BỘ
LAO ĐỘNG
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
29-LĐ/TT
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 11 năm 1958
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 29-LĐ/TT NGÀY 20 THÁNG 11 NĂM 1958 QUY ĐỊNH
TẠM THỜI VỀ CHẾ ĐỘ HỌC NGHỀ
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính
gửi :
Đồng kính gửi :
|
- Các vị Bộ trưởng các Bộ,
- Các cơ quan, đoàn thể trung ương
- Các uỷ ban hành chính khu, thành phố, tỉnh
- Các khu, sở, ty, phòng lao động
- Thủ tướng Phủ
|
Căn cứ vào Chỉ thị Phủ thủ tướng
số 13/TTg ngày 6/1/1958 về việc bổ túc nghề nghiệp công nhân và đào tạo thợ mới
có ghi "Bộ lao động làm nhiệm vụ tổng hợp, có trách nhiệm cùng Uỷ ban Kế
hoạch Nhà nước và các Bộ nghiên cứu xây dựng các chính sách, quy định các chế độ
phụ cấp ..." trong khi chờ đợi ban hành chính sách toàn bộ đối với người học
nghề, sau khi đã trao đổi thống nhất ý kiến với các Bộ, các ngành quản lý xí
nghiệp, Bộ lao động ra thông tư này tạm thời quy định một số chế độ cần thiết đối
với các người học nghề, sau khi đã trao đổi thống nhất ý kiến với các Bộ, ngành
quản lý xí nghiệp, Bộ lao động ra thông tư này tạm thời quy định một số chế độ
cần thiết đối với các người học nghề theo lối kèm cặp trong sản xuất và học nghề
tại các trường lớp đào tạo công nhân chuyên nghiệp.
I. TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN, MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA;NGUYÊN TẮC CHUNG:
Công tác đào tạo thợ là một công
tác quan trọng và cấp thiết hiện nay, nhằm xây dựng một lực lượng công nhân
lành nghề và giác ngộ về chính trị để sử dụng tốt các thiết bị máy móc mới,
nâng cao năng suất lao động, chuẩn bị lực lượng cho công cuộc phát triển nền
công nghiệp sau đây:
Từ hoà bình đến nay, các ngành
đã dùng nhiều biện pháp cấp tốc đào tạo được nhiều thợ mới phục vụ kịp thời nhu
cầu kiến thiết và sản xuất. Nhưng do chưa có một chế độ học nghề thích hợp nên ảnh
hưởng không tốt đến chất lượng của lớp công nhân mới được đào tạo như :
1. Lựa chọn người học nghề chưa
bảo đảm sức khoẻ, tuổi tác, thành phần giai cấp theo yêu cầu tính chất nghề
nghiệp, chưa bảo đảm trình độ văn hoá cần thiết. Đối tượng tuyển sinh chưa theo
đúng chính sách nhân công của Nhà nước, thủ tục chiêu sinh chưa chặt chẽ. Vì vậy,
thường xẩy ra tình trạng người học nghề không đủ trình độ tiếp thu bài vở, sức
khoẻ kém, tư tưởng lệch lạc. Kết quả là đào tạo tốn kém mà chất lượng không đảm
bảo phục vụ nhu cầu.
2. Thời hạn học nghề thường quá
ngắn, thời gian tập sự hoặc không có, hoặc ít, người học nghề được chuyển thành
công nhân chính thức quá sớm, có khi còn được đề bạt nhanh, hưởng thu cao. Nhưng
thực tế vì trình độ kỹ thuật còn non kém nên chưa độc lập công tác được, sử dụng
máy móc chưa thành thạo, sản xuất hàng hóa kém chất lượng gây nhiều hư hỏng
lãng phí. Tình trạng này gây cho người học nghề có tư tưởng thoả mãn, ít chịu
khó gian khổ rèn luyện kỹ thuật, học hỏi những công nhân giàu kinh nghiệm, ít
chịu khó học tập trau dồi đạo đức, tác phong người lao động mới, và ảnh hưởng
không tốt đến sự đoàn kết giữa công nhân cũ và mới, ảnh hưởng đến tinh thần an
tâm công tác của anh chị em lao động trong xí nghiệp, công trường.
3. Sinh hoạt phí cho người học
nghề chưa có tác dụng khuyến khích những ngành nghề nặng nhọc, kỹ thuật phức tạp,
chưa phản ánh được tinh thần cần kiệm, ích nước lợi nhà. Các chế độ về tai nạn
lao động, ốm đau... chưa được quy định chung, các ngành thi hành không thống nhất.
