BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
18-LĐ-TT
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 12 năm 1963
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG TẬP
THỂ Ở CÁC XÍ NGHIỆP NHÀ NƯỚC
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi:
Đồng kính gửi:
|
-Các bộ, các cơ
quan ngang bộ,
-Các
tổng cục trực thuộc hội đồng chính phủ
-Các
ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
-Các
sở, ty, phòng lao động
-Tổng
công đoàn việt-nam
-Liên
hiệp công đoàn các tỉnh, thành.
|
Ngày 21 tháng 11 năm 1963, Hội đồng
Chính phủ đã ra Nghị định số 172-CP, ban hành điều lệ tạm thời về chế độ ký kết
hợp đồng tập thể ở các xí nghiệp Nhà nước. Nay Bộ Lao động sau khi đã thống nhất
ý kiến với Tổng Công đoàn Việt-nam ra thông tư này nhằm giải thích và hướng dẫn
thi hành điều lệ trên.
I. Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCH
Điều lệ tạm thời quy định chế độ
ký kết hợp đồng tập thể ở các xí nghiệp Nhà nước được ban hành là nhằm đáp ứng
yêu cầu phát huy cao độ tinh thần làm chủ tập thể của toàn thể cán bộ, công
nhân, viên chức trong các xí nghiệp; củng cố và tăng cường mối quan hệ hợp tác
đồng chí giữa giám đốc xí nghiệp với công nhân, viên chức để nâng cao hơn nữa
tinh thần trách nhiệm và ý thức làm chủ của cả hai bên trong việc đẩy mạnh sản
xuất hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước và cải thiện đời sống.
Miền Bắc nước ta đã bước vào
giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa làm
nhiệm vụ trung tâm và đang thực hiện kế hoạch hóa 5 năm lần thứ nhất. Một trong
những biện pháp quan trọng để thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nói
trên ở các xí nghiệp là ký kết hợp đồng tập thể, trong đó giám đốc và công
nhân, viên chức cùng nhau cam kết thực hiện đầu đủ nhiệm vụ của mình, đồng thời
giúp đỡ giám sát và thúc đẩy lẫn nhau đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa cho công nhân, viên chức.
Thông qua việc ký kết hợp đồng tập
thể, tư tưởng quần chúng sẽ được tiếp tục phát động lên một bước mới, sẽ nâng
cao thêm ý thức trách nhiệm góp phần tăng cường và cải tiến công tác quản lý
kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu trong
các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước. Như vậy quá trình trưởng thành về chính trị của
giai cấp công nhân, anh chị em còn có thêm điều kiện để biểu hiện cụ thể tính tổ
chức, tính kỷ luật và tính sáng tạo của mình trong việc nâng cao kinh tế, thực
hiện vượt mức kế hoạch Nhà nước.
Tóm lại, ý nghĩa và mục đích của
hợp đồng tập thể rất lớn, chúng ta cần làm cho mọi người trong xí nghiệp hiểu
thật đầy đủ để hăng hái thực hiện hợp đồng một các nghiêm chỉnh.
II. NGUYÊN TẮC KÝ KẾT VÀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG TẬP THỂ
1. Nguyên tắc ký kết: Trong
điều lệ tạm thời đã quy định hợp đồng tập thể được ký kết theo các nguyên tắc:
a) “Hợp đồng tập thể được ký kết
trên tinh thần tự giác và hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa giám đốc xí nghiệp và
Ban chấp hành công đoàn, sau khi đã đưa ra bàn bạc rộng rãi trong công nhân,
viên chức”. Như thế, muốn ký kết hợp đồng tập thể thì giám đốc xí nghiệp và Ban
chấp hành công đoàn trước hết phải có nhận thức đúng về lợi ích và sự cần thiết
phải ký kết mà tự giác cùng nhau xây dựng và thực hiện hợp đồng tập thể. Hợp đồng
tập thể do toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức trong xí nghiệp thực hiện, nên
trước khi hai bên ký kết chính thức, phải đưa ra lấy ý kiến rộng rãi trong công
nhân, viên chức để mọi người góp ý kiến và có trách nhiệm thực hiện sau khi hợp
đồng đã được ký kết.
