hai ngón chân trở lên.
3- Những thương tích khác tương
đương với các khoản trên.
4- Có nhiều vết thương nhẹ mà gộp
lại có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ làm việc bằng hay hơn một trong những vết
thương nói trên.
Trên đây đã quy định cụ thể từng
hạng tai nạn lao động, trường hợp có những tai nạn khác xảy ra tương tự như các
hạng trên thì do Hội đồng xếp thương tật ở địa phương xét và quyết định xếp vào
một trong các hạng đó để trợ cấp.
C. MỨC TRỢ CẤP:
Tuỳ theo thương tật nặng hay nhẹ,
giảm sức lao động nhiều hay ít mà định mức trợ cấp nhằm an ủi và giải quyết một
phần khó khăn bước đầu về sinh hoạt cho người bị nạn hoặc gia đình họ.
Mức trợ cấp từng hạng thương tật
cụ thể như sau:
a) Tai nạn làm chết người:
Do tai nạn lao động mà người dân
công bị hy sinh thì được trợ cấp:
1- Tiền chôn cất gồm có:
- Một áo quan loại thường.
- Sáu thước vải diềm bâu loại
trung bình để liệm.
- Tiền thuê người chôn cất hay
thuê đất chôn (nếu có).
- Hương thơm và nến thắp.
2- Trợ cấp thân nhân người bị hy
sinh:
a) Một số tiền bằng 15 tháng thù
lao dân công cho thừa kế gia đình người bị hy sinh (vợ, con, bố mẹ hoặc người
thân thích đã nuôi dưỡng người chết, hoặc người chết phải nuôi dưỡng).
b) Tai nạn hạng 1 được trợ cấp
12 tháng thù lao dân công.
c) Tai nạn hạng 2 được trợ cấp
11 tháng thù lao dân công.
d) Tai nạn hạng 3 được trợ cấp 9
tháng thù lao dân công.
e) Tai nạn hạng 4 được trợ cấp 7
tháng thù lao dân công.
g) Tai nạn hạng 5 được trợ cấp 5
tháng thù lao dân công.
h) Tai nạn hạng 6 được trợ cấp 3
tháng thù lao dân công.
Việc xếp hạng thương tật để trợ
cấp sẽ do Hội đồng xét thương tật ở địa phương mà người nạn nhân nằm điều trị
nhận xét và quyết định, sau khi nạn nhân điều trị lành vết thương và trước khi
ra viện.
Trường hợp tai nạn nhẹ, chỉ cần
điều trị một thời gian không đủ thương tật xếp vào hạng 6 thì không được trợ cấp.
3- Nhiệm vụ của cơ quan sử dụng
dân công khi có dân công xảy ra tai nạn lao động:
Khi xảy ra tai nạn, công trường
phải tổ chức ngay việc cấp cứu đầu tiên cho nạn nhân, nếu cần điều trị phải đưa
ngay đi trạm xá hay bệnh viện tỉnh, phải dùng mọi phương tiện để đưa nạn nhân đến
nơi cứu chữa được nhanh chóng.
Nếu tai nạn lao động nặng hoặc
chết người phải báo ngay cho cơ quan Lao động, đồng thời báo ngay cho cơ quan
ngành dọc cấp trên biết (chậm nhất là 48 giờ sau khi xảy ra tai nạn).
Lập biên bản ghi rõ trường hợp
dân công bị tai nạn để tiện việc xét định trợ cấp thương tật sau khi nạn nhân
điều trị lành vết thương. Biên bản phải do Ban chỉ huy công trường, y tá và đại
biểu đơn vị dân công cùng ký. Biên bản này giao lên ngành dọc cấp trên một bản,
đơn vị dân công một bản, cơ quan Lao động tỉnh một bản và cơ quan Y tế cứu chữa
nạn nhân một bản.
Sau mỗi vụ tai nạn xảy ra, công
trường phải tổ cức kiểm thảo tìm ra nguyên nhân, quy trách nhiệm để nhằm giáo dục
tinh thần trách nhiệm chung.
Thi hành mọi khoản quyền lợi của
người dân công bị tai nạn được hưởng đã được quy định ở mục 2 (mức trợ cấp dân
công bị tai nạn).
Báo cho gia đình người chết biết,
giải thích an ủi chu đáo, vật dụng và tiền bạc của người chết phải giao cho Uỷ
ban hành chính xã đã huy động người dân côngđi phục vụ hoặc anh em họ hàng cùng
đi đợt dân công đó để giao lại cho gia đình người chết hoặc trực tiếp giao đến
cho gia đình họ.
III. QUYỀN LỢI
VỀ SINH HOẠT TẬP THỂ
Trong điều lệ, điều 16 quy định
(tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh công tác, công trường có thể tổ chức dân công
ăn, ở tập thể, hoặc sáng đi chiều về, nếu nhà ở gần). Căn cứ điều trên, công
trường cần tổ chức như sau:
1. Tổ chức công trường tập
trung.
Tuỳ theo kế hoạch sử dụng dân
công của công trường nhiều hay ít, dài hay ngắn ngày, sử dụng một đợt hay nhiều
đợt, dân công huy động ở gần hay xa, hoàn cảnh dân công sáng đi, chiều về nhà
được hay không, mà tổ chức công trường tập trung hay phân tán, cụ thể:
Nếu dân công huy động trong phạm
vi ba cây số trở lại, đường đi dễ dàng, không cách trở đò giang, thì tổ chức
dân công sáng đi làm, chiều về gia đình.
