BỘ
NÔNG LÂM
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
19-TT
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 05 năm 1959
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM TRÊN CÁC
CHI NHÁNH QUỐC DOANH LÂM KHẨN
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG LÂM
Kính gửi:
Đồng kính gửi:
|
- Ủy ban Hành chính các tỉnh
Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An, Bắc Giang. Ông Giám đốc Cục Lâm nghiệp.
- Các ông Quản đốc Chi nhánh Quốc doanh lâm khẩn.
- Ông Bộ trưởng Bộ Lao động
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
|
Căn cứ Thông tư 04-LĐ/TL ngày
11-02-1959 của Bộ Lao động tạm thời ấn định nguyên tắc, nội dung và hướng dẫn
thực hiện chế độ lương sản phẩm,
Căn cứ tình hình đặc điểm sản xuất của các Chi nhánh Lâm khẩn,
Bộ ban thành Thông tư hướng dẫn thực hiện lương sản phẩm như sau:
I. YÊU CẦU, MỤC
ĐÍCH
Thông tư số 04-LĐTL ngày
11-02-1959 của Bộ Lao động đã nói rõ yêu cầu, mục đích của việc thực hiện lương
theo sản phẩm. Căn cứ tình hình sản xuất của ngành lâm khẩn, việc thực hiện chế
độ lương theo sản phẩm nhằm đạt mấy yêu cầu sau đây:
1. Cải tiến chế độ trả lương để
quán triệt đầy đủ nguyên tắc cơ bản của tiền lương xã hội chủ nghĩa là “hưởng
thụ theo lao động” để kích thích mọi người ra sức thi đua trau dồi nghề nghiệp,
cải tiến hợp lý hóa tổ chức, không ngừng nâng cao năng suất lao động, đẩy mạnh
sản xuất hạ giá thành sản phẩm.
2. Trên cơ sở năng suất được
nâng cao mà tăng thêm thu nhập tiền lương, cải thiện dần đời sống cho công
nhân, cổ vũ mọi người thi đua “làm nhanh, nhiều, tốt, rẻ, và an toàn” nhằm hoàn
thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước nước 1959 và 3 năm.
3. Nâng cao hơn nữa trình độ tổ
chức quản lý sản xuất của công nhân và cán bộ, tăng cường tinh thần chủ nhân, động
viên cán bộ công nhân tham gia xây dựng kế hoạch và tổ chức quản lý sản xuất được
hợp lý. Khắc phục tác phong quan liêu đại khái trong cán bộ.
II. NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Về điều kiện thực hiện lương
theo sản phẩm, Thông tư Bộ Lao động đã nói rõ, khi chuẩn bị thực hiện cần
nghiên cứu kỹ. Về nội dung và phương pháp thực hiện phải tùy theo tình hình đặc
điểm sản xuất mà áp dụng cho thích hợp. Do đó ngành lâm khẩn khi tiến hành
lương theo sản phẩm cần chú ý những đặc điểm sau đây:
- Yêu cầu sản xuất và khai thác
gỗ từ trong rừng ra đến bến tiêu thụ, sản xuất phải qua nhiều giai đoạn, tổ chức
có nhiều bộ phận như: chặt hạ, lao kéo, vận chuyển, v.v… nhưng đều có liên quan
chặt chẽ trong một giây chuyền sản xuất.
- Phương tiện sản xuất nơi thủ
công, nơi bán cơ khí: trâu, voi, máy kéo, ô-tô, mỗi nơi cũng trang bị khác
nhau. Điều kiện rừng gỗ, phạm vi khai thác, cự ly vận xuất cũng khác nhau trong
một cơ sở.
- Tổ chức lao động có nơi tổ chức
hỗn hợp vừa thủ công vừa cơ khí, nhiều bộ phận khác nhau trong một đội, có nơi
tổ chức riêng, v.v… Trình độ nghề nghiệp của công nhân cũng khác nhau, nhưng
cùng làm chung một bộ phận sản xuất ra một sản phẩm như nhau.