b) “Nội dung hợp đồng tập thể phải
cụ thể, nhằm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước và bảo đảm mọi
quyền lợi của công nhân, viên chức đã được quy định trong luật lệ hiện hành”. Mục
đích của hợp đồng tập thể là nhằm động viên mọi khả năng tiềm tàng của xí nghiệp,
thi đua thực hiện kế hoạch tới mức cao nhất, nên những điều mà hai bên cam kết
với nhau phải thật cụ thể và thiết thực. Nếu vấn đề nêu ra để thực hiện không cụ
thể thì sẽ không có căn cứ phấn đấu, và không thể kiểm điểm kết quả sau khi đã
thực hiện. Nội dung hợp đồng tập thể do giám đốc xí nghiệp và Ban chấp hành
công đoàn không những cam kết với nhau đảm bảo việc thực hiện hoàn thành hoặc
hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, mà còn cam kết với nhau đảm bảo mọi quyền
lợi chính đáng của công nhân, viên chức, chăm sóc đến đời sống của mọi người
trong xí nghiệp.
c) Sau khi hợp đồng tập thể đã
được đăng ký (do cấp có thẩm quyềt duyệt y), thì giám đốc và Ban chấp hành công
đoàn đều có trách nhiệm thi hành những điều đã cam kết. Việc nêu trách nhiệm
cho hai bên phải thực hiện những điều đã cam kết thành nguyên tắc, có nghĩa là
sau khi hợp đồng tập thể đã được duyệt y, hai bên đều có trách nhiệm về pháp lý
trong việc thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng tập thể của một xí nghiệp
phải phản ánh được dự hoạt động toàn diện của xí nghiệp. Nhưng do tình hình các
xí nghiệp của ta còn có những điều kiện không giống nhau, đặc biệt đối với những
xí nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và kinh doanh thì cũng có thể
ký một số mặt, ví dụ: các chi tiêu về sản xuất, một số mặt, ví dụ: các chi tiêu
về sản xuất, một vài chi tiêu chủ yếu về cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện
đời sống. Song dù hợp đồng tập thể chỉ cam kết một số vấn đề cũng phải ký cả
hai mặt: sản xuất và cải thiệt đời sống. Có như vậy mới làm cho công nhân, viên
chức nhận thấy lợi ích của Nhà nước với lợi ích của công nhân là nhất trí mà phấn
khởi thực hiện. (Trong khi thực hiện một số mặt như trên cần cố gắng tạo điều
kiện để kỳ kế hoạch tới có thể ký được hợp đồng tập thể toàn diện).
2. Nội dung hợp đồng tập thể:
Những mục đích của nội dung hợp
đồng tập thể phải căn cứ vào những quy định của bản điều lệ tạm thời mà thực hiện.
Tuy vậy, Bộ thấy cần giải thích thêm một số vấn đề để khi thực hiện được thống
nhất.
a) Về trách nhiệm của giám đốc,
điều lệ tạm thời quy định: “Phấn đấu để thực hiện đúng kế hoạch, cung cấp đủ
máy móc, dụng cụ, nguyên liệu, vật liệu theo đúng kế hoạch Nhà nước, bảo đảm sản
xuất liên tục”. Nói chung giám đốc có trách nhiệm phải đảm bảo đầy đủ máy móc,
dụng cụ, nguyên liệu, vật liệu để công nhân sản xuất được liên tục. Nhưng hiện
nay, chúng ta đang ở bước đầu công nghiệp hóa còn có những khó khăn nhất định,
nên Chính phủ quy định cho giám đốc cam kết “phấn đầu để cung cấp đủ máy móc;
nguyên vật liệu…”nghĩa là giám đốc phải huy động hết khả năng của mình, cộng với
sức sáng tạo của quần chúng cố gắng đến độ cao nhất để ghi vào hợp đồng mức phấn
đấu. Tình hình máy móc, nguyên vật liệu, dụng cụ về tới sẽ còn có khó khăn, tuy
vậy chúng ta cần mạnh dạn ký kết hợp đồng để làm cơ sở vận đồng quần chúng công
nhân, viênchức cùng giám đốc giải quyết (kinh nghiệm vừa qua một số xí nghiệp
đã ký kết hợp đồng tập thể trong khi xí nghiệp vẫn có khó khăn về nguyên vật liệu,
nhưng sau khi ký kết đã phát động được quần chúng cùng giám đốc giải quyết có kết
quả tốt).
