BỘ
TÀI CHÍNH
*******
Số:
85-TC/HCP
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 22 tháng 07 năm 1958
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THANH TOÁN TRUY LĨNH VÀ TRẢ LƯƠNG MỚI
Thi hành Nghị
định số 182/TTg ngày 07-04-1958 và số 270/TTg ngày 31-05-1958 của Thủ tướng phủ
về cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương cho công nhân, cán bộ và viên chức
các xí nghiệp và cơ quan Nhà nước, việc sắp xếp công nhân, cán bộ và viên chức
vào các thang lương mới sẽ hoàn thành trong tháng 07 và 08 năm 1958 này.
Như vậy việc
truy lĩnh lương sẽ tiến hành vào tháng 07 và 08 năm 1958.
Sau khi đã
thỏa thuận với Bộ Nội vụ và Bộ Lao động, Bộ chúng tôi quy định nguyên tắc và
thể thức thanh toán tiền truy lĩnh và lương mới như sau:
I. - NGUYÊN TẮC
Do việc truy
lĩnh lương, trong những tháng sắp tới, Tài chính phải cấp phát một số tiền lớn
vào giữa lúc thu mua nông phẩm của nhân dân và xây dựng cơ bản nhiều, nếu không
có kế hoạch thích hợp thì có thể ảnh hưởng không tốt đến giá cả. Vì vậy trong
việc thanh toán tiền truy lĩnh phải hết sức chú trọng: bảo đảm được giá trị
tiền lương, tránh làm hỗn loạn giá cả thị trường.
Dựa trên
phương châm ấy, tiền truy lĩnh của cán bộ, công nhân, viên chức sẽ trả như sau:
1) Một phần
trả bằng tiền mặt, một phần trả bằng séc để mua hàng của Mậu dịch, cụ thể:
Nếu có tiền
truy lĩnh dưới 10.000đ thì được trả cả bằng tiền mặt.
Nếu số tiền
truy lĩnh trên 10.000đ và dưới 20.000đ thì được trả 10.000đ tiền mặt, số còn
lại bằng séc.
Nếu số tiền
truy lĩnh trên 20.000đ thì được trả một nửa bằng tiền mặt và một nửa bằng séc.
Theo Thông
tư số 270/KT/CĐ ngày 01-07-1958 của Ngân hàng Trung ương)
2) Đối với
công nhân ở xí nghiệp thì tiền truy lĩnh được thanh toán khi nào công nhân viên
trong xí nghiệp đã được xếp vào các thang lương mới, được cơ quan có thẩm quyền
xét duyệt và quyết định chính thức.
3) Đối với
cán bộ, công nhân, viên chức ở các cơ quan hành chính, sự nghiệp và đoàn thể
thì tiền truy lĩnh chỉ thanh toán sau khi cơ quan có thẩm quyền đã duyệt và có
quyết định chính thức về bậc lương của cán bộ công nhân viên.
II. - THỜI GIAN TRUY LĨNH VÀ THỂ THỨC THANH TOÁN TIỀN TRUY
LĨNH
A) THỜI GIAN TRUY LĨNH
Cán bộ, công
nhân viên, sau khi được xếp vào các thang lương mới được cơ quan có thẩm quyền
xét duyệt và có quyết định chính thức, sẽ được thanh toán toàn bộ tiền truy
lĩnh từ tháng 03-1958 (nếu là khu vực sản xuất) và từ tháng 05-1958 (nếu là khu
vực hành chính, sự nghiệp) đến 01-07-1958 (khu vực sản xuất) và 01-08-1958 (khu
vực hành chính sự nghiệp); cụ thể là:
- Khu vực sản
xuất lĩnh lương mới vào tháng 07-1958 thì được truy lĩnh trong những tháng 3,
4, 5 và 06-1958.
- Khu vực
hành chính và sự nghiệp lĩnh lương mới vào tháng 08-1958 thì được truy lĩnh
trong những tháng 5, 6 và 07-1958.
B) CÁCH SO SÁNH THU NHẬP CŨ VÀ THU NHẬP MỚI ĐỂ THANH TOÁN TIỀN
TRUY LĨNH
Số tiền được
truy lĩnh là số chênh lệch giữa thu nhập cũ tính theo các chế độ áp dụng trước
ngày thi hành lương mới và số thu nhập mới tình theo các chế độ lương và phụ cấp
mới.
Ngày thi hành
lương mới là ngày 01-03-1958 đối với khu vực sản xuất, và ngày 01-05-1958 với
khu vực hành chính sự nghiệp.
Thu nhập
mới gồm có:
- Lương cấp
bậc
- Phục cấp
khu vực (nếu có)
- Trợ cấp con
(nếu có)
Thu nhập
cũ gồm có:
a) Chế độ
kháng chiến.
- Lương cấp
bậc.
- Tỷ lệ tăng
lương năm 1956 (5%, 8%, 12%) (Thông tư số 21-TT/LB ngày 15-11-1956 của Liên bộ
Nội vụ - Lao động – Tài chính).