1. Định mức:
Ý nghĩa quan trọng và nguyên tắc
định mức để trả lương theo sản phẩm trong Thông tư số 04/LĐTC ngày 11-02-1959 Bộ
Lao động đã nói rõ, Thông tư này Bộ chỉ hướng dẫn cách định mức như thế nào chi
thích hợp với đặc điểm sản xuất của ngành lâm khẩn:
Phương pháp định mức trung
bình tiên tiến:
Định mức để trả lương theo sản
phẩm phải là mức trung bình tiên tiến, Nghĩa là tìm mức trung bình của đa số
người đạt được rồi nâng lên mức tiên tiến. Làm thế nào để tìm được mức trung
bình tiên tiến? Phương pháp tìm mức có căn cứ kỹ thuật thì tùy theo tình hình cụ
thể của mỗi nơi mà áp dụng phương pháp đã hướng dẫn tại Thông tư số 24-LĐTT
ngày 30-11-1957 của Bộ Lao động. Ngành Lâm khẩn đại bộ phận sản xuất thủ công,
chịu nhiều ảnh hưởng điều kiện thiên nhiên, nên cách định mức có thể áp dụng
nhiều cách. Nhưng hiện nay các Chi nhánh thí điểm phần nhiều áp dụng phương
pháp thống kê kinh nghiệm, tức là căn cứ vào số liệu thống kê mức sản xuất của
quý trước, phân tích tổ chức lao động, phương pháp làm việc trước, điểm nào
chưa hợp lý, phương tiện dụng cụ sản xuất tốt xấu, thiếu đủ, cơ giới hay thủ
công, tình hình rừng gỗ nhiều hay ít, loại gỗ gì nhiều, khai thác trên cao hay
dưới thấp, đường lao kéo, vận xuất xa gần, khó đi hay dễ đi, tình hình thời tiết
lúc bấy giờ thế nào mà nhận định mức sản xuất cũ đã tiến bộ chưa. Khả năng có
thể cải tiến được những điểm bất hợp lý, cộng với tình hình thuận lợi hiện nay
(thời tiết, rừng, gỗ, công cụ sản xuất, tinh thần thi đua của công nhân) thì mức
có thể nâng lên bao nhiêu thì vừa, mức đó có thể qua cố gắng liên tục của đa số
công nhân thì đạt và vượt được mức.
Định mức do quản đốc chi nhánh
và cán bộ kỹ thuật nghiên cứu làm dự kiến và đưa ra công nhân tham gia ý kiến,
đem áp dụng thử trong thời gian ngắn, chỉnh lý lại các mức chưa sát rồi mới quyết
định công bố chính thức. Tránh dùng phương pháp dân chủ bình nghị để định mức.
Công đoàn, Thanh niên lao động có trách nhiệm động viên công nhân tham gia ý kiến
rộng rãi để xây dựng mức cho tốt.
Định mức phải đi đôi với việc phổ
biến kinh nghiệm tiền tiến. Khi đã có mức mới, cán bộ có trách nhiệm tạo điều
kiện, bố trí đầy đủ phương tiện và phải giúp đỡ công nhân đạt và vượt mức.
2. Thay đổi
mức và xét duyệt mức:
Do đặc điểm sản xuất của ngành
lâm khẩn còn lệ thuộc khá nhiều vào điều kiện thiên nhiên, nên mức sản xuất
không bình thường mà mức sản xuất phải định cho phù hợp với khả năng điều kiện
làm việc của mỗi nơi mỗi lúc. Do đó trong một Chi nhánh có thể có nhiều mức
trung bình tiền tiến khác nhau, có khi định mức mới thấp hơn mức cũ mà vẫn
không mất tính chất tiền tiến của mức.
Mỗi Chi nhánh sẽ căn cứ vào khả
năng và yêu cầu sản xuất và điều kiện khai thác của Chi nhánh mà định mức trung
bình tiền tiến chung cho toàn Chi nhánh trong một thời gian từ 3 đến 6 tháng.
Trong thời gian đó nếu địa điểm khai thác thay đổi, thì Chi nhánh căn cứ vào mức
trung bình chung mà xét tình hình cụ thể của địa điểm mới mà định mức trung
bình tiền tiến riêng cho thích hợp với khả năng của đội đó trong một thời gian
nhất định. Thời gian sản xuất của mỗi đội không nhất thiết giống nhau mà tùy
theo khả năng rừng từng lô, cúp mà định cho thích hợp.
Nhưng tránh thay đổi mức nửa chừng,
mặc dù trong một lô, cúp điều kiện sản xuất khác nhau về cự ly lao kéo, về loại
đường, loại gỗ. Chỗ gần bù xa, dễ bù khó trong một lô cúp để đảm bảo mức trung
bình tiền tiến một thời gian từ 3 đến 6 tháng sẽ xét lại mức. Nhưng không nhất
thiết khi xét lại là thay đổi tất cả các mức. Nếu sau khi xé tlại mức thấy có
những mức cũ còn có tính chất tiền tiến chưa có nhân tố gì làm ảnh hưởng đến mức
cũ thì vẫn tiếp tục duy trì mức cũ.
