BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
22-LĐTT
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 10 năm 1957
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC THỰC HIỆN THƯỞNG TĂNG NĂNG SUẤT TRÊN CÁC CÔNG
TRƯỜNG
BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi:
|
-Các Bộ và các ngành quản lý
công trường
-Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
-Các Ủy ban Hành chính liên khu, khu, thành phố
tỉnh
-Các Khu, Sở, Ty, Phòng Lao động
|
Chế độ thưởng tăng năng suất hiện
đang áp dụng trên các công trường là do những quy định trong thông tư Liên bộ số
4-TT/LB ngày 27-1-1956 và thông tư Liên bộ số 19-TT/LB ngày 27-10-1956 về chế độ
lao động trên các công trường và thông tư Liên bộ Tài chính – Lao động số
9-TT/LB ngày 15-5-1956 về thưởng tăng năng suất. Trong quá trình thực hiện đã đem
lại kết quả bước đầu về mặt đẩy mạnh sản xuất cũng như về mặt bồi dưỡng một phần
những công nhân có thành tích trong phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm.
Nhưng cho tới nay việc chấp hành chế độ thưởng tăng năng suất trên các công trường
còn lẻ tẻ, chưa thống nhất, còn nhiều nơi đang gặp mắc mứu, khó khăn về nội
dung và phương pháp.
Sau khi thống nhất ý kiến với
các Bộ, các ngành liên quan, Bộ Lao động tạm ra thông tư này quy định một số
nguyên tắc, đặt cơ sở cho việc thực hiện thống nhát chế độ thưởng tăng năng suất
trên các công trường:
I. MỤC ĐÍCH Ý
NGHĨA
Hiện nay trên một số công trường,
đã thực hiện dần dần lương khoản. Nhưng vì hoàn cảnh có nhiều khó khăn phức tạp
như việc quản lý công trường chưa được thật hợp lý, mức khoản bước đầu xây dựng
chưa được chính xác, cán bộ có đủ khả năng chuyên trách về lương khoản còn thiếu
cho nên còn có nhiều đơn vị, nhiều bộ phận chưa có điều kiện thực hiện chế độ
lương khoản. Trong tình hình đó để khuyến khích công nhân lao động, phát huy
nhiệt tình lao động, nâng cao năng suất lao động, thi đua hoàn thành kế hoạch đồng
thời bồi dưỡng kịp thời những người cố gắng, có thành tích trong sản xuất và
xây dựng, cần thực hiện rộng rãi chế độ thưởng tăng năng suất
II. NGUYÊN TẮC
CĂN BẢN CỦA CHẾ ĐỘ THƯỞNG TĂNG NĂNG SUẤT
Thưởng tăng năng suất phải căn cứ
vào nguyên tắc: tăng nhiều thưởng nhiều, tăng ít thưởng ít, không tăng không
thưởng. Có tăng năng suất nhưng phải bảo đảm những tiêu chuẩn kỹ thuật đã định
mới được tính thưởng. Căn cứ vào những trường hợp sau đây mà tính tăng năng suất:
Những cá nhân hay đơn vị (nhóm,
tổ) nếu hoàn thành khối lượng công việc đúng thời hạn ấn định, bảo đảm tiêu chuẩn
kỹ thuật là đạt được mức, hoàn thành trước thời hạn là vượt mức, hoàn thành sau
thời hạn là không đạt mức.
Trường hợp cố gắng vượt mức sản
xuất, rút ngắn thời hạn, bảo đảm chất lượng đã quy định, cá nhân hay đơn vị vượt
mức được tính thưởng tăng năng suất.
Nếu trong thời hạn ấn định, cả
đơn vị hay cá nhân không đảm bảo được mức thì vẫn được lĩnh đủ tiền công, không
phải làm bù và cũng không bị trừ bớt lương, nhưng phải kịp thời kiểm điểm tìm
nguyên nhân và có kế hoạch bổ cứu.
Thí dụ 1: Ở một công trường sản
xuất đá:
Một A có 10 người, tiêu chuẩn một
công (cả sản xuất và vận chuyển bao gồm các việc đục choòng, phá đá hộc và đập
thành đá dăm) là 0m3,600, hôm đó toàn A sản xuất được 7m3,200
như thế là, tăng được 1m3,260.
Thí dụ 2: Ở một công trường thủy
lợi:
Giao đắp 1.000 thước khối đê
tinh là 1.000 công (cộng tiêu chuẩn đắp 1 thước khối đê là 1 công) mà chỉ làm
900 công đã xong thì vẫn trả 1.000 công, chênh lệch 1.000 – 900 = 100 công là
tăng năng suất.
III. PHƯƠNG
PHÁP THỰC HIỆN THƯỞNG TĂNG NĂNG SUẤT
1) Đạt mức:
Mức để tính thưởng là mức trung
bình tiên tiến, có căn cứ kỹ thuật.
