BỘ
LAO ĐỘNG –BỘ NỘI VỤ
*******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
02-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 01 năm 1961
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH TẠM THỜI VỀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP CHO GIA ĐÌNH CÔNG NHÂN, VIÊN
CHỨC CÁC CƠ QUAN, XÍ NGHIỆP NHÀ NƯỚC GẶP KHÓ KHĂN
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG-BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Kính
gửi:
|
Các Bộ, cơ quan, đoàn thể
trung ương.
Các Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh.
Các Sở, Ty, Phòng lao động.
|
Sau 3 năm cải
tạo và phát triển kinh tế, Chính phủ đã nâng mức lương bình quân của công nhân,
viên chức lên 25% so với năm 1957. Đi đôi với việc tăng lương, Chính phủ đã
bình ổn giá cả thị trường và giải quyết việc làm cho một số người thiếu việc
trong đó có những người trong gia đình công nhân, viên chức. Vì vậy mà mức sinh
hoạt của gia đình công nhân, viên chức nói chung đã được cải thiện rõ rệt,
nhưng riêng một số người do hoàn cảnh đông con, phải nuôi cha mẹ già mức sức
lao động hoặc gặp những hoạn nạn bất thường mà tiền lương bản thân thấp, thu nhập
gia đình ít, nên sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn.
Để giải quyết
hoàn cảnh khó khăn túng thiếu cho số công nhân, viên chức như đã nói trên, ngày
14 tháng 12 năm 1960 Ban Thường vụ Hội đồng Chính phủ đã thông qua đề nghị của
Liên bộ: Lao động - Nội vụ “tạm thời sử dụng một số tiền trong quỹ xã hội để trợ
cấp cho số công nhân, viên chức đó, nhằm giúp đỡ anh chị em giải quyết một phần
khó khăn về sinh hoạt để anh chị em an tâm, phấn khởi công tác và sản xuất”.
Liên bộ Lao động
- Nội vụ ra thông tư quy định và hướng dẫn thi hành chế độ trợ cấp đó như sau:
I. PHƯƠNG CHÂM, NGUYÊN TẮC
1. Việc
xét trợ cấp cho gia đình công nhân, viên chức với nhân dân địa phương.
2. Cần
phân biệt hoàn cảnh người khó khăn nhiều hay ít, khó khăn thường xuyên hay khó
khăn tạm thời để định mức trợ cấp cho thích đáng.
3. Cách
xét trợ cấp cần làm nhanh và gọn để giải quyết kịp thời khó khăn cho công nhân,
viên chức.
Để bảo đảm
phương châm, nguyên tắc nói trên, khi xét trợ cấp cho công nhân, viên chức cần
phải căn cứ hai điểm sau đây:
1. Mức
thu nhập bình quân đầu người trong gia đình.
2.
Hoàn cảnh khó khăn đáng được trợ cấp
II. NỘI DUNG
CỤ THỂ
1. Những
gia đình công nhân, viên chức có những điều kiện như sau thì được xét trợ cấp:
a) Mức thu nhập
bình quân đầu người trong gia đình ngang với những mức quy định cho từng địa
phương như sau:
- Những gia
đình sống ở nội thành Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và khu vực Hòn Gay, Cẩm Phả
có mức thu nhập bình quân đầu người 12 đồng trở xuống.
- Những gia
đình sống ở các thị xã có mức thu nhập bình quân đầu người 10 đồng trở xuống.
- Những gia
đình sống ở nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người 8 đồng trở xuống.
b) Những gia
đình có mức thu nhập bình quân như trên và có những hoàn cảnh như sau thì được
xét trợ cấp:
- Do đông con
nhỏ, nuôi cha mẹ già mất sức lao động, gia đình có người ốm đau luôn mà mức thu
nhập bình quân đầu người trong gia đình thấp nên phải ăn đói mặc rách, và nếu
có vay mượn cũng không có khả năng trả dần.
- Do đông người
ăn, còn có người chưa có việc làm mà mức thu nhập bình quân đầu người trong gia
đình thấp nên có ăn thì thiếu mặc hoặc ngược lại.
- Do gia đình
có người chết hay gặp những hoạn nạn bất ngờ nên phải chi tiêu mất nhiều tiền
làm cho mức sinh hoạt trong gia đình đang bình thường trở nên quá thiếu thốn và
phải ăn đói mặc rách để trả nợ.