Trong trường hợp dưới đây thì, mặc
dù chưa đến kỳ hạn xét lại mức cũng có thể sửa đổi mức:
a) Điều kiện làm việc thay đổi
(có thuận tiện hoặc khó khăn hơn trước).
b) Kỹ thuật sản xuất, phương
pháp làm việc thay đổi theo sự hướng dẫn của ban phụ trách xí nghiệp. Khi có
sáng kiến phát minh đã được phổ biến hướng dẫn cho công nhân áp dụng thì mức sẽ
thay đổi.
c) Thiết bị máy móc, dụng cụ
nguyên vật liệu có thay đổi.
d) Tổ chức sản xuất, tổ chức lao
động có thay đổi quy cách kỹ thuật, quy cách chất lượng sản phẩm có thay đổi.
đ) Khi xét định mức có sai lầm
nhiều.
Việc sửa đổi mức phải theo đúng
phương pháp quan sát về mọi mặt trong sản xuất, phân tích kỹ càng và suy xét đến
những nhân tố tiền tiến có tác dụng nâng cao mức sản xuất, tóm lại phải căn cứ
kỹ thuật.
3. Cách tính
đơn giá.
Muốn tính lương trả theo sản phẩm
thì trước tiên phải tính giá công sản xuất ra mộ đơn vị sản phẩm. Đơn vị của sản
phẩm có thể là một mét (m) mét khối (1m3) v.v… Sau khi đã có đơn giá
sẽ căn cứ vào số lượng sản phẩm hợp quy cách để tính lương cho công nhân. Trong
khi tính đơn giá phải đảm bảo nguyên tắc: “cùng sản xuất một sản phẩm như nhau,
cùng hoàn cảnh sản xuất và phương tiện như nhau thì đơn giá phải như nhau” cho
nên đơn giá phải tính theo lương cấp bực công việc chứ không phải tính theo
lương cấp bực của công nhân làm công việc đó. Do đó cấp bực thợ trong một đơn vị
sản xuất có thể khác nhau nhưng đơn giá không khác nhau. Cho nên trước khi định
đơn giá cần phải xác định công việc đó cần làm bao nhiêu người và trình độ thợ ở
bực nào là chủ yếu để lấy lương của thợ cấp bực đó để tính đơn giá.
Cách tính đơn giá cho một đơn
vị sản xuất:
Tổng
số lương cấp bực công việc đó
|
=
đơn giá
|
Mức
sản phẩm
|
Ví dụ: Một tổ xuôi bè cần 4 người
thợ, mức định 50m3 từ bến Mục đi Hàm Rồng trong thời gian 25 ngày rưỡi.
Trong tổ 4 người đo cần có 1 công nhân bực 4 là 51đ, 2 công nhân bực 3 là 46 đồng,
1 công nhân bực 2 là 41đ, thì đơn giá 1m3 gỗ đến bến Hàm Rồng là:
51đ
+ (46đ x 2) + 41đ
|
= 3đ68
|
50m3
|
Trường hợp Chi nhánh điều động đi
1 công nhân bực 3, điều đến 1 công nhân bực 4 hoặc bực 2 tức là cấp bực của
công nhân có thay đổi nhưng đơn giá vẫn là 3đ68.
Định mức và đơn giá là hai vấn đề
liên quan mật thiết với nhau, mức thay đổi, thì đơn giá sẽ thay đổi, do đó sẽ ảnh
hưởng đến thu nhập của công nhân. Vì vậy khi mức lạc hậu, cần phải nâng cao
lên, có thể kết hợp nâng mức lên trong khi định mức lại, cho một đội sản xuất
thay đổi lô rừng khai thác. Khi nâng mức trung bình tiền tiến lên, cán bộ cần
có biện pháp cụ thể hướng dẫn, giúp đỡ công nhân nắm được kỹ thuật mới, để mau
chóng đạt và vượt mức. Mặt khác khi định đơn giá mới cần chú ý định thế nào mà
thu nhập của người công nhân khi đạt mức mới, được cao hơn ít nhiều so với khi
đạt mức cũ (Trừ trường hợp định mức có sai lầm thì không đặt ra).
Ví dụ: Định mức cũ cho đơn vị
khai thác gỗ một ngày là 5m3 gỗ, (không sai lầm) theo mức lương ngày
của cả đơn vị đó là 33đ thì đơn giá là (1m3).