Còn về phía công đoàn cần thấy
rõ đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc giáo dục, động viên công nhân, viên
chức nâng cao tinh thần tự lực cánh sinh phấn đấu cùng giám đốc giải quyết tốt
vấn đề khó khăn về nguyên vật liệu, dụng cụ…chống tư tưởng chỉ biết đòi hỏi
giám đốc cung cấp mà không thấy trách nhiệm của mình phải gánh vác cùng giám đốc
xí nghiệp.
b) Đối với phong trào thi đua:
Giám đốc phải cùng công đoàn tổ chức, chỉ đạo phong trào thi đua, tổ chức theo
dõi, sơ kết, tổng kết thi đua và biểu dương, khen thưởng kịp thời những đơn vị,
cá nhân có thành tích. Thi đua là phong trào của quần chúng, nhưng giám đốc muốn
lãnh đạo sản xuất tốt phải cùng công đoàn tổ chức và chỉ đạo phong trào, cụ thể
giám đốc cần xét duyệt kịp thời những chỉ tiêu thi đua của công nhân, giải quyết
những khó khăn về biện pháp kỹ thuật và tạo mọi điều kiện để công nhân thực hiện
được những chỉ tiêu ấy. Ngoài ra giám đốc cần giải quyết tốt các chính sách, chế
độ, giải quyết kịp thời những khó khăn về kỹ thuật, về nguyên liệu, dụng cụ,
máy móc…cũng là trực tiếp thúc đẩy phong trào thi đua phát triển.
Về phía công đoàn, trên cơ sở những
chi tiêu đã ký kết trong hợp đồng tập thể, phải theo dõi, hướng dẫn phong trào
một cách thật chặt chẽ. Cùng giám đốc giải quyết tốt những khó khăn trong quá
trình sản xuất tạo cho công nhân đủ điều kiện thuận lợi thực hiện đầy đủ những
chỉ tiêu đã ký kết.
c) Về nhiệm vụ nâng cao trình độ
chính trị, văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ cho công nhân, viên chức: Việc bồi dưỡng
chính trị, kỹ thuật nghiệp vụ và văn hóa cho quần chúng cũng do giám đốc và
công đoàn cùng làm (theo Nghị quyết số 76-NQ-TƯ ngày 16-4-1963 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng).
Riêng về mặt bồi dưỡng kỹ thuật
và nghiệp vụ theo chỉ tiêu của kế hoạch, giám đốc có trách nhiệm cung cấp trường
sở, tài liệu, giảng viên và những điều kiện khác…đồng thời phải tạo điều kiện
cho công nhân, viên chức học tập được liên tục, đảm bảo chương trình, đảm bảo
chất lượng.
Công đoàn xí nghiệp chịu trách
nhiệm về phong trào học tập, phải tổ chức, động viên quần chúng đi học đảm bảo
chương trình với chất lượng cao (giám sát việc thực hiện chương trình và chất
lượng học tập); chăm lo đến những hoạt động văn hóa quần chúng một các thiết thực
(tránh hình thức bầy biện, tiêu tốn một các lãng phí) như văn nghệ, thể dục, thể
thao, làm cho đời sống xí nghiệp được ngày càng vui tươi và phấn khởi.
Việc học tập chính trị, văn hóa,
kỹ thuật, nghiệp vụ và công tác văn hóa quần chúng phải có chương trình từng việc,
định thời gian phải hoàn thành, ghi vào hợp đồng để phấn đấu cụ thể.
d) Về đời sống vật chất của công
nhân, viên chức: Trong sản xuất đã đề ra những chỉ tiêu phấn đấu vượt mức kế hoạch,
mặt khác, giám đốc phải cùng công đoàn bàn bạc đề ra những chỉ tiêu về cải thiện
đời sống (dựa vào các chế độ, chính sách của Nhà nước và tính toán sử dụng quỹ
xí nghiệp v .v… )
Việc cải thiện điều kiện làm việc
và phòng hộ lao động, giám đốc cùng công đoàn dự thảo kế hoạch theo chế độ hiện
hành, đưa ra lấy ý kiến quần chúng rồi ghi vào hợp đồng để thực hiện. Phải phấn
đấu thực hiện cho được phương châm “có kế hoạch sản xuất phải có kế hoạch bảo hộ
lao động”.
III. THỦ TỤC KÝ KẾT VÀ ĐĂNG KÝ
Điều lệ tạm thời quy định “mỗi
năm hoặc mỗi kế hoạch sản xuất, giám đốc xí nghiệp và Ban chấp hành công đoàn
căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và tình hình cụ thể của đơn vị mà dự thảo
một bản hợp đồng cho năm tới hoặc cho kế hoạch sản xuất sắp tới”. Nói chung hợp
đồng tập thể sẽ ký và thực hiện trong thời gian một năm ở những xí nghiệp có kế
hoạch hàng năm. Đối với những xí nghiệp kế hoạch theo đợt, theo vụ, theo công
trình như sửa chữa, xây dựng, vận tải, nông trường, lâm trường v .v… có thể ký
hợp đồng theo thời hạn của đợt, vụ hoặc công trình.
