BỘ
GIÁO DỤC
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
31-TT
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 05 năm 1956
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN VẤN ĐỀ XẾP BẬC CHO CÁN BỘ CHUYÊN MÔN GIÁO
DỤC
Thủ tướng Phủ đã ra Nghị định số
747-TTg ngày 23/4/1956 ban bố thang lương 11 bậc cho ngành giáo dục.
Bộ ra Thông tư này để hướng dẫn
những điểm cụ thể dưới đây:
1. Ngành giáo dục
không phải là một ngành kỹ thuật, thang lương 11 bậc của giáo dục không phải là
thang lương kỹ thuật, mà là thang lương chuyên môn của ngành giáo dục.
Thang lương này xuất phát từ
chính sách chiếu cố của Đảng và Chính phủ đối với giáo viên của ngành phổ
thông, bình dân học vụ và đại học đang làm nghề dạy học vì công tác giảng dạy khó
nhọc ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe.
Vì vậy đối tượng chính để xếp
vào thang lương 11 bậc là những người đi dạy.
Nhưng vì nhu cầu công tác của
ngành và cũng để phục vụ cho việc giảng dạy, một số giáo viên được điều động
lên Ty, Khu, Nha để làm các công tác như biên soạn tài liệu, nghiên cứu khoa học
đúc kết kinh nghiệm giảng dạy, kiểm tra trường lớp. Phải là những giáo viên và
là giáo viên có kinh nghiệm mới làm được và làm được tốt các công tác ấy.
Do đó, cũng xếp vào thang lương
11 bậc những loại cán bộ sau đây:
a. Những giáo viên phổ thông hay
đại học (có dạy sau Cách mạng tháng 8) và giáo viên bổ túc văn hóa hiện đang
làm công tác biên soạn sách giáo khoa, tài liệu giáo khoa, nghiên cứu và hướng
dẫn chương trình học, phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng huấn luyện giáo viên, kiểm
tra trường, lớp, làm công tác giáo vụ.
b. Hiệu trưởng, hiệu phó các trường.
c. Những cán bộ bình dân học vụ
từ huyện đến Nha, đang làm đúng công tác chuyên môn của mình: biên soạn tài liệu
giáo khoa, nghiên cứu và hướng dẫn chương trình học, phương pháp giảng dạy, kiểm
tra, huấn luyện, lãnh đạo, vận động phong trào, đúc kết và phổ biến kinh nghiệm.
Ngoài ra xếp vào thang lương 17
bậc:
- Những giáo viên, cán bộ bình
dân học vụ làm công tác hành chính, văn thư, tổ chức cán bộ thống kê, kế hoạch
chung.
- Những cán bộ lãnh đạo các cấp
trong ngành Trưởng, Phó, Ty, Chánh, Phó Giám đốc Khu, Nha.
- Những cán bộ chính trị mới đưa
qua làm công tác chuyên môn giáo dục chưa có thể đối chiếu với trình độ giáo
viên để xếp vào khung mốc của giáo viên, thì tạm xếp vào thang lương 17 bậc. Nếu
những cán bộ này làm Hiệu trưởng, Hiệu phó các trường, có quản lý ký túc xá và
các trường chuyên nghiệp thuộc Bộ, thì tạm xếp vào thang lương 17 bậc theo
khung mốc như sau:
- Hiệu trưởng trường vỡ lòng và
phổ thông cấp 1 có ký túc xá: từ bậc 14 đến 11.
- Hiệu trưởng trường Sư phạm sơ
cấp và Phổ thông cấp 2 có ký túc xá: từ bậc 13 đến bậc 10.
- Hiệu trưởng trường Sư phạm và
chuyên nghiệp trung cấp có ký túc xá: từ bậc 12 đến 9.
- Hiệu trưởng trường Sư phạm và
chuyên nghiệp cao cấp có ký túc xá: từ bậc 12 đến 7.
2. Tiêu chuẩn xếp
giáo viên và cán bộ bình dân học vụ hiện đang làm công tác nghiên cứu:
Việc điều động giáo viên lên cơ
quan làm công tác biên soạn, nghiên cứu thường nhìn vào những giáo viên có kinh
nghiệm ở mỗi cấp này để biên soạn hay nghiên cứu tài liệu phục vụ cho cấp ấy;
cho nên cán bộ nghiên cứu trước kia là giáo viên cấp nào thì được xếp vào khung
của cấp ấy; vì việc xếp vào thang lương 11 bậc chính là để chiếu cố giáo viên
đang đi dạy, không phải để chiếu cố cán bộ nghiên cứu.
Nhưng trong quá trình nghiên cứu,
người cán bộ có nhiều tiến bộ, có thể biên soạn hay nghiên cứu tài liệu cho cấp
liền trên; trường hợp ấy phải được chiếu cố thích đáng; nhưng chỉ khi nào người
cán bộ được chính thức công nhận ở cấp liền trên mới được xếp vào khung của cấp
ấy.
- Các loại cán bộ bình dân học vụ
hiện đang làm công tác chuyên môn ở các cấp được xếp vào thang lương 11 bậc như
sau:
Cán bộ Huyện xếp từ bậc 10 đến bậc
8.
Cán bộ Ty xếp từ bậc 10 đến bậc
7.
Cán bộ Khu xếp từ bậc 10 đến bậc
6.
Cán bộ Nha xếp từ bậc 10 đến bậc
5.