- Phụ
cấp khu vực 6%, 12%, 13%, 20%... (nếu có) (Nghị định số 93-LB/NĐ ngày
27-06-1956 của Liên bộ Nội vụ - Tài chính – Lao động và những Nghị định bổ
sung).
- Phụ cấp con
(nếu có).
- Phụ cấp kỹ
thuật (nếu có) (chỉ thị số 507-TTg ngày 28-10-1957 của Thủ tướng phủ).
- Phụ cấp
tiền ăn, ở ngoài cơ quan ở Hà Nội (nếu có) (chỉ thị số 4142-TV/NC ngày
18-09-1956 của Thủ tướng phủ).
- Phụ cấp
20%, 25%, 30% cho cán bộ, thủy thủ đi sông, đi biển (nếu có).
- Phụ cấp
"hao mòn" thường xuyên phụ vào lương (nếu có).
b) Chế độ
lương xí nghiệp phục hồi:
Gồm các khoản
nói ở điểm a) (nếu có) và thêm:
- Phụ cấp đặc
biệt của xí nghiệp khôi phục (đã ghi trong bảng cấp bậc lương).
- Phụ cấp đặc
biệt cho mỏ Apatite Lào cai (12.000đ).
c) Những
người hưởng chế độ lương tính theo sản phẩm (khoán) thì tính trên cơ sở lương
cấp bậc như những người hưởng lương kháng chiến hay khôi phục nói trên chứ
không tính theo thu nhập lương khoán.
d) Những
người hưởng chế độ nguyên lương (lưu dung) nếu chưa xếp bậc hay đã xếp bậc
nhưng hiện đang giữ nguyên lương thì thu nhập cũ là số tiền nguyên lương, nếu
đã xếp bậc và đã hưởng lương cấp bậc hay lương khoán thì tính trên cơ sở lương
cấp bậc như những người hưởng lương kháng chiến hay lương xí nghiệp khôi phục
nói trên.
Trong số thu
nhập cần chú ý khoản: phụ cấp con theo chế độ cũ và trợ cấp con theo chế độ
mới:
Từ ngày bắt
đầu thi hành lương mới thì chế độ trợ cấp cho gia đình đông con (mới) thay thế
chế độ phụ cấp con cũ (giải thích tại Thông tư số 11/TT/LB ngày 02-05-1958 của
Liên bộ Nội vụ và Lao động và các Thông tư bổ sung).
Khi tính thu
nhập về phần phụ cấp con thì căn cứ vào số tiền phụ cấp con đã thực sự lĩnh
trong những tháng 3, 4, 5, 6 (đối với khu vực sản xuất) và những tháng 5, 6,
7-1958 (đối với khu vực hành chính, sự nghiệp). Có mấy trường hợp sau đây:
1) Trường hợp một người công tác được phụ cấp con:
Số tiền truy
lĩnh là số chênh lệch giữa số đã lĩnh theo chế độ cũ và số được lĩnh tính theo
chế độ mới. Ví dụ:
Ông A, cán bộ
bậc 13/17 công tác tại cơ quan Hành chính ở Hà Nội, có hai con được phụ cấp
cũng ở Hà Nội (số con này từ 01-05-1958 đến nay không thay đổi) đã lĩnh hàng
tháng:
- Lương bậc
13/17 (có 18%)
- Phụ cấp 2
con (mỗi con 18k)
|
39.884đ
14.400đ
|
Cộng:
|
54.284đ
|
Nay được xếp
bậc 7/21 thang lương hành chính, được lĩnh mỗi tháng:
- Lương
chính
- Phụ cấp
khu vực 12%
|
50.000đ
6.000đ
|
|
56.000đ
|
Như vậy ông A
được truy lĩnh mỗi tháng: 56.000đ – 54.284đ = 1.716đ
Nếu ông A đến
tháng 06-1958 có thêm 1 con nữa, thì tháng 06 và 07-1958 đã lĩnh mỗi tháng:
- Lương bậc
13/17 (có 18%)
- Phụ cấp 3
con, mỗi con 18k
|
39.884đ
21.600đ
|
|
61.484đ
|
và tính theo
lương mới và trợ cấp con mới thì tháng 06 và 07-1958 được lĩnh mỗi tháng:
- Lương
chính
- Phụ cấp
khu vực 12%
- Trợ cấp
con thứ 3
|
50.000đ
6.000đ
5.000đ
|
|
61.000đ
|
SO SÁNH
Đã lĩnh
theo chế độ cũ:
Tháng
5-1958
- 6-1958
- 7-1958
|
54.284đ
61.484đ
61.484đ
|
Cộng:
|
177.252đ
|
Được lĩnh
theo chế độ mới:
Tháng
5-1958
- 6-1958
- 7-1958
|
56.000đ
61.000đ
61.000đ
|
Cộng:
|
178.000đ
|
Số tiền truy
lĩnh trong 3 tháng 5, 6 và 7-1958 là: 178.000 – 177.252đ = 748đ.
