TỔNG
CỤC LÂM NGHIỆP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
55-LN-TC
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 09 năm 1963
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH TẠM THỜI VIỆC TỔ CHỨC VÀ CHẾ ĐỘ BỒI DƯỠNG, KHEN
THƯỞNG NHỮNG NGƯỜI MÒ VỚT GỖ CHÌM
Kính gửi:
|
- Ủy ban hành chính
các khu, thành, tỉnh
-
Các ty, phòng lâm nghiệp
-
Các lâm trường, công ty lâm sản liên tỉnh
|
Theo tài liệu điều tra, hiện nay các luồng sông
trên khắp miền Bắc nước ta có nhiều gỗ do lụt bão làm vỡ bè chìm xuống đáy sông
từ lâu. Gỗ chìm là loại gỗ qúy có giá trị sử dụng cao. Mấy năm qua các công ty
lâm sản liên tỉnh đã tổ chức mò vớt được một khối lượng gỗ lớn, nhưng về mặt chế
độ chưa được quy định.
Để tăng thêm vật tư cho Nhà nước,
phục vụ nhu cầu xây dựng cơ bản, nhu cầu công nghiệp và xuất khẩu, thi hành Chỉ
thị số 1407-CN ngày 17/5/1963 của Phủ Thủ tướng giao cho Tổng cục lâm nghiệp tổ
chức, quản lý và ban hành chế độ mò gỗ chìm, sau khi trao đổi thống nhất với Bộ
Lao động, Bộ Tài chính, Tổng cục lâm nghiệp tạm thời quy định chế độ mò vớt gỗ
chìm nhằm khuyến khích đông đảo cán bộ, công nhân và nhân dân tham gia công tác
này.
I. NGUYÊN TẮC
1. Gỗ chìm là gỗ bị rơi
chìm xuống đáy sông vì thiên tai (bão, lụt…) hoặc tai nạn bất ngờ làm vỡ bè mảng.
Gỗ chìm thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thu hồi và quản lý (trừ trường hợp
xác định được rõ những cây gỗ đó là của một tổ chức không phải Nhà nước hoặc của
một tư nhân).
Căn cứ chỉ thị trên của Phủ Thủ
tướng các cơ quan lâm nghiệp có trách nhiệm quản lý thống nhất việc điều tra
thăm dò, tổ chức mò vớt gỗ chìm, thu hồi số gỗ đó vào kho của Nhà nước. Cá nhân
hoặc các tổ chức tập thể (hợp tác xã, tổ chức quần chúng) không được tự do vớt
và không được tự tiện dùng số gỗ vớt được vào việc riêng mà phải giao số gỗ đó
cho cơ quan lâm nghiệp thu hồi và quản lý. Cơ quan lâm nghiệp căn cứ vào công sức
mò vớt, giá trị của khối lượng gỗ mò vớt được và chế độ đã ban hành để trả thù
lao, khen thưởng cho cá nhân hay tập thể.
2. Để việc mò gỗ chìm có
kết quả, các công ty lâm sản liên tỉnh, các lâm trường… cần tiến hành điều tra
nắm chắc số lượng gỗ chìm của từng vùng sông trong phạm vị đơn vị mình phụ
trách; trên cơ sở đó, bố trí tổ chức lực lượng lao động và chuẩn bị mọi phương
tiện để tiến hành mò vớt gỗ chìm được kết quả tốt.
3. Trong khi tiến hành mò
gỗ chìm các công ty lâm sản liên tỉnh, các lâm trường… cần phải chuẩn bị đầy đủ
công tác bảo hộ lao động về phương tiện phòng hộ cũng như về giáo dục, đôn đốc
kiểm tra thực hiện, nhằm đảm bảo an toàn lao động cho công nhân và nhân dân
tham gia mò vớt gỗ chìm. Phải tổ chức mò vớt tập thể ít nhất là từ hai người trở
lên, tránh làm riêng lẻ cá nhân vì dễ xảy ra tai nạn lao động.