Giá
tiền 1m3
|
33đ
5m3
|
= 6đ6
|
Nếu đạt mức cũ thì đơn vị ấy mỗi
ngày thu nhập 33đ. Nay mức mới nâng lên 6m3 (tăng hơn mức cũ 20%). Khi
định đơn giá mới phải làm thế nào mà đơn vị đó sẽ thu nhập cao hơn 33đ và giá
thành sẽ hạ xuống. Ví dụ: Đơn giá mới định 5đ8 1m3 gỗ. Vậy khi đạt
được mức mới 6m3 thì thu nhập của đơn vị ấy sẽ là 5đ8 x 6m3
= 34đ8. So với thu nhập cũ tăng lên 34đ8 – 33đ = 1đ8. Tỷ lệ tăng 5,4% và giá
thành cũng được hạ 1m3 gỗ là 6đ6 - 5đ8 = 0đ8.
Trong trường hợp nâng mức trung
bình tiền tiến chung cho toàn Chi nhánh, Cục Lâm nghiệp tùy theo mức độ nâng mức
trung bình tiền tiến nhiều hay ít mà cho Chi nhánh tăng mức lương khuyến khích
tối đa là 10% lương cấp bực. Khi chi nhánh nâng mức trung bình cho các đội sản
xuất thì tùy theo mức độ nâng mức nhiều ít mà cho tỷ lệ khuyến khích riêng cho
từng đội để cộng tỷ lệ đó và lương cấp bực mà chia đơn giá. Nhưng phải đảm bảo
nguyên tắc: Tổng số tỷ lệ lương khuyến khích của các đội không vượt quá tỷ lệ
khuyến khích cho toàn đơn vị.
4. Công tác
theo dõi, thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm trong quá trình thực hiện
lương sản phẩm:
Trong quá trình thực hiện chế độ
lương theo sản phẩm, việc thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm là một vấn đề
rất quan trọng. Các Chi nhánh lâm khẩn phải tích cực làm tốt công tác này.
- Nắm được tình hình thực hiện mức,
nắm được số lượng sản phẩm đã làm ra, phát hiện những người, những đơn vị không
đạt được mức, tìm ra nguyên nhân để kịp thời giúp đỡ công nhân đạt và vượt mức.
- Nắm được tình hình đảm bảo phẩm
chất, số nguyên vật liệu tiêu dùng, tỷ lệ phế phẩm, tìm ra phương pháp sửa chữa
cho hết phế phẩm, hoặc giảm tỷ lệ phế phẩm và quy định tiền lương của những phế
phẩm đó.
- Tìm ra những công nhân hoặc
đơn vị sản xuất tiền tiến lương của những phế phẩm đó.
- Tìm ra những công nhân hoặc
đơn vị sản xuất tiền tiến tổng kết và nghiên cứu kinh nghiệm của những công
nhân đơn vị đó đem phổ biến rộng rãi trong công nhân, phát hiện khả năng có thể
nâng cao mức sản xuất.
- Phát hiện ra những mức cao quá
hoặc thấp quá trở ntại đến việc nâng cao năng suất lao động và ảnh hưởng quan hệ
tiền lương hợp lý trong công nhân. Tính ra khuyết điểm trong công tác định mức
và những lệch lạc đối với chính sách tiền lương.
- Kịp thời bố trí công việc cho
những đơn vị đã hoàn thành vượt sản phẩm, rút ngắn thời gian công tác để tiếp tục
sử dụng hết khả năng lực lượng công nhân.
Để đảm bảo công tác nói trên các
Chi nhánh lâm khẩn phải bố trí cán bộ có năng lực nghiệp vụ kỹ thuật chuyên
trách làm công tác này. Quy định chế độ công tác làm rõ ràng trong việc thống
kê, kiểm tra, nghiệm thu để thường xuyên theo dõi và giúp cho Chi nhánh uốn nắn
kịp thời.