Và từ tháng
08-1958 ông A lĩnh lương mới (có phụ cấp khu vực) và trợ cấp con theo chế độ
mới là 61.000đ.
2) Trường hợp hai vợ chồng đều công tác được hưởng lương
mới cùng một ngày và cả hai đều được hưởng phụ cấp con:
Nếu hai vợ
chồng cùng công tác ở trong biên chế Nhà nước, bắt đầu từ ngày thi hành lương
mới, sẽ tính trợ cấp con mới cho người có lương con. Để thanh toán tiền truy
lĩnh, cũng tính phụ cấp con trước đây (nếu có) vào người có lương cao để tính
chênh lệch giữa số tiền đã lĩnh theo chế độ cũ và số tiền được lĩnh theo chế độ
mới.
Ví dụ: chị C
là cán bộ bậc 15/17 công tác ở cơ quan Hành chính tại Hà Nội, có chồng là cán
bộ bậc 10/17 công tác ở cơ quan Hành chính thị xã Nam Định, có 3 con Hà Nội; từ
trước nay chị C vẫn lĩnh phụ cấp ba con là 36.000đ, nay chị C được xếp bậc
5/21; chồng được xếp bậc 11/21 thang lương Hành chính. Như vậy tính truy lĩnh:
PHẦN CHỊ C
Đã lĩnh
theo chế độ cũ:
- lương
chính bậc 15/17
- phụ cấp
khu vực 18%
|
29.380đ
5.286đ
|
Cộng:
|
34.668đ
|
Được lĩnh
theo chế độ mới:
- lương
chính bậc 5/21
- phụ cấp
khu vực 12%
|
40.000đ
4.800đ
|
Cộng:
|
44.800đ
|
Mỗi tháng chị
C được truy lĩnh: 44.800đ – 34.668đ = 10.132đ
PHẦN NGƯỜI
CHỒNG
Đã lĩnh
theo chế độ cũ:
- lương bậc
10/17
- tăng
lương 5%
- phụ cấp 3
con
|
44.200đ
2.210đ
36.000đ
|
Cộng:
|
72.410đ
|
Được lĩnh
theo chế độ mới:
- lương bậc
11/21
- phụ cấp
khu vực 6%
- trợ cấp
con thứ 3
|
82.000đ
4.920đ
5.000đ
|
Cộng:
|
91.920đ
|
Mỗi tháng
được truy lĩnh: 91.920đ – 72.410đ = 19.510đ.
Bắt đầu từ
tháng lĩnh lương mới thì chị C lĩnh mỗi tháng 44.800đ, còn trợ cấp con thì do
người chồng lĩnh.
Nếu từ sau
ngày thi hành lương mới đến khi thanh toán tiền truy lĩnh lương mà số con có
thay đổi, thì theo ví dụ ở trường hợp 1 để tính lại số tiền được truy lĩnh.
3) Trường hợp hai vợ chồng công tác ở hai cơ quan thuộc
hai khu vực mà ngày thi hành lương mới khác nhau:
Theo nguyên
tắc đã quy định, nếu mỗi con được phụ cấp 30kg thì cơ quan thuộc khu vực sản
xuất trả 12kg, cơ quan chính quyền trả 18kg, nếu mỗi con được phụ cấp 20kg thì
cơ quan thuộc khu vực sản xuất trả 8kg tức 3.200đ cơ quan chính quyền trả 12kg
tức 4.800đ.
Nếu từ trước
đến nay, trên thực tế các cơ quan các ngành không trả phụ cấp con theo nguyên
tắc trên đây (có khi vợ, hay chồng lĩnh cả 20kg hoặc 30kg) thì nay cũng phải
theo nguyên tắc này mà tính để thanh toán truy lĩnh.
Có hai
trường hợp:
a) Trường
hợp người lương cao công tác ở cơ quan Hành chính, Sự nghiệp hay quân đội (lương
mới thi hành từ 01-05-1958) người lương thấp công tác ở khu vực sản xuất (lương
mới thi hành từ 01-03-1958) thì thanh toán truy lĩnh như sau:
Phần người
lương thấp: tính số tiền đã lĩnh gồm có: lương cấp bậc cũ, tỷ lệ tăng lương
và phụ cấp khu vực (nếu có), các khoản phụ cấp khác (nếu có) cộng với phụ cấp
con (3.200đ, mỗi đứa nếu con thuộc loại 20kg, 4.800đ, nếu con thuộc loại 30kg);
và số tiền được lĩnh theo chế độ mới gồm có: lương cấp bậc cộng phụ cấp khu vực
(nếu có). So sách hai số tiền này để thanh toán truy lĩnh hai tháng: 03 và
04-1958.
Từ 01-05-1958
người lương cao đã hưởng lương mới thì tính truy lĩnh cho hai người theo trường
hợp hai nói trên.