4. Chế độ bồi dưỡng và
khen thưởng cho những người tham gia vớt gỗ chìm phải quán triệt nguyên tắc “hưởng
thụ theo lao động” nhằm khuyến khích mọi người tích cực tham gia. Đồng thời phải
có quan hệ tốt về thu nhập giữa công nhân quốc doanh và nhân dân, có khuyến
khích tổ chức tập thể cơ quan và hợp tác xã. Do đó người bỏ nhiều sức lao động
ra phục vụ và lao động nặng nhọc phức tạp hơn được hưởng thụ cao hơn người bỏ
ít lao động và lao động nhẹ nhàng đơn giản; người phát hiện được gỗ chìm hưởng
thụ ít hơn người mò vớt, tập thể, hợp tác xã được ưu tiên hơn cá nhân; cơ quan
có nhiều thành tích được thưởng nhiều hơn cơ quan có ít thành tích.
II. CHẾ ĐỘ
A. ĐỐI VỚI
CÔNG NHÂN QUỐC DOANH.
Công tác mò vớt gỗ chìm chủ yếu
là vận động nhân dân ven sông làm để tránh khỏi ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất
của cơ quan, xí nghiệp quốc doanh. Đối với công nhân quốc doanh, chỉ huy động
mò vớt gỗ chìm vào những lúc hết việc hoặc có việc nhưng vì thiên tai mà không
đóng cốn vận chuyển được. Đặc biệt những nơi tập trung nhiều gỗ chìm nhân dân
không đủ lực lượng và phương tiện mò vớt thì nên tổ chức một đội công nhân quốc
doanh chuyên trách mò vớt, đến lúc hết số gỗ chìm ở địa điểm đó sẽ giải tán.
Công nhân quốc doanh mò vớt gỗ
chìm được hưởng các chế độ sau đây:
a) Trong giờ chính quyền: công nhân mò gỗ
chìm được trả lương, khen thưởng và bồi dưỡng như sau:
1. Lương: người lặn mò được trả
lương thống nhất bậc 4/5, người phục vụ trên bè được trả lương bậc 3/5 thuộc
thang lương chặt hạ, lao kéo, xuôi bè.
2. Bồi dưỡng về hao mòn sức khỏe:
công nhân lặn mò mỗi ngày làm việc từ 6 giờ 30 phút trong đó có 4 giờ lặn và 2
giờ 30 phút nghỉ lấy sức sau từng đợt lặn.
- Những vùng sông sâu từ 1
đến 13 mét, người lặn mò (lặn vo hoặc có mặt nạ, không mang áo lặn) mỗi giờ bồi
dưỡng 0đ,20 (hai hào);
- Những vùng sông sâu trên
13m, phải có áo lặn mò mỗi giờ cũng được bồi dưỡng 0,20đ (hai hào).
- Giờ để tính phụ cấp là tổng số
thời gian lặn và thời gian nghỉ lấy sức.
- Những người đứng trên bờ, trên
bè để kéo gỗ, giữ đầu dây,… không lặn mò, không được bồi dưỡng.
3. Khen thưởng để khuyến khích
những người mò được nhiều gỗ chìm.
Mỗi ngày bình quân một người mò
vớt được: dưới 5 tấc khối không được thưởng; trên 5 tấc khối được được thưởng 2
đồng và trên một mét khối được thưởng mỗi mét khối 5 đồng. Số tiền thưởng nhiều
nhất cho một người trong một ngày không quá 10 đồng.
- Nếu số mò vớt lên là gỗ đã bị
hư hỏng không dùng được thì không được tính để thưởng.
Những người có sáng kiến làm
tăng năng suất mò vớt, ngoài tiền thưởng trên, còn được xét thưởng về sáng kiến
theo Thông tư số 004-LĐTT ngày 08/3/1958 của Bộ Lao động.
b) Ngoài giờ chính quyền: do cơ quan yêu
cầu, công nhân tự nguyện được Công đoàn đồng ý, những người mò vớt gỗ chìm cũng
được trả thêm lương, được bồi dưỡng và khen thưởng như trên.
Cơ quan có chủ trương để công
nhân mò vớt gỗ chìm ngoài giờ chính quyền phải tuyệt đối bảo đảm an toàn lao động,
bảo vệ sức khoẻ để khỏi ảnh hưởng đến sản xuất.