Các quy định dưới đây góp phần cải
tiến công tác đào tạo thợ nhằm xây dựng một lớp công nhân mới tiến bộ về nghề
nghiệp, tư tưởng, chính trị, trình độ văn hóa, có sức khoẻ tốt để phục vụ công
cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội. Các quy định này dựa trên yêu cầu khuyến
khích người học nghề đi sâu trau dồi nghề nghiệp, có chiếu cố thích đáng đến
tính chất nghề nghiệp nặng nhọc, phức tạp, đảm bảo đoàn kết giữa người học nghề
và anh chị em công nhân lao động, có phân biệt chiếu cố về quyền lợi giữa người
học nghề theo lối kèm cặp trong sản xuất với người học nghề tại các trường, lớp
dạy nghề, giữa người trong biên chế và người ngoài biên chế đi học nghề.
II. QUY ĐỊNH
CỤ THỂ
A. TIÊU CHUẨN VỀ THỂ LỆ TUYỂN CHỌN
NGƯỜI HỌC NGHỀ
1. Tiêu chuẩn người học nghề:
- Tuổi: nói chung từ 17 đến 22
tuổi đối với người ngoài biên chế. Những nghề ít nặng nhọc và trong công nghệ
nhẹ có thể chọn người 16 tuổi. Đối với người trong biên chế thì tối đa là 30 tuổi.
- Sức khoẻ: có đủ sức khoẻ theo
yêu cầu của từng nghề, không mắc bệnh kinh niên và truyền nhiễm, do giấy của y
sĩ hoặc bác sĩ chứng nhận.
- Văn hóa: phải tốt nghiệp cấp I
trường phổ thông. Cán bộ, công nhân viên trong biên chế phải có trình độ tương
đương. Đối với anh em dân tộc miền núi có thể châm chước một phần, tuỳ trường hợp
cụ thể.
- Chính trị: không mất quyền
công dân và có hạnh kiểm tốt.
2. Thể lệ tuyển chọn:
Các ngành khi chuẩn bị chiêu
sinh phải trao đổi trước với cơ quan Lao động cấp tương đương để bảo đảm sự thống
nhất quản lý và phân phối nhân công của Nhà nước.
Người học nghề phải làm hợp đồng
cam đoan theo đúng nội quy nhà trường và phục tùng sự điều động của Nhà nước
sau khi học xong.
Tất cả mọi người trong và ngoài
biên chế xin học nghề phải qua một cuộc sát hạch trình độ văn hóa.
B. CHẾ ĐỘ HỌC TẬP
1.Thời hạn học:
Nói chung từ một năm rưỡi đến ba
năm (kể cả thời gian tập sự). Các loại thợ cơ khí, điện, mỏ, kiến trúc v.v...
có thể học hai năm và một năm tập sự. Các loại thợ trong công nghiệp nhẹ có thể
học một năm và nửa năm tập sự. Đối với những nghề kỹ thuật đơn giản, các ngành
có thể quy định thời hạn học ngắn hơn.
Đối với người học nghề theo lối
kèm cặp trong sản xuất, thời gian tập sự nói trên có thể rút ngắn nhưng không
được dưới 1/2 thời gian tập sự chung.
2. Thời giờ học:
- Các trường lớp dạy nghề nên bảo
đảm dành 2/3 tổng số giờ học vào thực hành, 1/3 vào lý thuyết và các môn chính
trị, văn hóa.
- Các xí nghiệp, công trường đào
tạo theo lối kèm cặp trong sản xuất phải có chương trình huấn luyện cho người học
nghề hiểu biết lý thuyết cơ bản và bố trí thì giờ học tập đầy đủ chương trình
đó.
3. Ngày nghỉ:
- Người học nghề tại các trường
lớp dạy nghề được nghỉ lễ, nghỉ chủ nhật và nghỉ hè theo quy định chung cho các
trường dạy nghề.
- Người học nghề theo lối kèm cặp
trong sản xuất được nghỉ theo chế độ về ngày nghỉ quy định chung cho coong
nhân, lao động.
4. Chuyển lớp, tốt nghiệp:
- Tại các trường lớp dạy nghề
nói chung không có chế độ ở lại lớp nếu không đủ trình độ lên lớp. Khi ra trường
phải qua một cuộc sát hạch về trình độ nghề nghiệp. Nếu sát hạch mà học sinh
không đạt yêu cầu thì vẫn ra trường đi tập sự và có thể thi lại trong kỳ thi
năm sau, đối với anh em này có thể kéo dài thời gian tập sự nhiều hay ít tuỳ
theo trường hợp. Riêng trường hợp vì ốm đau bất thường không đủ khả năng lên lớp
hoặc thi ra trường hỏng có thể xét được ở lại lớp.