Ví dụ: Chị A,
công nhân ở xí nghiệp Dệt Nam Định lương cũ theo cấp bậc (có tỷ lệ tăng lương)
là 30.000đ. có chồng là cán bộ ở cơ quan Hành chính ở Hà Nội lương cũ theo cấp
bậc (có tỷ lệ tăng lương và phụ cấp khu vực) là 50.000đ, có 3 con ở Nam Định
phụ cấp mỗi con 20kg từ trước đến nay xí nghiệp trả mỗi con 8kg, cơ quan chính
quyền trả 12kg; nay chị A được xếp bậc lương mới là 40.000đ.
TÍNH TRUY
LĨNH PHẦN CHỊ A:
Đã lĩnh
theo chế độ cũ
- lương cấp
bậc (có tỷ lệ tăng lương)
- phụ cấp
con = (8kg x 3 x 400đ)
|
30.000đ
9.600đ
|
Cộng:
|
39.600đ
|
Được lĩnh
theo chế độ mới
- lương cấp
bậc
- phụ cấp
khu vực 6%
|
40.000đ
2.400đ
|
Cộng:
|
42.400đ
|
Như vậy chị A
được truy lĩnh về tháng 03 và 04-1958 là: (42.400đ – 39.600đ) x 2 = 5.600đ
Nếu số tiền
được lĩnh tính theo chế độ mới mà thấp hơn thì không bắt hoàn loại. (Đây là một
chủ trương nhằm chiếu cố).
Từ 01-05-1958
trở đi thì chị A được truy lĩnh số chênh lệch giữa lương cũ và lương mới
(42.400đ – 30.000đ = 12.400đ); còn phụ cấp con thì bắt đầu từ 01-05-1958 chuyển
toàn bộ (20kg hay 30kg mỗi đứa) sang cho người chồng để tính theo trường hợp 2
nói trên.
b) Trường
hợp người lương cao công tác ở khu vực sản xuất, người lương thấp công tác ở
khu vực hành chính, sự nghiệp (hay quân đội).
Để tính truy
lĩnh về hai tháng 03 và 04-1958 cho người lương cao thì so sánh:
- Số tiền đã
lĩnh gồm có: lương cấp bậc, tỷ lệ tăng lương và phụ cấp khu vực (nếu có) cộng
với phụ cấp con 3.200đ hoặc 4.800đ mỗi đứa.
- Số tiền
được lĩnh sau khi thi hành lương mới gồm có: lương cấp bậc và phụ cấp khu vực
(nếu có).
Từ 01-05-1958
trở đi, chuyển toàn bộ phụ cấp con sang người lương cao rồi tính truy lĩnh cho
mỗi người theo trường hợp 2 nói trên.
Phụ cấp
tiền ăn, ở ngoài ở Hà Nội.
Từ ngày thi
hành lương mới khoản phụ cấp ăn, ở ngoài ở Hà Nội không còn nữa. Nếu cơ
quan, xí nghiệp đã cấp 4.500đ, 2.500đ cho những cán bộ, công nhân viên ra ăn, ở
ngoài sau ngày thi hành lương mới thì phải cộng số tiền đã cấp đó vào số đã
thực lĩnh để thanh toán truy lĩnh.
*
* *
Riêng đối với
nữ cán bộ, công nhân viên ở các cơ quan hành chính, sự nghiệp, khu vực sản xuất
nếu có chồng là cán bộ quân đội từ trung đội phó trở xuống thì nữ cán
bộ, công nhân viên nếu được hưởng phụ cấp con thì tiếp tục lĩnh ở nơi mình công
tác mà không chuyển khoản phụ cấp con này sang bên quân đội để tính cho người
chồng. (Sở dĩ quy định như vậy vì quân nhân từ cấp Trung đội phó trở xuống còn
hưởng chế độ cung cấp, nên khó so sánh với mức lương của công nhân viên).
Đối với nữ
cán bộ, công nhân viên ở cơ quan hành chính, sự nghiệp và đơn vị sản xuất có
chồng là cán bộ quân đội từ Trung đội trưởng trở lên thì từ tháng
07-1958, trợ cấp con đã do bên quân đội trả. Nếu cơ quan xí nghiệp cũng đã trả
phụ cấp con cho nữ cán bộ, công nhân viên đó về tháng 07-1958 rồi thì khi thanh
toán truy lĩnh phải thu hồi số tiền phụ cấp con về tháng 07-1958 đó, để tránh
tình trạng trả hai lần.
*
* *
Để tránh
thiệt thòi cho cán bộ, công nhân viên cũng như tránh tổn thất cho công quỹ, các
cơ quan cần nghiên cứu kỹ các trường hợp cụ thể, nếu chưa rõ cần trao đổi chu
đáo với cơ quan cũ về phụ cấp con (số con được phụ cấp, thuộc vào loại 20kg hay
30kg, đã lĩnh đến ngày nào, số con có thay đổi gì không từ ngày thi hành lương
mới...) để tính tiền truy lĩnh cho đúng với những quyết định trên.