B. ĐỐI VỚI NHÂN DÂN
Nhân dân (kể cả công nhân làm
khoán và xã viên hợp tác xã) hoặc các tổ chức mò vớt phải giao lại số gỗ mò vớt
được cho cơ quan lâm nghiệp quản lý thống nhất. Cơ quan lâm nghiệp căn cứ theo
số lượng và phẩm chất, trị giá (theo giá thu mua ở địa phương) để thưởng cho
người mò vớt được từ 10 đến 30% số tiền đó.
Tỷ lệ thưởng từ 10 đến 30% do Thủ
trưởng cơ quan lâm nghiệp quyết định tùy theo địa điểm, thời tiết, vùng sông
sâu hoặc cạn, nước chảy xiết hoặc bình thường, thế nào cho phù hợp với sức lao
động của nhân dân bỏ ra. Việc quyết định tỷ lệ khen thưởng phải cân nhắc thận
trọng để bảo đảm tương quan tốt với thu nhập của công nhân quốc doanh cùng
làm công tác mò gỗ chìm.
Các công ty lâm sản liên tỉnh,
lâm trường… cần nghiên cứu trước tỷ lệ thưởng trên từng vùng sông, công bố cho
nhân dân biết để khuyến khích động viên nhiều người tham gia mò vớt gỗ chìm.
Các công ty lâm sản liên tỉnh,
lâm trường… có trách nhiệm cho nhân dân và hợp tác xã mượn những phương tiện, dụng
cụ để mò vớt gỗ chìm có kết quả và đề phòng tai nạn lao động có thể xảy ra. Trường
hợp không may những người mò gỗ chìm bị tai nạn lao động thì được trợ cấp theo
mục III điểm 4 và 5 trong Thông tư số 62-LN-TC ngày 24/9/1962 của Tổng cục lâm
nghiệp về chế độ khen thưởng, bồi dưỡng, trợ cấp tai nạn lao động đối với những
người tham gia phòng chống lụt bão, bảo vệ bè mảng lâm sản.
Đối với hợp tác xã và đoàn thể
nhân dân tổ chức mò vớt được gỗ chìm, cơ quan lâm nghiệp cần ưu tiên bán cho họ
một phần số gỗ mò vớt được nếu họ yêu cầu mua để sử dụng cho tập thể (trừ những
thứ gỗ Nhà nước cấm bán ra quy định trọng Nghị định số 10-CP ngày 26/4/1960).
C. ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI PHÁT HIỆN NƠI
CÓ NHIỀU GỖ CHÌM
Sau khi mò vớt có kết quả, những
người phát hiện đúng nơi có gỗ chìm, được khen thưởng như sau: trong địa điểm
được phát hiện,nếu mò được từ 5 mét khối trở lên, người phát hiện được
thưởng một tặng phẩm giá trị 5 đồng; từ 10 mét khối trở lên được thưởng một
tặng phẩm trị giá 10 đồng.
Đối với những người chỉ dẫn nhiều
địa điểm khác nhau hoặc một địa điểm quá rộng mà không xác định được rõ nơi nào
thật sự có gỗ chìm làm mất nhiều công sức ít kết quả thì không được thưởng.
Đối với cán bộ, công nhân được
cơ quan giao nhiệm vụ đi điều tra những vùng sông có gỗ chìm hoặc những người
vì thiếu trách nhiệm để gỗ của Nhà nước chìm xuống đáy sông sau đó phát hiện
ra, nói chung không được khen thưởng. Nhưng đối với những người có công, có
thành tích, nếu xét thấy xứng đáng cũng có thể khen thưởng theo chế độ này.
D. KHEN THƯỞNG CHUNG
1. Đối với các công ty
lâm sản liên tỉnh, lâm trưởng… tổ chức mò vớt gỗ chìm có kết quả Tổng cục căn cứ
theo thành tích để cấp giấy khen, bằng khen và trích từ 40 đến 50% số tiền trị
giá số gỗ mò vớt được để chi phí về phụ cấp làm thêm giờ, bồi dưỡng, khen thưởng,
khấu hao, những phương tiện mò vớt gỗ chìm và dụng cụ bảo hộ lao động… còn lại
bao nhiêu được sử dụng vào sự nghiệp phúc lợi tập thể của đơn vị đó.