Ở Nha và Khu thường có đủ các loại
cán bộ từ trình độ Huyện, Ty trở lên. Nên khi xếp phải căn cứ vào đức, tài, lịch
sử đấu tranh của từng người mà xếp, đồng thời chú ý cân nhắc với những cán bộ
tương đương đang công tác ở cơ quan cấp dưới để đánh giá cho đúng. Đối với cán
bộ bình dân học vụ trước là giáo viên phổ thông chuyển sang thì căn cứ vào khả
năng và nhiệm vụ công tác hiện nay là chính, đồng thời chú ý đến bậc của những
cán bộ giảng dạy bên phổ thông có trình độ tương đương với họ.
Đối với giáo viên xung phong và
cán bộ bình dân học vụ công tác ở miền núi vẫn chú ý thích đáng đến điều kiện
làm việc khó khăn của những giáo viên ấy.
3. Phần bổ sung
Thông tư số 23-TCCB-TT ngày 30/3/1956:
a. Đối với một số giáo viên cấp
1 hay cấp 2 đã dạy một số lớp cấp liền trên, Bộ đang nghiên cứu chủ trương công
nhận chính thức những giáo viên ấy ở cấp xứng đáng với khả năng hiện tại của họ
(sau khi đã qua lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ và sát hạch để đảm bảo chất lượng).
Tuy vậy hiện nay phải căn cứ vào khả năng thực tế của giáo viên (đang dạy ở lớp
nào, đức, tài và lịch sử công tác) mà xếp.
Trong khi chờ đợi được công nhận
chính thức, giáo viên trước kia dạy ở cấp 1, nay đưa lên dạy ở cấp 2, mà chỉ dạy
được lớp 5 và 6 thì chỉ xếp cao nhất là bậc 7.
- Giáo viên trước kia dạy ở cấp
2, nay chỉ dạy được đến lớp 8 thì chỉ xếp cao nhất là bậc 6.
- Giáo viên ở trường dự bị đại học
ra, hoặc tốt nghiệp lớp sư phạm cao cấp Liên khu 4, tốt nghiệp khoa học cơ bản,
khi ra trường trình độ rất chênh lệch nhau, nên chỉ căn cứ vào khả năng thực tế
mà xếp, việc công nhận chính thức ở cấp nào sẽ xét sau.
Căn cứ đúng các tiêu chuẩn trên
để xếp bậc này hay bậc khác (tham khảo bản hướng dẫn tiêu chuẩn kèm theo bản
Thông tư số 23-TCCB) bỏ những danh từ “trung bình, khá, xuất sắc” nhưng nên
quan niệm ở ngay một bậc cũng có người nhích hơn hay kém hơn.
b. Bỏ danh từ “giáo viên sơ cấp
và cơ bản” và gọi là giáo viên lớp 1, 2 giáo viên cấp 1. Giáo viên hiện dạy lớp
1, 2 xếp từ bậc 11 đến bậc 9 (dồn xuống 1 bậc). Giáo viên dạy được lớp 3 có thể
xếp cao nhất là bậc 8.
Những giáo viên có thể dạy cả 4
lớp, từ lớp 1 đến lớp 4, thì xếp vào khung giáo viên cấp 1.
c. Huấn luyện viên giáo viên vỡ
lòng trước có 1 bậc 8, nay xếp từ bậc 9 đến bậc 7.
Huấn luyện viên thể thao, thể dục
trước có 1 bậc 8, nay xếp từ bậc 9 đến bậc 7.
d. Giữa phụ tá và phụ trách các
phòng thì nghiệm cấp 3 và đại học, thêm một loại nhân viên nữa xếp từ bậc 9 đến
bậc 7, cụ thể:
Bậc 9. - Phụ tá bậc 10 đã có nhiều
kinh nghiệm và thành tích trên công tác.
- Tốt nghiệp lớp 7 và một lớp
đào tạo, nếu không phải giáo sinh tốt nghiệp sơ cấp thì phải trải qua công tác
ít nhất 1 năm.
Bậc 8. – Đã ở bậc 9 ít nhất 3
năm, có kinh nghiệm, có khả năng hướng dẫn một môn ở cấp 2.
- Trình độ lớp 9 đã qua một lớp
đào tạo, đã công tác ít nhất một năm. Hoặc đã tốt nghiệp lớp 9, nhưng khả năng
chưa phụ trách được một phòng thí nghiệm ở cấp 3.
e. Trường hợp xếp dưới khởi điểm
một bậc:
Chỉ áp dụng cho những người mới
tốt nghiệp các trường sư phạm mà trước khi đi học chỉ là học sinh, thời gian tối
thiểu ở bậc này trước định một học kỳ, nay định trở lại một năm. Thời gian này
để làm căn cứ mà xếp lại chứ không phải sau một năm là đương nhiên xếp lên.
Đối với những người trước khi đi
học là giáo viên hay cán bộ các ngành khác được xếp ngay vào bậc khởi điểm
g. Phần đại học:
- Đối với trợ lý: tối thiểu có
khả năng thực tế hướng dẫn (thêm tiêu chuẩn thực tế), có phụ trách được một
giáo trình (chứ không phải một phần giáo trình)… đã giúp giáo sư ít nhất 3 năm
(trước ghi là 2 năm).
- Đối với phụ giảng: tối thiểu
là tự mình giảng một giáo trình (chứ không phải một phần giáo trình).
- Đối với giáo viên và giáo sư:
công trình nghiên cứu sáng tác (thêm tiêu chuẩn nghiên cứu).
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC
Nguyễn Văn Huyên
|