III. TRƯỜNG HỢP BẢO LƯU SỐ THU NHẬP CŨ
Những cán bộ,
công nhân viên mà số thu nhập mới thấp hơn số thu nhập cũ thì được giữ khoản
chênh lệch (tức là bảo lưu số thu nhập cũ).
Số thu nhập
cũ là số thu nhập trước ngày 01-03-1958 (đối với khu vực sản xuất) và trước
ngày 01-05-1958 (đối với khu vực hành chính và sự nghiệp hay quân đội).
Số thu nhập
cũ gồm những khoản nói ở mục II, đoạn B trên đây.
Để tính bảo
lưu trong số thu nhập cũ, cần chú ý những khoản thường hay thay đổi như sau:
1) Tiền phụ cấp ăn, ở ngoài:
Chỉ tính tiền
phụ cấp ăn, ở ngoài ở Hà Nội:
- 4.500 đ
(nếu ăn và ở ngoài)
- 2.500 đ
(nếu ăn tại cơ quan và ở ngoài) thi hành cho tất cả các loại cán bộ, công nhân
viên đã hưởng trước ngày 01-03-1958 (khu vực sản xuất) và trước ngày
01-05-1958 (khu vực hành chính và sự nghiệp). Cơ quan nào, ngành nào đã cấp
trên 4.500đ thì cũng chỉ được cộng 4.500đ hoặc 2.500đ vào thu nhập cũ thôi. Nếu
điều động về địa phương không ở Hà Nội thì không được tính khoản phụ cấp này vào
lương bảo lưu nữa.
Những địa
phương đã cấp tiền cho cán bộ, công nhân viên ra ăn, ở ngoài sau khi bãi bỏ cấp
dưỡng ở cơ quan thì số tiền này không được cộng vào số thu nhập cũ để tính bảo
lưu.
2) Phụ cấp con:
Lấy mức phụ
cấp con đã hưởng trước ngày 01-03-1958 hay 01-05-1958 để tính và số thu nhập cũ
được bảo lưu. Những con đẻ sau ngày 01-03-1958 ở khu vực sản xuất, sau ngày
01-05-1958 ở khu vực hành chính và sự nghiệp thì hưởng theo chế độ trợ cấp cho
gia đình đông con (mới) không được tính vào số thu nhập cũ để bảo lưu.
Nếu sau ngày
thi hành lương mới mà số con được hưởng phụ cấp trước ngày 01-03-1958 hay
01-05-1958 có giảm bớt (vì chết, hết tuổi được phụ cấp, được học bổng...) hay
thay đổi chỗ ở từ Hà Nội, Gia lâm, ngoại thành Hà Nội về các địa phương (không
có phụ tăng 50%, 30%, 20%) thì phải tính mức phụ cấp theo chế độ cũ và bỏ các
khoản phụ tăng 50%, 30%, 20%, để tính lại số bảo lưu.
Ngược lại,
nếu con ở địa phương mà về Hà Nội, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, thì không tính
mức phụ cấp có phụ tăng 50%, 30%, 20% vì từ ngày thi hành lương mới, khoản phụ
tăng này đã bãi bỏ. (Thi hành Thông tư số 11-TT/LB ngày 02-05-1958 của Liên bộ
Nội vụ - Lao động).
Ví dụ: Ông A
cán bộ bậc 13/17 công tác ở cơ quan chính quyền ở Hà Nội trước ngày 01-05-1958
có 4 con được phụ cấp mỗi con 18kg, nay được xếp bậc 7/21, thì:
Thu nhập
cũ:
- lương +
phụ cấp khu vực và tăng lương (18%)
- phụ cấp
con (18k x 4 x 400đ)
- phụ cấp
ăn, ở ngoài
|
39.884đ
28.800đ
4.500đ
|
Cộng:
|
73.184đ
|
Thu nhập
mới:
- lương và
phụ cấp khu vực 12%
- trợ cấp
con
|
50.000đ
10.000đ
|
Cộng:
|
66.000đ
|
Như vậy được
bảo lưu: 73.184đ – 66.000đ = 7.184đ
Nếu ông A có
1 con được Chính phủ nuôi cho ăn học và 1 con quá tuổi được phụ cấp thì:
Thu nhập
cũ:
- lương và
phụ cấp khu vực, tỷ lệ tăng lương (18%)
- phụ cấp 2
con (18k x 2 x 400đ)
- tiền ăn,
ở ngoài
|
39.884đ
14.400đ
4.500đ
|
Cộng:
|
58.784đ
|
Thu nhập
mới:
- lương cấp
bậc
- phụ cấp
khu vực 12%
|
56.000đ
6.000đ
|
Cộng:
|
56.000đ
|
Như vậy được
bảo lưu: 58.784đ – 56.000đ = 2.784đ
Nếu ông A
được điều động về địa phương (không có phụ cấp khu vực) và số con không thay
đổi thì:
Thu nhập
cũ:
- lương
- tăng
lương 5%
- phụ cấp
con: (12k x 4 x 400đ)
|
33.800đ
1.690đ
19.200đ
|
Cộng:
|
54.690đ
|
Thu nhập
mới:
- lương
- trợ cấp
con
|
50.000đ
10.000đ
|
Cộng:
|
60.000đ
|
Như vậy sẽ
lĩnh lương mới không còn bảo lưu nữa.