Định mức sát đáng phải căn cứ
vào thực tế sản xuất, có nghiên cứu những nhân tố thường chi phối thì giờ dùng
trong sản xuất của người công nhân, có quan sát về các mặt trong sản xuất như:
địa điểm công tác, điều kiện hoàn cảnh làm việc, quá trình sản xuất, vấn đề
cung cấp dụng cụ, nguyên vật liệu, vấn đề sử dụng công suất máy và động tác của
người thợ. Trong những nhân tố đó, có chỗ nào bất hợp lý có biện pháp cải tiến.
Ngoài ra còn phải giúp đỡ công nhân giải quyết khó khăn trong sản xuất, phân
tích để công nhân học tập kinh nghiệm, phương pháp làm việc và những thành tích
về mặt nâng cao hiệu suất sản xuất lao động của các chiến sĩ thi đua, các đơn vị
sản xuất tiên tiến.
Có dựa trên những cơ sở phân
tích, nghiên cứu tìm ra mức thì mức mới thể hiện được tính chất trung bình tiên
tiến, có căn cứ kỹ thuật.
Hiện nay do trình độ quản lý
công trường, khả năng cán bộ và yếu cầu của sản xuất, phương pháp định mức có
thể tuỳ hoàn cảnh sản xuất và xây dựng thực tế từng nơi kết hợp ba mặt:
a) Thống kê, theo dõi mức sản xuất
đã đạt được của đa số công nhân tiến bộ trong sản xuất trong một thời gian trước.
Nếu không có điều kiện thống kê thfi tổ chức cho làm thử trong một số công nhân
thành thạo sau khi được giáo dục kỹ chính sách.
b) Theo dõi trong công tác sản
xuất, phát hệin những giờ chế, những động tác thừa, những bất hợp lý trong cách
tổ chức lao động, việc bố trí dụng cụ, sử dụng nguyên vật liệu.
c) Trên cơ sở những số liệu và
tình hình đã nắm được, cán bộ kỹ thuật chuyên môn cùng với cán bộ công đoàn,
chiến sĩ thi đua tính toán kỹ để định mức, sau khi đã phân tích những bất hợp
lý trong quá trình sản xuất, nghiên cứu cải tiến tổ chức lao động, bố trí dụng
cụ, nguyên vật liệu, cải tiến phương pháp làm việc. Khi đã có dự kiến sẽ tổ chức
cho quần chúng tham gia ý kiến rồi mới quyết định. Như vậy có thể bảo đảm mức
năng suất thích hợp với thực tế.
Để xây dựng mức được chính xác
và bảo đảm đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, mỗi cơ sở sản xuất cần có cán bộ chuyên
trách thường xuyên theo dõi, thống kê, nghiên cứu hướng dẫn và xây dựng mức.
2) Thay đổi mức:
Trong quá trình thực hiện thưởng
tăng năng suất, nếu xét thấy mức quá thấp, không hợp lý, đại đa số công nhân có
thể vượt mức dễ dàng hoặc có sự thay đổi lớn trong sản xuất về điều kiện công
tác, tổ chức lao động, về máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu hoặc sáng kiến phát
minh thì phải nghiên cứu thay đổi lại mức. Trái lại, nếu mức định cao thì phải
tìm nguyên nhân vì sao không đạt được mức. Nếu sau khi đã kiểm điểm và có kế hoạch
chấn chỉnh rồi mà cũng chỉ có một số rất ít người đạt được, thì mức đó cần phải
điều chỉnh lại cho sát thực tế.
Về thời gian xét lại mức thì tuỳ
tình hình thực tế ở các công trường. Để tranh thắc mắc của công nhân thì phải
nói trước cho công nhân biết việc điều chỉnh mức là cần thiết và hợp lý.
3) Tỷ lệ thưởng tăng năng suất:
Tỷ lệ thưởng tăng năng suất áp dụng
cho công nhân, lao động ăn lương tháng, ăn lương ngày, quy định tạm thời từ 40%
đến 60% tiền công của một loại việc. Đối với dân công áp dụng tỷ lệ thưởng 80%.
Ấn định tỷ lệ thưởng cao hay thấp
trong phạm vi từ 40% đến 60% là tuỳ theo tầm quan trọng và điều kiện sản xuất,
mức độ yêu cầu phải vượt mức hoặc rút ngắn thời gian của từng bộ phận sản xuất
của công trường.
4) Cách tính thưởng:
Tiền thưởng tăng năng suất tính
theo một tỷ lệ phần trăm (%) vào tiền lương, theo cách sau đây:
Lương+Phụ cấp khu vực X số
vượt mức X tỷ lệ thưởng
Mức ấn định
Các khoản phụ cấp đặc biệt khác
ngoài phụ cấp khu vực sẽ không được cộng vào lương chính để tính thưởng (Thí dụ:
Phụ cấp đặc biệt cho công trường đường đất mỏ Apatile (Lào Cai) phụ cấp hao mòn
sức khoẻ…)
Lương tính thưởng là lương thợ
và lao động thưởng quy định trong thông tư số 4 và số 19 về chế độ lao động
trên các công trường.