Hàng năm Tổng cục giao cho cục Vận
chuyển phân phối xét trích số tiền đó đối với các công ty lâm sản liên tỉnh và
Vụ Tài vụ xét trích cho các đơn vị khác thuộc Tổng cục. Tỷ lệ trích từ 40 đến
50% căn cứ theo điều kiện sản xuất và hoàn cảnh khó khăn phức tạp của từng đơn
vị để quyết định.
Đơn vị nào chi phí về mò gỗ chìm
vượt quá tỷ lệ trên sẽ được tính theo số tiền thực chi, không được trích phúc lợi.
Các công ty lâm sản liên tỉnh,
lâm trường… căn cứ theo nguyên tắc trên và thành tích của các trạm, đội, kho để
đề nghị Tổng cục cấp giấy khen, bằng khen và trích lại số tiền được sử dụng vào
sự nghiệp phúc lợi tập thể đối với các trạm vận chuyển, đội sản xuất, kho lâm sản…
2. Đối với các hợp tác
xã, các đội vận chuyển làm khoán, các đoàn thể nhân dân, nếu tổ chức mò vớt được
nhiều gỗ chìm thì các công ty, lâm trường xét thành tích đề nghị Ủy ban hành
chính địa phương hoặc Tổng cục cấp giấy khen, bằng khen. Ngoài ra, qua tổng kết
hàng năm, các công ty, lâm trường quyết định thưởng một phần tặng phẩm từ 10 đến
30 đồng.
3. Đối với cá nhân mò vớt
được nhiều gỗ chìm, qua tổng kết hàng năm 6 tháng hoặc đột xuất, các công ty,
lâm trường hoặc đột xuất, các công ty, lâm trường đề nghị Ủy ban hành chính địa
phương hoặc Tổng cục xét thành tích cấp giấy khen, bằng khen.
III. PHẠM VI THI HÀNH
1. Thông tư này chỉ áp dụng
đối với công nhân mò gỗ chìm. Đối với công nhân vớt gỗ xoan lưu hoặc gỗ bị lụt
bão làm vỡ bè trôi, áp dụng Thông tư số 62-LN ngày 24/9/1962 và thông tư vớt gỗ
xoan lưu của Tổng cục.
2. Nếu công nhân vì thiếu
tinh thần trách nhiệm trong lúc vận chuyển, bảo quản để gỗ chìm, có nhiệm vụ vớt
lên trả về kho. Những người mò số gỗ này chỉ được bồi dưỡng, không được khen
thưởng; công nhân làm khoán không được bồi dưỡng. Đối với cơ quan, không được
tính số gỗ này để trích qũy phúc lợi.
3. Công ty, lâm trường
thu hồi số gỗ mò vớt được nhập kho; về mặt tài vụ coi số gỗ đó như gỗ thu mua
nhưng không tính kế hoạch khai thác, thu mua của đơn vị.
Khi nhập kho căn cứ theo số lượng,
phẩm chất còn lại và giá cả mua vào tại địa phương các công ty, lâm trường chỉ
một số tiền bằng giá thu mua số gỗ đó để thanh toán các khoản chi phí về mò vớt,
còn lại bao nhiêu nạp về Tổng cục quản lý thống nhất (các công ty nạp về cục Vận
chuyển phân phối, các đơn vị khác nạp về Vụ Tài vụ).
Hàng năm Tổng cục căn cứ theo
thành tích của từng đơn vị để trích thưởng theo tỷ lệ quy định trên.
Trường hợp đặc biệt, những đơn vị
tổ chức mò vớt gỗ chìm không có kết quả, hoặc kết quả ít không bù đủ số tiền bồi
dưỡng và phụ cấp làm thêm giờ cho công nhân thì số tiền thiếu được ghi vào tài
khoản lỗ ngoài kế hoạch của công ty, lâm trường cuối năm Tổng cục sẽ điều hòa.
Sau lúc điều hòa chi phí và trích thưởng cho các đơn vị. Tổng cục sẽ nạp cho
Nhà nước số tiền còn lại.
Vụ Tài vụ căn cứ thông tư này để
quy định hướng dẫn chế độ hạch toán mò gỗ chìm.
Thông tư này thi hành kể từ ngày
ban hành. Những chỉ thị trước đây về việc mò gỗ chìm trái với thông tư này đều
bãi bỏ.
|
KT. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
TỔNG CỤC PHÓ
Nguyễn Văn Phương
|