- Trường hợp
hai vợ chồng đều được phụ cấp con, công tác thuộc hai khu vực mà ngày thi hành
lương mới khác nhau, nếu có đẻ thêm con trong tháng 3 và 04-1958 và ở trường
hợp được bảo lưu thu nhập cũ, thì tính như sau:
a) Người lương cao thuộc khu vực sản xuất, ví dụ:
trước ngày 01-03-1958 hai vợ chồng có 3 con, được phụ cấp mỗi cháu 30kg, chồng
(khu vực sản xuất) lương 50.000đ, vợ (khu vực hành chính) lương 30.000đ (kể cả
các khoản tăng lương và phụ cấp khu vực), tháng 04-1958 sinh thêm một con nữa.
Bây giờ sắp xếp, lương chồng 70.000đ, lương vợ 40.000đ (kể cả phụ cấp khu vực).
PHẦN CHỒNG (Khu vực sản xuất)
PHẦN VỢ (khu vực hành chính)
Tính
theo chế độ cũ
|
Tính
theo chế độ mới
|
Tính
theo chế độ cũ
|
Tính
theo chế độ mới
|
|
|
|
Tháng 03 -1958
|
|
|
Lương
|
50.000đ
|
|
|
Lương
|
30.000đ
|
(chưa thi
hành
lương mới)
|
Phụ cấp 3
con:
|
|
Lương
|
70.000đ
|
Phụ cấp 3
con:
|
|
(12k x 3 x
400)
|
14.400đ
|
|
|
(18 x 3 x
400)
|
21.600đ
|
Cộng:
|
64.400đ
|
|
|
Cộng:
|
51.600đ
|
|
|
|
|
Tháng 04 –1958
|
|
|
Lương
|
50.000đ
|
|
|
Lương
|
30.000đ
|
(chưa thi
hành
lương mới)
|
Phụ cấp 3
con cũ:
|
|
|
|
Phụ cấp 3
con cũ:
|
|
(12k x 3 x
400)
|
14.400đ
|
Lương
|
70.000đ
|
(18 x 3 x
400)
|
21.600đ
|
|
Phụ cấp 1 con mới:
|
|
|
|
Phụ cấp 1 con mới:
|
|
|
(12k x
400đ)
|
4.800đ
|
|
|
(18 x 400)
|
7.200đ
|
|
Cộng:
|
69.200đ
|
|
|
Cộng:
|
58.800đ
|
|
|
|
|
Tháng 05 –1958
|
|
|
Lương
|
50.000đ
|
Lương
|
70.000đ
|
Lương cũ
|
30.000đ
|
Lương
mới 40.000đ
|
Phụ cấp 3
con cũ:
|
|
Trợ cấp 2 con
|
10.000đ
|
Phụ cấp con
chuyển
|
|
(30 x
3 x 400)
|
36.000đ
|
Cộng
|
80.000đ
|
sang người
chồng
|
|
|
Phụ cấp 1 con mới:
|
|
|
|
|
|
|
(18k x 400)
|
7.200(1)
|
|
|
|
|
|
Cộng:
|
93.200đ
|
|
|
|
|
|
b) Người lương cao thuộc khu vực hành chính:
Cũng lấy ví
dụ trên, nhưng người lương cao công tác ở cơ quan hành chính thì tính như sau:
PHẦN CHỒNG (Khu vực HC)
PHẦN VỢ (khu vực SX)
Tính
theo chế độ cũ
|
Tính
theo chế độ mới
|
Tính
theo chế độ cũ
|
Tính
theo chế độ mới
|
|
|
|
Tháng 03 -1958
|
|
|
Lương
|
50.000đ
|
|
|
Lương cũ
|
30.000đ
|
Lương
mới 40.000đ
|
Phụ cấp 3
con:
|
|
(chưa thi
hành lương mới)
|
Phụ cấp 3
con:
|
|
(18 x 3 x
400)
|
21.600đ
|
|
|
(12 x 3 x
400)
|
14.400đ
|
Cộng:
|
71.600đ
|
|
|
Cộng:
|
44.400đ
|
|
|
|
|
Tháng 04 -1958
|
|
|
Lương
|
50.000đ
|
|
|
Lương cũ
|
30.000đ
|
Lương
mới 40.000đ
|
Phụ cấp 3
con cũ:
|
|
|
|
Phụ cấp 3
con cũ:
|
|
(18 x 3 x
400)
|
21.600đ
|
|
|
(12 x 3 x
400)
|
14.400đ
|
|
Phụ cấp 1 con mới:
|
|
(chưa thi
hành lương mới)
|
Phụ cấp 1 con mới:
|
|
|
(18 x 400đ)
|
7.200đ
|
|
|
(12 x 400)
|
4.800đ
|
|
Cộng:
|
78.800đ
|
|
|
Cộng:
|
49.200đ
|
|
|
|
|
Tháng 05 -1958
|
|
|
Lương
|
50.000đ
|
Lương mới
|
70.000đ
|
Lương cũ
|
30.000đ
|
Lương
mới 40.000đ
|
Trợ cấp 3
con cũ:
|
|
Trợ cấp 2 con
|
10.000đ
|
Phụ cấp con
chuyển
|
|
(30 x
3 x 400)
|
36.000đ
|
Cộng:
|
80.000đ
|
sang người
chồng
|
|
|
Phụ cấp 1 con mới:
|
|
|
|
|
|
|
(18 x 400)(1)
|
7.200đ
|
|
|
|
|
|
Cộng:
|
93.200đ
|
|
|
|
|
|
Trên đây là
cách tính số thu nhập cũ trước ngày thi hành lương mới để tính bảo lưu (nếu ở
trường hợp bảo lưu).