Những vấn đề đưa ra ký kết phải
do yêu cầu thực tế của sản xuất và đời sống, và phải dựa vào đặc điểm của từng
xí nghiệp mà định nội dung mức độ và thời gian hoàn thành.
Khi xây dựng kế hoạch sản xuất
phải đồng thời xây dựng hợp đồng tập thể, để khi kế hoạch sản xuất được duyệt,
kịp thời dùng hợp đồng tập thể làm biện pháp động viên quần chúng thực hiện kế
hoạch.
Dưới đây là trình tự xây dựng một
hợp đồng tập thể:
1. Xây dựng dự thảo hợp đồng:
Việc xây dựng dự thảo hợp đồng tập
thể do giám đốc và đại diện Ban chấp hành công đoàn làm. Để giúp giám đốc và
Ban chấp hành công đoàn, xí nghiệp cần lập các tiểu ban giúp việc. Số tiểu ban
nhiều hay ít là do yêu cầu của từng xí nghiệp. Các tiểu ban sẽ giúp giám đốc và
Ban chấp hành công đoàn nghiên cứu từng vấn đề, hoặc một số vấn đề để có liên
quan với nhau, cần đề ra để ký kết trong hợp đồng tập thể.
Thành phần và số người tham gia
từng tiểu ban cũng tùy theo khối lượng và tính chất công việc được giao mà định
(từng tiểu ban cần có cán bộ chuyên môn, cán bộ công đoàn và có công nhân hoặc
viên chức am hiểu vấn đề tham gia). Còn nội dung của vấn đề nghiên cứu nếu có
quan hệ nhiều đến chuyên môn, hay công tác công đoàn thì sẽ cử cán bộ phụ trách
thích hợp, thí dụ: tiểu ban xây dựng chương trình hợp lý hóa sản xuất, cải tiến
kỹ thuật do phó giám đốc kỹ thuật làm trưởng tiểu ban; tiểu ban nghiên cứu việc
sử dụng quỹ phúc lợi do đại diện Ban chấp hành công đoàn làm trưởng tiểu ban;
tiểu ban bảo hộ lao động do cán bộ phụ trách bảo hộ lao động phụ trách v .v…
Những xí nghiệp đã có các tiểu
ban mà hoạt động tương đối đã có nề nếp cần củng cố và tăng cường, giao nhiệm vụ
để các tiểu ban hoạt động không cần lập tiểu ban khác nữa.
Sau khi các tiểu ban đã nghiên cứu
và xây dựng xong những vấn đề cần đưa vào hợp đồng tập thể, các tiểu ban vẫn được
duy trì để làm nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện những điều đã được ký kết.
Xây dựng hợp đồng tập thể là cuộc
vận động rộng rãi quần chúng công nhân, viên chức đóng góp biện pháp cụ thể để
thực hiện kế hoạch Nhà nước, nên dự thảo hợp đồng tập thể phải đưa ra toàn thể
công nhân, viên chức thảo luận. Những ý kiến đề xuất của công nhân, viên chức
phải được nghiên cứu và bổ sung vào dự thảo. Nếu ý kiến đề xuất không được ghi
vào hợp đồng phải báo cáo lại với công nhân, viên chức.
Dự thảo hợp đồng tập thể sau khi
đã lấy ý kiến quần chúng, được chỉnh lý, đưa ra hội nghị toàn thể công nhân,
viên chức hoặc hội nghị đại biểu công nhân, viên chức thông qua và ký kết tại hội
nghị
2. Phụ lục của hợp đồng tập
thể:
Để tránh cho những bản hợp đồng
không phải ghi những điều quá chi tiết làm cho hợp đồng dài, nặng nề thì khi tiến
hành ký kết hợp đồng xí nghiệp cần lập những bản phụ lục của hợp đồng. Những
người có trách nhiệm thực hiện phải ký vào bản phụ lục, và những phụ lục kèm
theo hợp đồng cũng có giá trị pháp lý.
Phụ lục ghi rõ từng loại công việc
phải làm, thời gian hoàn thành, bộ phận hay cá nhân nào phụ trách để giúp giám
đốc, Ban chấp hành công đoàn và toàn thể công nhân, viên chức theo dõi và đôn đốc
nhau thực hiện. Phụ lục có thể chia thành bốn hoặc năm loại tùy theo sự cần thiết
của mỗi xí nghiệp.