Những hoàn cảnh
khó khăn trên đây là biểu hiện của 3 trường hợp: khó khăn thường xuyên, khó
khăn tạm thời và khó khăn đột xuất. Cả 3 trường hợp đó có dẫn đến hoàn cảnh ăn
đói, mặc rách, hoặc thiếu ăn, thiếu mặc thì mới trợ cấp và tùy theo mức độ khó
khăn nhiều hay ít để trợ cấp cho thích hợp với những mức đã quy định.
Đối với những
gia đình sống ở nông thôn được quy định mức thu nhập bình quân đầu người là 8 đồng
trở xuống và có những hoàn cảnh khó khăn như trên thì được xét để trợ cấp,
nhưng khi xét trợ cấp cần giữ quan hệ với mức thu nhập bình quân của gia đình
xã viên hợp tác xã nơi gia đình người đó ở. Vì vậy tiền trợ cấp cộng với thu nhập
gia đình chia bình quân đầu người không được cao hơn mức thu nhập bình quân đầu
người của những gia đình xã viên được thu nhập cao nhất ở hợp tác xã nơi đó
(không kể những trường hợp cá biệt đột xuất).
c) Trong những
trường hợp thật đặc biệt như: có gia đình gặp cả hai, ba trường hợp khó khăn
như trên hoặc gặp trường hợp khó khăn đột xuất khác, thì dù mức thu nhập bình
quân đầu người trong gia đình có cao hơn mức quy định là 8 đồng, 10 đồng và 12
đồng, cũng được xét trợ cấp. Nhưng mức thu nhập bình quân đầu người trong những
gia đình đó, nếu cao hơn những mức quy định sau đây thì dù có khó khăn cũng
không được trợ cấp (vì họ có khả năng vay mượn để giải quyết khó khăn và sau đó
có khả năng trả dần):
- Ở thành phố:
15 đồng
- Ở thị xã:
12 đồng
- Ở nông
thôn: 10 đồng
2. Cách
tính thu nhập bình quân:
a) Tất cả những
thứ thu nhập hàng ngày, hàng tháng, hàng năm để sử dụng vào ăn, mặc, tiêu dùng
trong gia đình mà có thể ghi chép được để quy ra tiền thì đều gọi là thu nhập
và được chia bình quân đầu người trong gia đình.
Những thu nhập
khác quá ít, hoặc không thể ghi chép được để quy ra tiền thì không coi là thu
nhập. Thí dụ: mò cua, bắt ốc bán để thêm vào mức ăn hàng ngày, nhặt nhạnh, quét
tước rơm rạ, lá cây về thổi nấu hàng ngày, bán một vài con gà, vịt (không phải
chuyên về nghề chăn nuôi), trồng được luống rau đủ ăn hoặc con nhỏ đi bán kem,
bán lạc rang, v.v…
b) Khi tính
thu nhập bình quân đầu người trong gia đình thì lấy tổng số thu nhập của 1 năm
hoặc 3 tháng kể trước để chia cho 12 tháng hoặc 3 tháng rồi lấy mức thu nhập
bình quân của 1 tháng chia cho số người trong gia đình mà người công nhân, viên
chức trực tiếp nuôi. Nếu những gia đình chỉ có một nguồn thu nhập đều đặn về tiền
lương hàng tháng thi lấy thu nhập tháng đó chia cho số người trong gia đình.
Thí dụ:
- Tháng 1 năm
1961 xét trợ cấp cho gia đình anh A thì lấy tổng số thu nhập trong gia đình anh
A từ tháng 10, 11, 12 năm 1960 (hoặc từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1960) để chia
cho 3 tháng (hoặc 12 tháng) rồi lấy mức thu nhập bình quân trong 1 tháng để
chia cho số người trong gia đình mà anh A trực tiếp nuôi. Trường hợp này áp dụng
cho tất cả những gia đình có nguồn thu nhập thất thường (tháng này nhiều tháng
sau ít hay ngược lại) như người buôn bán, người làm nghề chăn nuôi, trồng trọt
và những người hưởng lương công nhật, lương khoán v.v…
- Nhưng nếu
là người chỉ có nguồn thu nhập là lương tháng cố định thì lấy tiền thu nhập 1
tháng để chia cho số người trong gia đình mà người công nhân, viên chức trực tiếp
nuôi.