- Người học nghề theo lối kèm cặp
trong sản xuất, khi hết thời hạn học nếu sát hạch mà chưa đạt yêu cầu có thể được
học thêm một thời gian nữa.
C. QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI HỌC
NGHỀ
1. Quyền lợi
a. Sinh hoạt phí:
Trên tinh thần cần kiện xây dựng
nước nhà, sinh hoạt phí cho người học nghề nói chung tính theo mức ăn của những
người lao động thấp cộng thêm một ít tiền tiêu vặt. Những nghề phải học hai năm
(không kể thời gian tập sự) thì năm thứ 2 được tăng thêm một ít tiền tiêu vặt.
Trong thời gian tập sự, người học nghề hưởng cao hơn lúc còn đang học, nhưng thấp
hơn mức lương bậc 1 trong thang lương của nghề ấy. Để khuyến khích và chiếu cố
những người học ngành nghề nặng nhọc, kỹ thuật phức tạp và dựa trên nguyên tắc
chiếu cố người học nghề theo lối kèm cặp trong sản xuất hơn người học tại các
trường lớp dạy nghề (vì phần thực hành của anh em trên nhiều hơn) và nguyên tắc
phân biệt người trong biên chế với người ngoài biên chế vào học nghề, chế độ
sinh hoạt phí quy định cụ thể như sau:
Mức sinh hoạt phí cho người học
nghề ở các trường lớp dạy nghề:
- Người ngoài biên chế vào học
nghề;
- Người trong biên chế được hưởng
nguyên lương như khi công tác theo Nghị định số 263/VN-LB ngày 6-9-1958 của
Liên Bộ Nội vụ, Giáo dục, Lao động, Tài chính.
Loại
học nghề
|
Năm
thứ nhất
|
Năm
thứ hai
|
Tập
sự
|
- Hầm lò ở các mỏ
|
20.000đ
|
23.000đ
|
Hưởng 80% mức
|
- Mỏ lộ thiên, cơ khí, điện,
kiến trúc.
|
18.000đ
|
20.000đ
|
lương bậc 1 của tháng lương
nghề ấy
|
- Công nghệ nhẹ
|
17.000đ
|
|
gồm cả phụ cấp khu
|
|
|
|
vực của nơi học.
|
Mức sinh hoạt phí cho người học
nghề theo lối kèm cặp trong sản xuất.
- Người ngoài biên chế học nghề:
Loại
học nghề
|
Năm
thứ nhất
|
Năm
thứ hai
|
Tập
sự
|
- Hầm lò ở các mỏ
|
25.000đ
|
30.000đ
|
Hưởng 80% mức
|
- Mỏ lộ thiên, cơ khí, điện,
kiến trúc.
|
21.000đ
|
24.000đ
|
lương bậc 1 của tháng lương
nghề ấy
|
- Công nghệ nhẹ
|
18.000đ
|
|
gồm cả phụ cấp khu
|
|
|
|
vực của nơi học.
|
- Người trong biên chế được hưởng
nguyên lương như khi công tác theo nghị định số 263/NV-LB ngày 6 tháng 9 năm
1958.
Trường hợp người trong biên chế
đi học tại trường lớp dậy nghề và theo lối kèm cặp trong sản xuất, nếu mức
nguyên lương thấp hơn mức sinh hoạt phí quy định cho người học nghề thì được hưởng
khoản tiền chênh lệch.
Sinh hoạt phí cho người ngoài
biên chế học nghề cấp theo chế độ học bổng. Sẽ tuỳ theo hoàn cnảh gia đình mà
xét cấp học bổng toàn phần hoặc một phần. Những người học ngành nghề nặng nhọc
xét cần được khuyến khích (thí dụ: hầm lò ở các mỏ...) được cấp toàn bộ học bổng.
Nếu hết thời hạn học, người học
nghề, kể cả trong và ngoài biên chế, vì chưa đạt yêu cầu được học thêm một thời
hạn thì thời gian học kéo dài này được tiếp tục hưởng mức sinh hoạt phí đang hưởng.
b. Các quyền lợi khác:
Bảo hộ lao động:
Người học nghề khi thực tập và tập
sự, tùy theo nghề nghiệp được trang bị những phương tiện bảo hộ lao động cần
thiết trong nghề.