MẪU PHỤ LỤC
- Phụ lục
số 1. Kế hoạch thực hiện các biện pháp kỹ thuật.
Số thứ tự
|
Các biện pháp
|
Thời hạn làm
xong
|
Bộ phận hoặc
người chịu trách nhiệm thực hiện
|
1
|
Tự động hóa bộ phận hàn điện.
|
Hết quý III-1963
|
Phòng kỹ thuật và xưởng cơ khí
|
2
|
Cơ khí hóa bộ phận vận chuyển
v .v…
|
Hết tháng 11-1963
|
Xưởng cơ khí
|
Trưởng phòng kỹ
thuật ký
Quản đốc xưởng
cơ khí
|
Giám đốc xí
nghiệp ký
TM.Ban chấp
hành công đoàn ký
|
- Phụ lục
số 2: kế hoạch cải thiện điều kiện làm việc và phòng hộ lao động.
- Phụ lục
số 3: kế hoạch thực hiện các chỉ tiêu lao động, các chế độ tiền lương và thể lệ
lao động.
- Phụ lục
số 4: kế hoạch thực hiện các biện pháp về cải thiện sinh hoạt và văn hóa quần
chúng.
(Các phụ lục 2,3,4 cũng làm theo
mẫu của phụ lục số 1).
Những xí nghiệp ký hợp đồng tập
thể toàn diện cần lập thêm những bản phụ lục. Đối với những xí nghiệp chưa đủ
điều kiện ký hợp đồng toàn diện, mà chỉ ký được một số mặt, không có phụ lục
thì những điểm nào đưa ra ký cũng phải ghi cụ thể như cách ghi trong một bản phụ
lục.
3. Đăng ký hợp đồng tập thể:
Sau khi hợp đồng tập thể đã ký kết,
giám đốc và đại diện Ban chấp hành công đoàn phải gửi hợp đồng lên Ủy ban hành
chính tỉnh, hoặc thành phố trực thuộc trung ương nơi có xí nghiệp để xin đăng
ký. Mục đích đăng ký và để chính quyền địa phương duyệt lại toàn bộ hợp đồng nhằm
giúp hai bên đã ký kết thực hiện hợp đồng đẩy mạnh việc hoàn thành các chỉ tiêu
của kế hoạch sản xuất cũng như cải thiên đời sống, đồng thời còn nhằm bảo đảm
đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ.
Tất cả các xí nghiệp địa phương,
các xí nghiệp do trung ương quản lý cũng đều đăng ký ở Ủy ban hành chính tỉnh
hoặc thành phố trực thuộc trung ương. Riêng đối với những xí nghiệp do trung
ương quản lý, trước khi xin đăng ký ở ủy ban hành chính, xí nghiệp cũng có thể
hỏi ý kiến bộ chủ quản về những chỉ tiêu kế hoạch, chỉ tiêu lao động, điều kiện
nguyên vật liệu v .v… để bộ chủ quản tham gia giúp xí nghiệp thực hiện tốt hợp
đồng.
Đối với một số đơn vị thụôc
trung ương quản lý mà tính chất công tác lưu động như: ngành đường sắt, địa chất
v .v…, không có điều kiện liên hệ thường xuyên với ủy ban hành chính tỉnh
địa phương thì hợp đồng tập thể của những đơn vị này do bộ chủ quản đăng ký,
duyệt y.
Khi xét duyệt và đăng ký các hợp
đồng tập thể, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố hoặc bộ chủ quản phải thống nhất
với Ban chấp hành công đoàn cùng cấp (ví dụ: Ủy ban hành chính tỉnh, thành phải
thống nhất với Liên hiệp công đoàn cùng cấp, bộ chủ quản khi duyệt phải thống
nhất với Ban chấp hành công đoàn ngành dọc).
Theo quyền hạn và nhiệm vụ của
mình, các sở, ty, phòng lao động, các sở, ty thương nghiệp, công nghiệp, giao
thông vận tải, kiến trúc v .v… có trách nhiệm giúp ủy ban hành chính thẩm duyệt
các điều khoản của hợp đồng (các sở, ty, phòng lao động đi sâu vào việc thẩm
xét về chế độ ký kết hợp đồng tập thể, các thể lệ chế độ lao động, tiền lương đối
với tất cả các loại xí nghiệp trung ương và địa phương, các sở, ty công nghiệp,
thương nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc thẩm xét về mặt chi tiêu kế hoạch,
biện pháp thực hiện kế hoạch, vấn đề kỹ thuật v .v… đối với các xí nghiệp địa
phương).