Đối với các đội công trình
chuyên nghiệp trong biên chế như các đội cầu, đội đặt đường ray… của Tổng đội
Công trình đường sắt hay của một số ngành khác, lương tính thưởng là những mức
lương của những bậc trong tháng lương 8 bậc (công nhân X.N.) và thang lương 6 bậc
(lao động thường). Khi tính chú ý cộng thêm vào lương phần tăng lương 5%, 8%,
12%, theo thông tư Liên bộ Nội vụ - Lao động – Tài chính số 21-TT/LB ngày
15-11-1956.
Nơi nào không giao khoán cho dân
công mà thi hành chế độ thưởng tăng năng suất đối với dân công, tiền thưởng sẽ
tính theo thù lao ấn định mỗi ngày cho mỗi loại dân công là 600đ cho dân công
thường, 800đ cho dân công vận tải và từ 800đ đến 1000đ cho dân công thợ được sử
dụng đúng nghề, tùy theo khả năng chuyên môn (theo bản điều lệ tạm thời về huy
động và sử dụng dân công trong thời bình, ban hành ngày 27-7-1957).
Ở công trường tuỳ theo tính chất
công tác mà quy định mức lương khác nhau cho những công việc khác nhau. Khi
công nhân làm việc có tăng năng suất thì căn cứ theo mức lương quy định cho việc
đó mà tính thửơng. Trường hợp tăng năng suất do toàn đơn vị cùng làm một việc
thì lấy tổng số tiền lương và phụ cấp khu vực của những người trong đơn vị mà
chia cho mức ấn định của đơn vị rồi nhân với số định mức và tỷ lệ thưởng.
Đối với cán bộ, công nhân gián
tiếp sản xuất có thành tích cố gắng trong công tác thì sẽ được thưởng. Tiền thưởng
cho những người này sẽ trích trong số tiền thưởng tăng năng suất của đơn vị, nhưng
tiền thưởng cho cá nhân gián tiếp sản xuất phải xét kỹ, không nên quá chênh lệch
với người trực tiếp sản xuất. Tiền thưởgn tăng năng suất cho những người gián
tiếp sản xuất chỉ được tính trong trường hợp cả đơn vị hoàn thành nhiệm vụ hay
vượt kế hoạch do công trường ấn định.
5) Thời gian thanh toán và cách
chia tiền thưởng:
Tiền thưởng tăng năng suất sẽ
thanh toán theo kỳ trả lương cho công nhân, lao động tùy theo từng loại việc, từng
đợt công tác của công trường, nhưng phải được trả trong vòng 15 ngày sau khi
hoàn thành được mức ấn định.
Nếu đơn vị công tác là một tập
thể thì thanh toán tiền thưởng chung của đơn vị cho người đại diện, sau về anh
em trong đơn vị sẽ chia nhau tiền thưởng trên nguyên tắc ai tăng năng suất nhiều
được hưởng nhiều, ai tăng ít hưởng ít.
IV. PHẠM VI
VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG THƯỞNG TĂNG NĂNG SUẤT
Chế độ thưởng tăng năng suất này
áp dụng cho những loại việc trên các công trường cầu đường, thủy lợi, đường sắt,
xây dựng nhà cửa… Những cá nhân hay đơn vị (nhóm, tổ) không kể là thợ chuyên
nghiệp hay lao động thường, không phân biệt trong hay ngoài biên chế, lực lượng
miền Nam, thanh niên xung phong, Âu Phi cũng như lao động thành thị, dân công,
ăn lương tháng, lương ngày hoặc thù lao, nếu cố gắng bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật
vượt mức sản xuất trước thời hạn do công trường ấn định, sẽ được thưởng tăng
năng suất.
Trên đây là một số nguyên tắc
căn bản hướng dẫn việc thực hiện thưởng tăng năng suất áp dụng thống nhất trên
các công trường.
Các ngành, các địa phương sẽ căn
cứ vào đặc điểm cụ thể của ngành, của địa phương , vạch kế hoạch hướng dẫn giúp
đỡ các công trường thi hành cho sát hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, bảo đảm việc
thưởng đạt được kết quả tốt.
Trong quá trình thực hiện, đề
nghị các ngành, các địa phương công trình báo cáo kết quả cụ thể, những ưu khuyết
điểm và kinh nghiệm, nhất là những khó khăn trở ngại cho Bộ Lao động để đúc rút
kinh nghiệm phổ biến chung và bổ sung cho thông tư.
Thông tư này áp dụng kể từ ngày
ban hành và hủy bỏ những điều mục nói về thưởng tăng năng suất ở công trường
trước đây đã quy định.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|