Tai nạn lao động:
Trong khi thực tập, nếu xẩy ra tai
nạn lao động, người học nghề được hưởng chế độ quy định trong nghị định Liên Bộ
Lao động, Nội vụ, Y tế, Tài chính số 111/NĐ-LB ngày 11-11-1955 và các văn bản kế
tiếp.
Quyền lợi về ốm đau, thai sản,
giữ trẻ, trợ cấp con và trợ cấp nghỉ phép:
Người trong biên chế học nghề được
hưởng các quyền lợi về ốm đau, thai sản, trợ cấp con và trợ cấp nghỉ phép như
cán bộ, công nhân, nhân viên tại chức theo quy định trong Nghị định số
263/NV-LB ngày 6-9-1958. Về chế độ gửi con vào nhóm trẻ thì ai đã có tiêu chuẩn
gửi trẻ được tiếp tục gửi con vào các nhóm trẻ của xí nghiệp và nhà trường, ai
không có tiêu chuẩn nếu cần gửi con phải trả tiền theo chế độ của xí nghiệp hoặc
theo sự quy định của Nhà trường.
Người ngoài biên chế học nghề
khi ốm đau chỉ được cấp thuốc men theo chế độ học sinh, ngoài ra không được hưởng
chế độ giữ trẻ, trợ cấp con, và trợ cấp nghỉ phép.
Trợ cấp khi chết vì ốm:
Người trong biên chế học nghề được
hưởng chế độ trợ cấp khi chết như công nhân viên tại chức. Còn người ngoài biên
chế khi chết chỉ được trợ cấp mai táng phí.
c. Quyền lợi được tuyển vào
ngạch và sắp xếp bậc lương:
Người học nghề chỉ được chính thức
tuyển dụng sau khi đã đạt được yêu cầu học tập và đã hết thời gian tập sự quy định
(trong thời gian học nghề và tập sự, theo nhu cầu sản xuất và tuỳ khả năng người
học nghề, đơn vị có thể giao cho người học nghề một số công việc chính thức,
nhưng chưa phải là chính thức tuyển dụng).
Người học nghề được sử dụng tuỳ
theo nhu cầu và được xếp bậc trong các thang lương.
Người ngoài biên chế học thành
nghề trong năm đầu nói chung xếp vào bậc 1 của thang lương nghề ấy. Riêng đối với
một số nghề cùng chung một thang lương nhưng mức lương khởi điểm khác nhau như
các nghề cùng chung một thang lương công nhân cơ khí 8 bậc, hay cùng chung một
thang lương công nhân ngành in 8 bậc... nếu mức khởi điểm từ bậc 3 thang lương
chung trở lên thì người học thành nghề không phải được xếp ngay vào bậc lương
khởi điểm mà phải xếp dưới một bậc trong thang lương chung. Năm sau, tuỳ theo
khả năng có thể được xếp vào khung bậc lương của nghề.
Người trong biên chế học thành
nghề được xếp ngay vào khung bậc của thang lương trong nghề tuỳ theo khả năng.
Trường hợp mức lương mới còn thấp hơn mức nguyên lương như khi công tác mà người
đó được hưởng trong lúc học nghề thì được giữ mức nguyên lương trong năm đầu,
sang năm sau được xét lại khả năng xếp lại bậc lương và hưởng theo lương mới
(dù mức lương mới vãan còn thấp hơn mức nguyên lương).
2. Nghĩa vụ:
a. Người học nghề phải triệt để
tôn trọng và thi hành nội quy của xí nghiệp hay của nhà trường.
b. Người học nghề sau khi học
thành nghề phải phục tùng sự điều động của Nhà nước như đã cam kết trong hợp đồng
học nghề.
III. PHẠM VI
VÀ HIỆU LỰC THI HÀNH
Thông tư này áp dụng cho tất cả
các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường có tổ chức dạy nghề theo lối
kèm cặp trong sản xuất và các trường lớp đào tạo côgn nhận chuyên nghiệp.
Dựa vào quy định chung này, các
Bộ, các ngành nghiên cứu quy định những điểm cụ thể thích hợp với ngành mình,
nhưng phải thông qua Bộ Lao động trước khi thi hành.
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ban hành. Những chế độ về học nghề ban hành từ trước trái với thông tư này
đều bãi bỏ.
Trong khi thi hành Thông tư này,
nếu gặp khó khăn gì đề nghị các ngành, các địa phương phản ánh cho Bộ Lao động
rõ.