Còn cách tính
số đã lĩnh và số được lĩnh của mỗi người để truy lĩnh thì
theo cách hướng dẫn ở phần truy lĩnh (mục II trên đây).
- Trường hợp
hai vợ chồng công tác, một người hưởng lương kháng chiến, một người hưởng
nguyên lương (trước kia chưa sắp xếp) sau khi thi hành lương mới, nếu người
hưởng lương kháng chiến được bảo lưu số lưu nhập cũ, thì về khoản phụ cấp
con chỉ tính theo tiêu chuẩn của một người công tác (cụ thể là 12k ở địa
phương hay 18k ở Hà Nội) vì người hưởng nguyên lương không hưởng phụ cấp con.
(Nếu trước
đây có cơ quan đã trả phụ cấp con theo tiêu chuẩn 20k hay 30k, thì trong khi
thanh toán truy lĩnh phải tính theo thực lĩnh 20k hay 30k).
Nếu lần này
người nguyên lương được sắp xếp vào các thang lương mới thì thanh toán tiền
truy lĩnh theo quy định chung nói ở trên.
Còn phần bảo lưu
về phụ cấp con cũng chỉ tính theo tiêu chuẩn của người hưởng lương kháng chiến,
(12k hay 18k).
Trường hợp
hai vợ chồng công tác, một người hưởng nguyên lương (lưu dụng) nay sắp xếp vào
các thang lương mới, khi tính số con được trợ cấp theo chế độ mới, cần chú ý
trừ những con đã tính trong số nguyên lương rồi.
- Con cán bộ,
công nhân viên trước thuộc trường hợp hưởng phụ cấp con được Chính phủ cho đi
học ở nước ngoài (như ở Nam Ninh, Trung quốc) nay về nước, nếu được hưởng trợ
cấp con theo chế độ mới, thì được tính mỗi cháu 12 hay 18k, 20k, 30k... cộng
vào thu nhập cũ để tính bảo lưu.
Ví dụ: ông A
có 3 con được phụ cấp mỗi con 30k, Chính phủ cho một con sang học ở Nam Ninh,
tháng 06-1958 đứa con ấy trở về nước, ông A lương cũ là 40.000đ, nay lương mới
là 70.000đ.
TÍNH
TRUY LĨNH VÀ BẢO LƯU CHO ÔNG A:
Được
lĩnh
theo chế độ cũ
|
Được
lĩnh
theo chế độ mới
|
Tháng 05-1958
|
Lương
|
40.000đ
|
Lương mới
|
70.000đ
|
Phụ cấp 2
con
|
|
|
|
(30k x 2 x
400)
|
24.000đ
|
|
|
Cộng
|
64.000đ
|
Cộng
|
70.000đ
|
Tháng 06-1958 và
07-1958
|
Lương
|
40.000đ
|
Lương mới
|
70.000đ
|
Phụ cấp 3
con
|
|
Trợ cấp 1
con
|
5.000đ
|
(30k x 3 x
400)
|
36.000đ
|
|
|
Cộng
|
76.000đ
|
Cộng
|
75.000đ
|
SO SÁNH
Được
lĩnh
theo chế độ cũ
|
Được
lĩnh
theo chế độ mới
|
Tháng
05-1958
- 06-1958
- 07-1958
|
64.000đ
76.000đ
76.000đ
|
Tháng
05-1958
- 06-1958
- 07-1958
|
70.000đ
75.000đ
75.000đ
|
Cộng
|
216.000đ
|
Cộng
|
220.000đ
|
Số tiền được
truy lĩnh trong 3 tháng 5, 6, 7-1958 là: 220.000đ – 216.000đ = 4.000đ
Bắt đầu từ
tháng 08-1958 được bảo lưu số thu nhập cũ (có tính khoản phụ cấp của đứa con
mới về nước) là 76.000 đồng.
