BỘ
CÔNG AN
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
680-TT/VI/2
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 07 năm 1959
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ LƯƠNG, PHỤ CẤP VÀ TRANG PHỤC CHO CÔNG NHÂN
LÁI MÁY CA-NÔ VÀ CẢNH SÁT TUẦN TRA KIỂM SOÁT TRÊN SÔNG, CẢNG
Hiện nay các đội tuần tra kiểm
soát bằng ca-nô đã được xây dựng để làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự trị an ở sông,
cảng.
Do tính chất và điều kiện công
tác ở sông, cảng có khác với trên bộ, nên cần quy định việc xếp lương, chế độ
phụ cấp và trang bị cho phù hợp để bảo đảm được nhiệm vụ công tác. Vì vậy, sau
khi nghiên cứu và được sự thỏa thuận của các Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính, Bộ ra
thông tư quy định cụ thể các chế độ như sau:
I. VỀ VIỆC XẾP
LƯƠNG CHO CÔNG NHÂN LÁY MÁY CA-NÔ
Năm 1958, khi thi hành chính
sách lương mới, vì các đội tuần tra kiểm soát bằng ca-nô chưa thành lập, nên Bộ
tạm quy định việc xếp lương cho công nhân lái máy ca-nô vào thang lương công
nhân cơ khí 8 bậc. Nhưng từ khi các đội tuần tra trên sông, cảng được xây dựng,
anh em đã chính thức làm nhiệm vụ lái máy ca-nô trên sông, cảng, nên việc xếp
thang lương công nhân cơ khí không thích hợp nữa. Nay Bộ quyết định:
1. Sắp xếp lại lương cho công
nhân lái máy ca-nô theo tiêu chuẩn bậc lương loại IV cấp 3 là thang lương áp dụng
cho các công nhân công tác trên ca-nô của Bộ Giao thông và Bưu điện xây dựng.
2. Về nguyên tắc xếp lương: căn
cứ vào tính chất, nhiệm vụ và khả năng hiện tại của anh em và sau khi tham khảo
ý kiến của Bộ Giao thông và Bưu điện, Bộ quy định khung bậc sắp xếp cho công
nhân lái máy ca-nô từ bậc 3 đến bậc 2 của chức danh 1 và 2 trong bản tiêu chuẩn
bậc lương loại IV cấp 3 (có bản tiêu chuẩn bậc lương kèm theo).
Do yêu cầu chuyên môn và trách
nhiệm của mỡi chức danh có khác nhau, nên mức tiền mỗi bậc của công nhân lái đều
cao hơn công nhân máy, cho nên trong khi sắp xếp phải chú ý bảo đảm tương quan
đó.
Khung bậc và tương quan tuy quy
định như trên, nhưng khi tiến hành sắp xếp cần phải nghiên cứu kỹ về tiêu
chuẩn bậc lương và tiêu chuẩn đức, tài của từng người để sắp xếp cho thích hợp.
3. Về phụ cấp khu vực: sau khi sắp
xếp theo thang lương loại IV cấp 3, nếu anh em nào công tác ở địa phương có phụ
cấp khu vực thì cũng được hưởng phụ cấp khu vực nơi đó từ ngày 01-01-1959.
Ví dụ: một công nhân lái ca-nô ở
Hải Phòng được xếp bậc 2 là 59đ cộng với 10% phụ cấp khu vực ở Hải Phòng thì mỗi
tháng sẽ được lĩnh:
(59đ
x 10)
|
+ 59đ = 64 đồng 90
|
100
|
4. Ngoài ra tại Sở Công an Hải
Phòng có một số công nhân lái máy ca-nô, trước đây địa phương xếp vào thang
lương công nhân cơ quan 8 bậc, nay Bộ quyết định cũng xếp theo tiêu chuẩn bậc
lương loại IV cấp 3 nói trên kể từ ngày 01-01-1959.