5. Bình công
chấm điểm và phân phối tiền lương cho mỗi người trong đơn vị:
Để thực hiện nguyên tắc phân phối
xã hội chủ nghĩa “hưởng thụ theo lao động” thì phải áp dụng phương pháp bình
công chấm điểm cho cá nhân trong mỗi ngày sản xuất: có như thế mới theo dõi được
năng suất lao động của mọi người mà phân phối tiền lương cho thích đáng. Phương
pháp bình công chấm điểm thì tùy theo tình hình mỗi đơn vị mà nghiên cứu hướng
dẫn áp dụng cho thích hợp nhưng tránh bình quân, đồng thời tránh lệ thuộc nhiều
vào cấp bực cá nhân quá. Người làm nhiều, làm giỏi, phải hưởng thụ nhiều hơn
người làm ít, làm kém, có như thế mới kích thích được mọi người phát huy nhiệt
tình lao động của mình để đưa năng suất lao động mỗi ngày được nâng cao.
Việc chia tiền là một vấn đề thiết
thân của mỗi người không thể chủ quan, coi thường, mà phải đặc biệt chú ý lãnh
đạo. Phải thực sự dựa vào công nhân, giáo dục cho công nhân quán triệt được
nguyên tắc nói trên để anh chị em tham gia góp ý kiến trong việc bình công chấm
điểm, nhưng đồng thời phải giáo dục đề cao ý thức giai cấp, để cho mỗi người tự
nguyện tự giác, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau đoàn kết sản xuất, tránh tình trạng
suy bì, kèn cựa thiếu phấn khởi, mất đoàn kết nội bộ ảnh hưởng đến sản xuất.
III. VIỆC THI
HÀNH CÁC CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN LĨNH LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Thông tư số 04/LĐTT ngày
11-02-1959 của Bộ Lao động có nói rõ, các Chi nhánh cần nghiên cứu để thi hành.
Thông tư này Bộ nói rõ hai trường hợp sau đây:
1. Trường hợp đơn vị nhận khoán
không đạt được mức khoán, thì cần phải tìm nguyên nhân, nếu do nguyên nhân
khách quan thì có thể xét châm chước, không nhất thiết mức đạt bao nhiêu thì trả
lương mặc dù không đạt được mức. Nếu do chủ quan của công nhân trong đơn vị
khoán gây ra thì không trả lương nhưng không để cho mỗi người công nhân sụt dưới
80% lương bản thân.
2. Trường hợp sản phẩm không
đúng quy cách nhưng còn dùng được (hàng xấu) thì tùy tình hình cụ thể nếu do
Chi nhánh hướng dẫn thiếu sót thì Chi nhánh phải trả đủ lương cho công nhân, nếu
do công nhân làm sai thì Chi nhánh trả lương theo một đơn vị thấp hơn giá chung
đã quy định. Nếu sản phẩm quá xấu, trả lương thấp quá 80% lương cấp bực, thì
Chi nhánh châm chước có thể nâng lên cho đủ 80% lương cấp bực của mỗi người.
3. Trường hợp mất dụng cụ, hư hỏng
ô-tô, máy kéo, trâu, voi què hoặc chết, nếu nguyên nhân do công nhân sử dụng bừa,
không chăm sóc bảo quản tốt thì nguyên nhân tắc là đơn vị nhận khoán phải bồi
thường, bồi thường bao nhiêu do hội đồng định giá quyết định. Nhưng trường hợp
số tiền bồi thường đó bằng 80%, lương cấp bậc trở lên của toàn đơn vị nhận
khoán, thì phải lập biên bản báo cáo về Bộ giải quyết. Trong khi chờ Bộ giải
quyết thì Chi nhánh vẫn phải tạm thời trả 80% lương bản thân cho mỗi người để
anh chị em tiếp tục sản xuất, khi kết luận bồi thường xe thanh toán sau.
IV. ĐIỀU KIỆN
CHUẨN BỊ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Trong nghị quyết của hội nghị kiểm
điểm việc thi hành Nghị quyết của Trung ương Đảng về vấn đề trả lương theo sản
phẩm của Bộ từ ngày 21-02-1959 có đặt nhiệm vụ cho các Chi nhánh lâm khẩn là “kiểm
điểm rút kinh nghiệm củng cố và mở rộng chế độ lương theo sản phẩm của chi
nhánh Nghệ An. Đồng thời áp dụng từng bước vững chắc chế độ lương theo sản phẩm
ở các Chi nhánh Lâm khẩn khác”.
Chế độ lương theo sản phẩm có
nhiều ưu điểm, nhưng phải phù hợp với đặc điểm yêu cầu sản xuất và điều kiện cụ
thể nhất định. Có 2 điều kiện chính:
- Tổ chức sản xuất tương đối ổn
định và sản xuất yêu cầu tăng số lượng hoặc rút ngắn thời gian để hoàn thành vượt
mức kế hoạch.