Trường hợp dân công đi xa trên
ba cây số không thể về được hoặc trường gần nhưng đi lại khó khăn, cách trở
sông núi, dân công đi lại ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ, mất nhiều thì giờ thì
công trường tổ chức tập trung, ăn ở tập thể. Tuỳ từng tình hình, hoàn cảnh địa
dư thực tế mỗi công trường có thể vừa tổ chức cho một số dân công ăn, ở tập
trung vừa tổ chức cho một số dân công sáng đi làm, chiều về gia đình (đối với
những đơn vị ở gần nhà).
2. Nhà ở.
Đối với những đơn vị dân công,
ăn ở tập trung, nếu nơi làm việc gần thôn, xóm thì công trường bố trí dân công ở
nhờ nhà dân hay nhà công cộng. Trường hợp thiếu hoặc không có thì tuỳ theo kế
hoạch sử dụng dài hay ngắn ngày mà công trường tổ chức làm lán, làm lều, che bạt
cho dân công ở.
Nhà hay lán đủ che mưa, nắng,
không để dân công nằm đất, nằm ngoài trời, nằm qúa chật chội. Chỗ nằm tuỳ hoàn
cảnh mà bố trí nằm giường, phản, ván gỗ, làm sàn, để bảo đảm được sức khoẻ cho
dân công.
Nam nữ phải có nơi ngủ riêng biệt.
Cần cố gắng bố trí nơi ở không
quá rải rác hoặc quá xa nơi làm việc, xa nhà bếp, hố xí, hố rác.
Đối với những đơn vị dân công
làm việc sáng đi chiều về công trường phải bố trí nơi nghỉ trưa, tránh để anh
em nghỉ ở ngoài trời.
3. Cấp dưỡng và tiếp phẩm.
Một cấp dưỡng phục vụ 25 người kể
cả tiếp phẩm.
Gạo, muối, củi (nơi khan hiếm đắt
đỏ) do công trường cung cấp tại chỗ, dân công lĩnh bao nhiêu trả tiền bấy
nhiêu. Nếu công trường lấy dân công vận chuyển các thứ trên, thì thời giờ dân
công vận chuyển được tính vào thời gian làm việc.
Công trường phải tổ chức tiếp phẩm
hoặc nhờ sự cung cấp của Công ty lương thực hay liên lạc với địa phương để có kế
hoạch phân công mua bán, tiếp tế và cung cấp thực phẩm cần thiết cho dân công để
giữ giá cả thị trường và đảm bảo sinh hoạt cho dân công (nhất là đối với công
trường ở miền núi).
Dụng cụ cấp dưỡng: dân công phải
tự túc hoàn toàn về nồi nấu cơm, nấu nước uống, nấu thức ăn, bát đĩa, rổ rá
v.v...
Riêng miền núi, công trường phải
sắm sửa cho dân công mượn những nồi to, chảo, thùng nấu nước, vì đồng bào miền
núi còn nhiều thiếu thốn và hoàn cảnh không mượn đâu được.
4. Các khoản chi phí tập thể.
150 dân công hàng tháng được
công trường cấp hai lít rưỡi dầu thắp đèn (hoặc số tiền tương đương để dân công
tự mua sắm dầu hoả, dầu lạc, dầu chẩu hay các thứ nhựa để dùng).
- Đèn thắp do dân công tự túc.
- Mỗi đại đội một ngày được cấp
một tờ báo Nhân dân.
- Ban chỉ huy đại đội mỗi ngày
được cấp một đến hai tờ giấy, và hàng tháng được cấp nửa lít dầu để làm việc.
- Riêng ban chỉ huy trung đội độc
lập được cấp một tờ giấy, và hàng tháng nửa lít dầu làm việc.
- Những đơn vị dân công ngày đi
làm tối về nhà thì được tiêu chuẩn một người nấu nước cho 100 người uống hàng
ngày, và mỗi xã tuỳ theo số lượng dân công được cấp từ một đến hai tờ giấy một
ngày để làm việc.
5. Các khoản chi phí về
phương tiện đi lại của dân công:
Khi di chuyển công trường, khi tập
trung và giải tán các đơn vị dân công, sự đi lại của dân công chủ yếu là đi bộ.
Tuỳ tình hình công tác nếu nhận
thấy để dân công đi xe, tàu sẽ giảm ngày đi đường, tranh thủ thời gian làm việc
hoặc ít tốm kén hơn, có lợi cho công quỹ thì công trường có thể tổ chức cho dân
công đi bằng các phương tiện vận tải như ô-tô, xe lửa, thuyền, tầu thuỷ v.v...
Công trường phải thanh toán mọi
khoản chi phí cho dân công trước khi chở dân công về và trước khi công trường
giải tán, trừ những khoản bất đắc dĩ không thể thanh toán được thì phải bàn
giao lại cho cơ quan trực tiếp phụ trách công trường đó chịu trách nhiệm thanh
toán.
Ví dụ: công trường thuộc Ty Thuỷ
lợi phụ trách thì do Ty Thuỷ lợi thanh toán, công trường thuộc Nha Giao thông
phụ trách thì do Nha Giao thông thanh toán.
Thông tư này áp dụng kể từ ngày
27 tháng 7 năm 1957 ngày ban hành Điều lệ số 339-TTg của Thủ tướng phủ về huy động
và sử dụng dân công trong thời kỳ kiến thiết hoà bình.
Trần
Đăng Khoa
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Văn Tạo;;
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Hữu Mai;
(Đã
ký)
|
Hoàng
Tích Trí
(Đã
ký)
|
Trịnh
Văn Bính
(Đã
ký)
|