- Hai vợ
chồng công tác đều được hưởng phụ cấp con cũ 20k, hoặc 30k, nhưng sau khi thi
hành lương mới có một người thôi việc thì sẽ theo tiêu chuẩn phụ cấp con của
một người (cụ thể là 12k hay 18k) tính lại số thu nhập cũ để tính bảo lưu.
- Trường hợp
một người chết thì phụ cấp con cũ sẽ không tính lại như trường hợp thôi việc
(giữ nguyên phụ cấp con cũ là 20k hay 30k).
*
* *
Đối với những
cán bộ, công nhân viên, trước khi thi hành lương mới, lĩnh một số tiền nhất
định như công chức, công nhân lưu dụng, bộ đội chuyển ngành còn hưởng sinh hoạt
phí theo chế độ bộ đội hay đã sắp xếp mà còn giữ khoản chênh lệch thì sau khi
được sắp xếp lần này, sẽ lấy số tiền đã thực lĩnh (coi là số thu nhập
cũ) đối chiếu với số thu nhập mới để thanh toán tiền truy lĩnh.
Số thu nhập
mới là lương theo cấp bậc mới sắp xếp, có phụ cấp khu vực và trợ cấp con (nếu
có).
IV. CẤP PHÁT KINH PHÍ
Bộ Tài chính
sẽ cấp kinh phí cho các cơ quan trung ương và các khu thuộc Tổng dự toán trung
ương (Khu 3, 4, Tả ngạn, Lao – Hà – Yên).
Các khu khác
và Ty Tài chính cấp kinh phí cho các cơ quan trong khu và tỉnh vào Tổng dự toán
khu, tỉnh.
Đối với những
cán bộ, công nhân viên từ ngày thi hành lương mới đến nay, điều động từ cơ quan
này sang cơ quan khác, từ ngành này sang ngành khác, thì thanh toán tiền truy
lĩnh như sau:
a) Giữa
đơn vị xí nghiệp (khu vực sản xuất)
Trường hợp
đơn vị chưa sắp xếp bậc để trả lương mới mà công nhân viên được điều động sang
công tác ở đơn vị khác thì đơn vị cũ thanh toán tiền truy lĩnh theo cấp bậc
lương mới kể từ 01-03-1958 đến nay người đó rời đơn vị cũ để đến nhận công tác
ở đơn vị mới; đơn vị mới trả lương mới kể từ ngày người đó đến nhận công tác.
b) Giữa
đơn vị hành chính, sự nghiệp và đơn vị thuộc khu vực sản xuất (thi hành
lương mới từ ngày 01-03-1958).
Những cán bộ,
công nhân viên thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp (thi hành lương mới từ
01-05-1958) nếu sau ngày 01-03-1958 được điều sang công tác ở các đơn vị thi
hành lương mới từ ngày 01-03-1958 thì chỉ được truy lĩnh kể từ ngày chính thức
nhận công tác ở đơn vị mới thôi. Ngược lại nếu điều động từ đơn vị thi hành
lương mới từ 01-03-1958 sang đơn vị thi hành lương mới từ 01-05-1958, nhưng ra
đi sau ngày 01-03-1958 thì đơn vị cũ phải thanh toán truy lĩnh từ 01-03-1958
đến ngày người đó đi nhận công tác ở đơn vị mới; đơn vị mới chỉ phải trả tiền
truy lĩnh lương mới từ 01-05-1958 thôi.
c) Giữa
các cơ quan hành chính, sự nghiệp.
Cơ quan hiện
đang sử dụng có nhiệm vụ thanh toán toàn bộ số tiền truy lĩnh cho anh chị em.
*
* *
Trong khi thi
hành Thông tư này nếu gặp khó khăn và trở ngại, đề nghị các cơ quan, các ngành
phản ảnh kịp thời cho bộ chúng tôi biết để góp ý kiến giải quyết.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
(1)
(7.200đ là phụ cấp con thứ 4 của vợ chuyển sang; còn đối với người chồng thì đứa
con thứ 4 đẻ sau ngày thi hành lương mới, nên không được hưởng phụ cấp con theo
tiêu chuẩn cũ).
(1)
(7.200đ là phụ cấp con thứ 4 mà người chồng được hưởng trước ngày thi hành
lương mới (01-05-1958), còn đối với người vợ, những đứa con đẻ sau ngày
01-03-1958 không được hưởng tiêu chuẩn phụ cấp con cũ).
Trong hai trường hợp (a và b), người lương cao được
giữ chênh lệch: 93.200đ – 80.000 = 13.200đ (tức là bảo lưu số thu nhập cũ
93.200)đ.