II. CHẾ ĐỘ PHỤ
CẤP BỒI DƯỠNG KHI ĐI CÔNG TÁC Ở SÔNG, CẢNG VÀ NGOÀI BỂ
Các anh em cảnh sát và công nhân
lái máy ca-nô trong khi công tác trên sông, cảng và ngoài bể vì điều kiện thiên
nhiên như sóng, gió, nóng, lạnh khác trên bộ, có ảnh hưởng đến sức khỏe, nay Bộ
quy định chế độ phụ cấp bồi dưỡng sức khỏe như sau:
1. Nói chung công nhân lái máy
và cảnh sát khi đi công tác trên sông, cảng và ngoài bể đều được phụ cấp bồi dưỡng
sức khỏe.
2. Cách tính cụ thể như sau:
a) Chỉ phụ cấp cho những ngày
ca-nô thực sự chạy ở sông, cảng và ngoài bể để làm nhiệm vụ.
b) Thời gian và mức tiền phụ cấp
tính như sau:
- Từ 4 giờ trở lên tính là một
ngày, và nếu đi công tác ở sông, cảng một ngày được phụ cấp 3 hào; nếu đi công
tác ở ngoài bể một ngày được phụ cấp 6 hào.
- Từ 2 đến 4 giờ tính là nửa
ngày, nếu đi công tác ở sông, cảng được phụ cấp 1 hào rưỡi; nếu đi công tác ở bể
được phụ cấp 3 hào.
Thời gian tính từ khi ca-nô nổ
máy chạy, cho đến khi về đồn, bến hay đậu lại một chỗ nào phải liên tục từ 2 giờ
trở lên mới được phụ cấp; trường hợp sáng đi một giờ rưỡi, chiều đi 1 giờ rưỡi
thì những giờ đó không được cộng lại để tính phụ cấp.
c) Trường hợp đi công tác ban
đêm thì tính như sau:
Nếu ban ngày không đi tuần tra
hay có đi nhưng số giờ chưa đủ mức phụ cấp thì khi đi công tác ban đêm sẽ được
tính như đã quy định ở điểm b.
- Nếu ban ngày đã đi công tác và
được hưởng phụ cấp rồi, thì khi đi công tác ban đêm, dù là đi công tác trên
sông, cảng hay ở bể cũng phải quá 12 giờ đêm mới được hưởng phụ cấp và mức phụ
cấp quy định thống nhất là 3 hào một người kể cả công nhân lái máy hay cảnh
sát.
3. Riêng đội tuần tra ở cảng Hải
Phòng làm nhiệm vụ kiểm soát khi có tàu của nước ngoài đậu ở cảng, vì tính chất
điều kiện công tác có khác với đội tuần tra trên sông, nên mức độ phụ cấp quy định:
- Trong một ngày một đêm nếu phải
làm việc từ 6 giờ trở lên được phụ cấp 3 hào một người; nếu chỉ làm nhiệm vụ từ
4 giờ đến 6 giờ được phụ cấp 1 hào rưỡi; còn dưới 4 giờ thì không được phụ cấp.
4. Đối với số cán bộ công an thuộc
Hải Phòng và Hồng Quảng làm nhiệm vụ kiểm soát và đưa dắt tầu từ Zéro vào cảng,
hay từ cảng ra bể có khi đi 3, 4 giờ rồi trở về, có trường hợp phải ở lại dưới
tàu một, hai ngày, phải ăn ở trên tàu thì nay quy định chế độ phụ cấp như sau:
- Nếu không ăn ở trên tàu, hoặc
có phải ăn nhưng không phải trả tiền (theo chế độ tiếp tân của tàu) thì được hưởng
theo như chế độ đi công tác ở bể đã quy định trong điểm b điều 2.