c) Trường hợp
người công nhân, viên chức không ăn chung với gia đình, thì khi tính mức thu nhập
bình quân đầu người trong gia đình đó sẽ trừ đi một số tiền tương đương với mức
tiền ăn thực tế 1 tháng của 1 công nhân, viên chức ăn trong cơ quan hay xí nghiệp
(không tính tiền quà và tiêu vặt) phần tiền lương còn lại sẽ tính cộng vào thu nhập
của gia đình (nếu có) để chia cho đầu người trong gia đình. Thí dụ:
1. Anh
B công tác ở Hà Nội, lương mỗi tháng 52 đồng, có 1 vợ và 2 con ở Thanh Hóa, mức
thu nhập bình quân 1 tháng của vợ và con là 8 đồng thì tính như sau:
- Thu nhập của
bản thân anh B là 52 đồng và được trừ đi một mức ăn thực tế của cơ quan là 18 đồng.
- Số tiền còn
lại tính vào thu nhập của gia đình là: 52đ – 18đ = 34 đồng.
- Bình quân đầu
người trong gia đình anh B là: (34đ + 8đ) : 3 = 14 đồng.
2. Hai
vợ chồng công tác ở hai cơ quan khác nhau và không có điều kiện ăn chung, có 4
con và các con ăn ở cùng với mẹ chúng thì phần tiền lương của anh B cũng được
tính như thí dụ 1 trên đây.
3. Hai
vợ chồng công tác ở hai cơ quan khác nhau và không có điều kiện ăn chung, có 4
con và các con sống với bà ở một nơi khác thì phần tiền lương của mỗi người (vợ
và chồng) được trừ một số tiền như thí dụ 1 nói trên, phần tiền lương còn lại của
hai người sẽ cộng vào thu nhập (nếu có) của 4 con và 1 mẹ già để chia bình quân
cho 5 người đó.
4. Hai
vợ chồng sinh hoạt ở hai nơi, có 4 con nhưng 2 con sống với bố và 2 con sống với
mẹ, trường hợp này cộng cả thu nhập của vợ và chồng để chia cho 6 người (không
trừ như thí dụ 1).
3. Mức trợ
cấp:
Tùy theo mức
độ khó khăn của từng người nhiều hay ít, khó khăn thường xuyên hay tạm thời để
áp dụng mức tiền trợ cấp mỗi lần như sau:
- Mức nhiều
nhất là 30 đồng.
- Mức ít nhất
là 10 đồng.
Trong khoảng
cách từ 10 đồng đến 30 đồng có thể chia làm ba mức 15 đồng, 20 đồng và 25 đồng,
không nên chia nhiều mức nữa.
4. Phạm vi
và đối tượng trợ cấp:
- Tất cả công
nhân, viên chức kể cả trong và ngoài biên chế đã công tác thường xuyên, liên tục
được 1 năm trở lên trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước đều là đối tượng để
xét trợ cấp.
Trường hợp
công nhân, viên chức thuyên chuyển từ cơ quan này sang cơ quan khác, xí nghiệp
này sang xí nghiệp khác (không bị đứt đoạn), thời gian chờ đợi phân công tác,
thời gian ốm đau phải nghỉ việc được coi như liên tục công tác.
- Đối với
công nhân, viên chức công tác và sản xuất trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Bộ
Quốc phòng được áp dụng theo những quy định trong thông tư này nhưng kinh phí
do ngân sách Bộ Quốc phòng đài thọ.
- Đối với những
công nhân, viên chức công tác và sản xuất trong các xí nghiệp địa phương mới
xây dựng không có chỉ tiêu lao động và tiền lương trong kế hoạch Nhà nước, những
công nhân, viên chức trong các trường phổ thông dân lập v.v… thì các Ủy ban hạn
mức tùy theo khả năng tài chính của địa phương và của mỗi xí nghiệp mà quyết định
đối tượng, mức độ và phạm vi áp dụng thông tư này. Các xí nghiệp công tư hợp
doanh sẽ quy định riêng.