- Tính chất sản xuất có thể định
mức và theo dõi được số lượng và chất lượng sản phẩm.
Thiếu một trong hai điều kiện
căn bản trên thì không thi hành được chế độ lương theo sản phẩm. Nhưng có điều
kiện đó chưa đủ mà cần phải có sự chuẩn bị chu đáo về tư tưởng, tổ chức và định
mức thì mới thực hiện lương theo sản phẩm được tốt.
Nội dung chuẩn bị trong Thông tư
số 04/LĐTT ngày 11-02-1959. Bộ Lao động đã nói rõ; Thông tư này chỉ nhấn mạnh
việc chuẩn bị tư tưởng và giáo dục chính sách. Bản thân chế độ lương theo sản phẩm
là tiến bộ nhưng cũng còn những nhược điểm, nếu không chú trọng giáo dục chính
sách, làm cho mọi người quán triệt được ý nghĩa mục đích yêu cầu của nó thì dễ
khiến cho công nhân nặng về lợi ích trước mắt, ít quan tâm đến lợi ích lâu dài,
nặng về lợi ích cá nhân không quan tâm đến lợi ích xã hội. Cần nhấn mạnh mục
đích chủ yếu của chế độ lương theo sản phẩm là nhằm nâng cao năng suất lao động,
hạ giá thành phát triển sản xuất trên cơ sở đó thu nhập của mọi người công nhân
được tăng lên một cách hợp lý. Vì vậy chế độ lương theo sản phẩm kết hợp được
chặt chẽ lợi ích cá nhân với lợi ích chung. Lương theo sản phẩm là một công tác
quan trọng trong việc lãnh đạo sản xuất, quản lý xí nghiệp, cán bộ công nhân
thông qua việc thi hành chế độ lương theo sản phẩm mà thực hiện một phần quyền
dân chủ quản lý xí nghiệp của mình. Cũng thông qua giáo dục chính sách lương
theo sản phẩm mà đề cao hơn nữa ý thức chủ nhân, tinh thần trách nhiệm đối với
nhiệm vụ đấu tranh thống nhất nước nhà ra sức thi đua “làm nhiều nhanh, tốt, rẻ,
đảm bảo an toàn lao động” hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1959 và 3
năm.
Đi đôi với việc chuẩn bị về tư
tưởng phải chú trọng chuẩn bị về tổ chức. Để đảm bảo thực hiện tốt chế độ lương
theo sản phẩm cần phải có sự lãnh đạo thống nhất cho nên cần phải có ban lãnh đạo
do quản đốc hoặc phó quản đốc trực tiếp phụ trách dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy
chi nhánh. Ngoài ra cần phải bố trí cán bộ chuyên trách theo dõi thống kê, hướng
dẫn kỹ thuật, giúp đỡ cho công nhân đạt mức và vượt mức trung bình tiên tiến.
Việc thực hiện và mở rộng dần chế
độ lương theo sản phẩm có một ý nghĩa quan trọng về kinh tế, chính trị, đặc biệt
là năm 1959 là năm “bản lề” của kế hoạch 3 năm. Chế độ lương theo sản phẩm quán
triệt được nguyên tắc “vì lợi ích vật chất mà khuyến khích đông đảo quần chúng
công nhân viên chức một cách sáng tạo”, do đó làm động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc
phát triển sản xuất, hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1959 và 3 năm.
Nhưng thực hiện chế độ lương
theo sản phẩm là công tác có nhiều khó khăn và phức tạp. Các Chi nhánh cần phải
quan tâm đầy đủ, tập trung lãnh đạo, động viên cán bộ công nhân tích cực phát
huy thuận lợi khắc phục khó khăn để mở rộng chế độ lương theo sản phẩm cho tốt.
Nhưng phải nắm vững phương châm. Tiến hành thí điểm và mở rộng chế độ trả lương
theo sản phẩm một cách tích cực và phải làm từng bước vững chắc, có trọng tâm,
có lãnh đạo chặt chẽ.
Căn cứ Thông tư số 04/LĐTT ngày
11-02-1959 của Bộ Lao động và Thông tư này, Cục Lâm nghiệp có kế hoạch hướng dẫn
cụ thể cho các Chi nhánh thực hiện. Cục Lâm nghiệp phải cử cán bộ chuyên trách
theo dõi nắm tình hình giúp cho Cục, Bộ phát hiện những khó khăn để kịp thời giải
quyết.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG LÂM
THỨ TRƯỞNG
Lê Duy Trinh
|