- Nếu phải ăn ở trên tàu và ăn
theo tiêu chuẩn bình thường với công nhân của tàu đó, thì số tiền ăn trội hơn mức
ăn bình thường ở nhà sẽ do cơ quan đài thọ. Ví dụ: mức ăn ở trên tàu 3đ một
ngày, thì cán bộ đó phải góp 6 hào theo tiêu chuẩn hàng ngày, còn khoản 2đ40
chênh lệch thì cơ quan thanh toán. Trường hợp này sẽ không được hưởng khoản phụ
cấp 6 hào một ngày quy định ở điểm b điều 2, vì đã nằm trong số tiền ăn chênh lệch
mà cơ quan đài thọ.
5. Để bảo đảm đúng với tính chất
phụ cấp bồi dưỡng sức khỏe, khoản phụ cấp nói trên phải được sử dụng ngay vào
những bữa ăn trong những ngày đi công tác.
6. Để cho việc tính phụ cấp được
chính xác, các địa phương có đội tuần tra kiểm soát trên sông, cảng phải nắm vững
chiều dài của các sông cần phải đi tuần tra. Phải có sổ theo dõi các lần ca-nô
đi, cụ thể từ giờ nào, về giờ nào, đến đâu, tốc độ của ca-nô khi đi tuần tra và
trước khi đưa chứng từ thanh toán phải được Trưởng hoặc Phó Phòng Ban trị an
dân cảnh hoặc Trưởng Phó đồn nơi đó chứng thực.
7. Chế độ phụ cấp bồi dưỡng sức
khỏe này không áp dụng đối với đội tuần tra ở Hồ tây Hà Nội, vì tính chất điều
kiện công tác ở Hồ tây không giống như các đội tuần tra kiểm soát trên sông, cảng.
III. CHẾ ĐỘ
TRANG PHỤC
1. Về chế độ trang bị những thứ
về nghiệp vụ, nói chung cả cảnh sát tuần tra trên sông, cảng và công nhân lái
máy ca-nô đều được Chính phủ cấp phát như các loại cành sát khác, gồm có:
- 1 cảnh hiệu dùng không thời hạn.
- 2 đôi phù hiệu dùng trong một
năm.
- 1 mũ lưỡi trai và 3 vải bọc
dùng trong 3 năm.
- 1 áo mưa dùng trong 4 năm.
- 1 thắt lưng da dùng trong 5
năm.
Ngoài ra, vì điều kiện công tác
trên sông, cảng về mùa đông rất rét lạnh, nên còn được trang bị những thứ nghiệp
vụ riêng sau đây:
- 1 áo trấn thủ.
- 1 mũ bông.
- 1 đôi găng tay loại dệt bằng
bông của Trung quốc.
Riêng công nhân lái máy, vì tay
chân và quần áo thường bị dây dầu mỡ nên được trang bị thêm một yếm công nhân bằng
vải xanh, còn găng tay thì không phát 1 đôi găng tay thì không phát 1 đôi găng
tay loại dệt bằng bông của Trung quốc mà phát 2 đôi găng tay bằng vải dầy.
2.Về trang phục các cảnh sát tuần
tra ở sông, cảng cũng áp dụng hoàn toàn theo thông tư của Bộ số 1777-V10/P6
ngày 21-01-1959 đã quy định chế độ trang phục cho cảnh sát năm 1959, cụ thể:
Những thứ trang phục do Chính phủ
cấp phát:
- 1 bộ quần áo (1 dùng
năm)……….18 đồng
- 1 áo bông (dùng 4 năm)
|
16đ
92
|
= 4đ,23
|
4
|
- 1 mủ cứng (dùng 2 năm)
|
4đ
|
= 2đ
|
2
|
- 1 đôi giày da (dùng 2 năm)
|
18đ
|
= 9đ
|
2
|
Cộng : 33đ,23
Như vậy, một năm mỗi cảnh sát tuần
tra trên sông, cảng được cấp là 33đ23.
Ngoài ra mỗi cảnh sát phải góp mỗi
tháng 3đ để may 2 bộ quần áo và sắm 1 đôi giầy vải cho thống nhất mẫu mực, phù
hợp với thời tiết.