5. Dự trù
xin cấp phát và thanh toán kinh phí:
Số tiền dự
chi cho khoản trợ cấp khó khăn năm 1961 nằm trong quỹ xã hội do Nghị định số 167-TTg
ngày 27-4-1959 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thành phần tổng mức tiền
lương ở mục 5 phụ cấp ngoài lương, tiết trợ cấp xã hội. Quỹ xã hội đã được Nhà
nước quy định theo tỷ lệ so với tổng quỹ lương, do đó những cơ quan, xí nghiệp
nào có kế hoạch lao động và tiền lương đều là những đơn vị được dự trù tiền trợ
cấp khó khăn với một tỷ lệ nhất định so với quỹ xã hội.
Nhưng vì qũy
xã hội hiện nay chưa được phân bổ, Liên bộ tạm thời phân phối mức dự trù tính bằng
tiền cho mỗi địa phương. Các cơ quan, xí nghiệp thuộc địa phương nào thì căn cứ
mức tiền đã quy định và số lượng công nhân, viên chức thuộc đối tượng trợ cấp
(những người đã công tác 12 tháng trở lên) để lập dự trù. Số tiền trợ cấp đó mỗi
cơ quan, xí nghiệp sẽ sử dụng để trợ cấp trong thời gian 6 tháng cho công nhân,
viên chức trong cơ quan xí nghiệp mình. Các địa phương không được điều chỉnh giữa
nơi thừa qua nơi thiếu, giữa xí nghiệp này và xí nghiệp khác, giữa khu vực sản
xuất với khu vực hành chính sự nghiệp. Riêng đối với một số cơ quan thuộc khu vực
hành chính sự nghiệp vì trường hợp phân tán quá ít người sẽ quy định cụ thể ở
đoạn b dưới đây.
a) Mức tiền
dự trù quy định cho các cơ quan, xí nghiệp ở các địa phương như sau:
- Các cơ quan
(trừ các cơ quan và đoàn thể trung ương) và các xí nghiệp ở nội thành Hà Nội, Hải
Phòng, khu vực Hòn Gay - Cẩm Phả, tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh
được dự trù 2đ10 nhân với tổng số công nhân, viên chức thuộc đối tượng trợ cấp
(những người đã công tác 12 tháng trở lên).
- Các cơ
quan, xí nghiệp ở thành phố Nam Định, các cơ quan và đoàn thể trung ương ở Hà Nội
được dự trù 2 đồng nhân với tổng số công nhân, viên chức thuộc đối tượng trợ cấp.
- Các cơ
quan, xí nghiệp ở ngoại thành Hà Nội Hải Phòng và các khu, tỉnh khác được dự
trù 1đ90 nhân với tổng số công nhân, viên chức thuộc đối tượng trợ cấp.
b) Những
cơ quan, xí nghiệp được dự trù tiền trợ cấp quy định cụ thể như sau:
- Ở khu vực sản
xuất: Tất cả những xí nghiệp đã có kế hoạch lao động và tiền lương đều là đơn vị
dự trù tiền trợ cấp.
Riêng đối với
một số xí nghiệp quá ít người, số tiền dự trù được ít nên không giải quyết được
những trường hợp khó khăn của công nhân, viên chức thì các Bộ, các ngành chủ quản
sẽ bàn với Bộ Lao động để giải quyết.
- Ở khu vực
hành chính sự nghiệp:
Các Bộ, các
cơ quan ngang Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ là những đơn vị dự
trù tiền trợ cấp cho tất cả các cơ quan trực thuộc mình và căn cứ tình hình cụ
thể từng cơ quan trực thuộc để giao lại mức bình quân quy định trên cho những
cơ quan đó tự quản lý sử dụng.
Ở các thành
phố, khu, tỉnh, Ủy ban hành chính sẽ lập dự trù chung cho tất cả các huyện và Ủy
ban hành chính căn cứ tình hình cụ thể từng cơ quan để giao lại mức bình quân
quy định trên cho những cơ quan đó tự quản lý sử dụng, nhưng nếu có cơ quan ít
người, số tiền được tính theo mức bình quân quá ít nên không giải quyết được những
trường hợp khó khăn trong cơ quan, thì Ủy ban có thể không phân phối theo mức
bình quân cho từng đơn vị, mà tập trung lại để giải quyết chung cho những cơ
quan đó.
c) Thể thức
xin cấp phát và thanh toán:
- Các cơ quan
thuộc khu vực hành chính sự nghiệp lập dự toán xin cơ quan Tài chính cấp phát
theo thể lệ cấp phát dự toán hiện hành. Nếu đầu năm 1961 có cơ quan đã dự trù số
tiền chi về trợ cấp khó khăn nhưng số tiền dự trù đó không bằng số tiền tính
bình quân đầu người quy định trong thông tư này và cơ quan phải chi nhiều hơn số
tiền đã dự trù thì cơ quan lập dự toán xin cấp phát thêm cho đủ.
Thí dụ: cơ
quan có 200 người, đầu năm 1961 đã dự trù 300đ để trợ cấp khó khăn nhưng theo mức
bình quân quy định trong thông tư này thì cơ quan được dự trù (200 xí nghiệp
2đ) = 400đ, như vậy cơ quan được dự toán xin cấp phát 100 đồng nữa.
- Đối với các
xí nghiệp quốc doanh thuộc khu vực sản xuất, khoản trợ cấp khó khăn này sẽ lấy
trong quỹ xã hội để chi và thực chi tháng nào thì thanh toán vào khoản chi phí
về quỹ xã hội tháng đó.
Những xí nghiệp
có quỹ xí nghiệp, nếu đã chi hết số tiền theo mức quy định thuộc quỹ xã hội mà
còn có người phải trợ cấp thì lấy quỹ xí nghiệp để chi thêm (thể lệ 133/TTg
ngày 04-4-1957 của Thủ tướng Chính phủ).
Để chấp hành
đúng đắn chủ trương của Chính phủ gây ảnh hưởng tốt trong quần chúng, các Bộ,
các cơ quan Dân, Đảng và các Ủy ban hành chính địa phương cần lưu ý các vấn đề
sau đây:
1. Các
Bộ, các cơ quan Dân, Đảng và các Ủy ban hành chính địa phương có trách nhiệm tổ
chức phổ biến chính sách cho các xí nghiệp và cơ quan thuộc phạm vi mình phụ
trách và có kế hoạch phổ biến đến tận công nhân, viên chức.
2. Các
cơ quan, xí nghiệp được dự trù một số tiền tính bình quân theo đầu người
thuộc đối tượng trợ cấp quy định trên đây để chi trong 6 tháng đầu năm 1961,
khi nào có người gặp khó khăn cần phải trợ cấp thì thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp
phối hợp với Ban chấp hành Công đoàn xét trợ cấp theo đúng những quy định trong
thông tư này, không dùng hình thức bình nghị, không làm từng đợt và cũng không
phải qua Ủy ban hành chính địa phương xét duyệt như những năm trước đây.
3. Tuy
không phải xét duyệt việc trợ cấp cho các cơ sở nhưng Ủy ban hành chính thành
phố, khu, tỉnh có nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc, lãnh đạo việc thực hiện chính
sách trong địa phương mình và theo dõi tổng hợp tình hình để báo cáo cho Liên bộ
Lao động, Nội vụ và Tài chính (mỗi nơi 1 bản).
4. Các
Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các cơ
quan Dân, Đảng ở trung ương phối hợp chặt chẽ với Ban chấp hành Công đoàn cơ
quan xét trợ cấp cho công nhân, viên chức trong cơ quan mình và báo cáo thẳng
cho Liên bộ Lao động, Nội vụ và Tài chính (mỗi nơi 1 bản).
5. Những
công nhân, viên chức đi học, đi điều trị và đi công tác trong hay ngoài nước, nằm
chờ phân công tác, thuộc đơn vị nào trả lương thì đơn vị dò xét duyệt và xuất
tiền trợ cấp.
6. Đối
với gia đình ở lại trong nước của những công nhân, viên chức công tác ở các cơ
quan ngoại giao của ta ở nước ngoài sẽ do Bộ Ngoại giao xét duyệt và xuất tiền
trợ cấp.
7. Trường
hợp hai vợ chồng công tác ở hai cơ quan khác nhau thì đơn vị sử dụng người chồng
xét và xuất tiền trợ cấp (nếu chồng là quân nhân tại ngũ thì cơ quan sử dụng
người vợ xét cấp).