3. Về trang phục của công nhân
lái máy, đều thống nhất kiểu mẫu như cảnh sát, nhưng vì chế độ tiền lương khác
với cảnh sát, nên chế độ cấp trang phục không áp dụng hoàn toàn giống như chế độ
đối với cảnh sát mà quy định cụ thể như sau:
Những thứ trang phục do Chính phủ
cấp phát:
- 1 mủ cứng dùng 2 năm
|
4đ
|
= 2đ
|
2
|
- 1 đôi giày da dùng 2 năm
|
18đ
|
= 9đ
|
2
|
Cộng :11đ
Như vậy một năm, mỗi người công
nhân lái máy ca-nô được cấp 11 đồng.
Ngoài ra mỗi người công nhân lái
máy phải góp mỗi tháng 4đ để may trang phục cho phù hợp với thời tiết, theo mẫu
mực thống nhất đã quy định như của cảnh sát, gồm có:
- 2 bộ quần áo, 1 áo bông dùng 4
năm
- 1 đôi giày vải.
Cách giữ và thanh toán tiền cũng
theo như quy định chung đối với cảnh sát.
4. Những thứ trang bị về nghiệp
vụ nói ở điều 1 phần III và những thứ trang phục do Chính phủ đài thọ nói ở điều
2, 3, phần III trong khi chưa hết niên hạn đều thuộc về tài sản của Nhà nước,
người dùng phải có trách nhiệm bảo quản cẩn thận, nếu mất hoặc hư hỏng không có
lý do chính đáng thì phải bồi thường.
Những thứ trang bị về nghiệp vụ,
khi hết thời hạn, nếu còn tốt vẫn tiếp tục dùng cho đến khi hỏng sẽ đổi lấy cái
mới. Những thứ trang phục do Chính phủ đài thọ khi hết thời hạn quy định được
coi như sở hữu cá nhân. Nếu chưa hết thời hạn mà thôi việc hay chuyển sang công
tác khác không có chế độ trang phục giống như chế độ quy định trong thông tư
này thì phải hoàn lại cho Nhà nước, nếu muốn mang theo thì phải trả tiền, giá
tiền sẽ căn cứ giá thành lúc cấp phát trừ tỷ lệ thời gian đã sử dụng và căn cứ
vào giá trị hiện tại của hiện vật để xét định. Những thứ do cá nhân góp tiền để
may sắm thì thuộc quyền sở hữu cá nhân.
5. Đối với một số địa phương,
trong khi chưa có chế độ quy định mà đã cấp phát trang phục năm 1958 và cả chăn
màn, áo bông cho công nhân lái máy ca-nô thì sẽ giải quyết bằng cách tính giá
trị những thứ đó, để anh em trả tiền dần bằng cách trừ hàng tháng. Trường hợp
anh em nào đã có chăn màn cũ đủ dùng, không muốn trả tiền dần thì trả lại cũng
được.
IV. THỜI GIAN THI HÀNH
- Về lương sau khi sắp xếp xong
thì được hưởng từ ngày 01 tháng 01 năm 1959 cùng với phụ cấp khu vục nếu có.
- Về chế độ phụ cấp bồi dưỡng
trong khi đi công tác, được thi hành kể từ ngày ban hành thông tư này.
- Về chế độ trang phục quy định
trong thông tư này được áp dụng từ 01 tháng 01 năm 1959.
Đối với các đội thủy đội của lực
lượng Công an nhân dân vũ trang thì không áp dụng theo thông từ này, mà sẽ
nghiên cứu chế độ quy định riêng.
Tất cả những văn bản về chế độ đối
với cảnh sát và công nhân lái ca-nô thuộc đội tuần tra kiểm soát trên sông, cảng
đã ban hành trước đây trái với thôn tư này đều bãi bỏ.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
Trần Quốc Hoàn
|