Ở những nơi cần
xét trợ cấp cho người vợ thì cơ quan, xí nghiệp sử dụng phải báo cáo cho cơ
quan sử dụng người chồng biết để tránh trường hợp hai nơi cùng trợ cấp cho 1
gia đình.
8. Bước
đầu thực hiện cách phân phối tiền trợ cấp (thuộc quỹ xã hội) tính bình quân
theo đầu người chưa có kinh nghiệm, tất nhiên không thể tránh khỏi những mắc mứu
cụ thể khi thực hiện ở cơ sở, vì vậy đề nghị các Bộ, các cơ quan trung ương,
các Ủy ban hành chính thành phố, khu, tỉnh và các xí nghiệp cần đặc biệt chú ý
và thực hiện đúng kỳ hạn báo cáo như sau để Liên bộ kịp thời phát hiện tình
hình thiếu sót và bổ sung chính sách cho 6 tháng cuối năm được sát đúng hơn:
- Các cơ
quan, xí nghiệp ở địa phương nào thì gửi báo cáo cho Ủy ban hành chính địa
phương ấy vào ngày 25 đến ngày 30-3-1961.
- Các Bộ, các
cơ quan ngang Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các cơ quan Dân, Đảng
trung ương và các Ủy ban hành chính địa phương tập hợp những báo cáo của các đơn
vị trực thuộc gửi cho Liên bộ Lao động. Nội vụ và Tài chính (mỗi nơi 1 bản) vào
ngày 5 đến ngày 10-4-1961. Trong báo cáo cần nêu thật cụ thể những khó khăn, mắc
mứu của địa phương và những ý kiến đề nghị để Liên bộ có cơ sở kịp thời bổ sung
những điểm cần thiết.
Liên bộ gửi mẫu
báo cáo kèm theo thông tư này, các cơ quan, xí nghiệp lập sổ sách thống nhất,
theo dõi từ khi bắt đầu tiến hành trợ cấp để giúp cho việc báo cáo 3 tháng được
dễ dàng.
Thông tư này
có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Trong lúc thi hành gặp mắc mứu thì các Bộ, các
cơ quan, xí nghiệp phản ảnh cho Liên bộ biết để giải quyết kịp thời.
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Lê Tất Đắc
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Đăng
|
I. MẪU TỔNG HỢP
Số
thứ tự
|
Tên
cơ quan hay xí nghiệp
|
Tổng
số công nhân viên chức
|
Số
CNVC thuộc đối tượng được trợ cấp
|
Số
lần đã trợ cấp
|
Số
lần đã trợ cấp theo những mức quy định
|
Tổng
số tiền đã trợ cấp
|
Tính
bình quân 1 người được trợ cấp
|
Trong
biên chế
|
Ngoài
biên chế
|
Số
CNVC thuộc đối tượng
|
Số
CNVC đã được trợ cấp
|
10đ
|
15đ
|
20đ
|
25đ
|
30đ
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
|
Khu vực sản xuất
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cộng:
Khu vực hành chính
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cộng:
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng cộng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Giải thích: Cột 3: Ghi số
công nhân, viên chức trong và ngoài biên chế thường xuyên, liên tục được một
năm trở lên.
(Số công nhân, viên chức thuộc đối
tượng).
Cột 4: Ghi tổng số người được trợ
cấp, có thể có người được trợ cấp 2, 3 lần nhưng chỉ ghi vào cột thống kê: 1
người.
Cột 5: Ghi tổng số lần mà cơ
quan đã trợ cấp, có thể có người được trợ cấp 2, 3 lần thì cũng ghi là 2, 3 lần.
Mỗi lần trợ cấp bao nhiêu tiền thì ghi vào cột 6, 7, 8, 9, 10. Thí dụ: trợ cấp
mức 10đ có 25 lần, mức 15đ có 20 lần, v.v…
II. NHỮNG MẮC MỨU VÀ ĐỀ NGHỊ:
- Kế hoạch phổ biến chính sách
và tiến hành trợ cấp ở cơ sở như thế nào?
- Quá trình tiến hành trợ cấp gặp
những mắc mứu gì?
- Tác dụng của chính sách đối với
quần chúng?
- Cơ sở và địa phương đề nghị
gì?