Ủy ban hành chính hoặc bộ chủ quản
khi duyệt hợp đồng nếu thấy có những điểm trái với luật lệ lao động hoặc không
đảm bảo kế hoạch sản xuất, sẽ ghi ý kiến gửi trả lại cho xí nghiệp để yêu cầu sửa
lại.
Điều lệ tạm thời quy định “trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hợp đồng, Ủy ban hành chính địa phương hoặc bộ
chủ quản sẽ gửi trả lại cho đơn vị bản hợp đồng sau khi đã được xét duyệt và
đăng ký để thi hành hoặc sửa lại. Trường hợp Ủy ban hành chính địa phương cần hỏi
ý kiến bộ chủ quản của đơn vị; thời hạn này có thể tới 30 ngày”. Thời hạn xét
duyệt đã quy định như trên, nhưng Ủy ban hành chính hoặc bộ chủ quản cần tranh
thủ duyệt sớm không được để quá thời hạn, nếu duyệt được càng sớm ngày nào càng
hay để giúp cho xí nghiệp kịp thời phát động quần chúng thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng tập thể phải đăng ký
năm bản và sẽ gửi:
- 1 bản cho Ủy ban hành chính tỉnh
hay thành phố (cơ quan đăng ký).
- 1 bản cho Liên hiệp công đoàn
- 1 bản cho giám đốc xí nghiệp
- 1 bản cho Ban chấp hành công
đoàn xí nghiệp
- 1 bản cho hộ chủ quản (nếu là
xí nghiệp do trung ương quản lý, nhưng nếu hợp đồng tập thể do bộ chủ quản xét
duyệt và đăng ký thì gửi lại cho Ủy ban hành chính địa phương một bản và gửi
công đoàn dọc trung ương một bản mà không phải gửi tới Liên hiệp công đoàn tỉnh
nữa).
Hợp đồng tập thể sau khi đã được
đăng ký phải phổ biến rộng rãi cho tất cả công nhân, viên chức do đó cần phải
sao thành nhiều bản và niêm yết ở các tổ sản xuất và những nơi công cộng trong
xí nghiệp.
4. Điều chỉnh hợp đồng tập thể:
Những hợp đồng tập thể đang thi
hành, nếu có tình hình đột biến xẩy ra mà phải điều chỉnh một số điểm đã cam kết
thì giám đốc xí nghiệp và Ban chấp hành công đoàn phải cùng nhau thỏa thuận
tiến hành ký kết một bản điều chỉnh và đăng ký theo như thủ tục đăng ký bản hợp
đồng chính thức. Sau khi đăng ký sẽ báo cáo cho công nhân, viên chức biết rõ việc
điều chỉnh hợp đồng. Còn những hợp đồng tập thể có nhiều vấn đề cần thay đổi
thì phải ký kết lại và phải được hội nghị công nhân, viên chức hoặc đại biểu hội
nghị công nhân, viên chức tham gia. (Ví dụ: một xí nghiệp đang thực hiện hợp đồng
tập thể được lệnh của trên phải điều chỉnh chi tiêu kế hoạch lên hoặc xuống;
khi chi tiêu kế hoạch sản xuất phải tăng lên hoặc hạ xuống thì một loại biện
pháp trong hợp đồng phải thay đổi nên phải sửa lại hợp đồng).
5. Hợp đồng tập thể của phân
xưởng:
Để đảm bảo cho hợp đồng chung của
toàn xí nghiệp thực hiện được đầy đủ, các phân xưởng có thể ký kết hợp đồng tập
thể giữa quản đốc phân xưởng và Ban chấp hành công đoàn phân xưởng. Nội dung hợp
đồng tập thể của phân xưởng nhằm cụ thể hóa những chỉ tiêu, biện pháp đã ghi
trong hợp đồng chung của toàn xí nghiệp.
Hợp đồng tập thể của phân xưởng
có thể đề ra chỉ tiêu sản xuất cao hơn chỉ tiêu của xí nghiệp giao, nhưng không
thể trái với hợp đồng tập thể chung của toàn xí nghiệp.
Sau khi hợp đồng tập thể của
phân xưởng đã ký kết, giám đốc và Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp cùng chịu
trách nhiệm duyệt nội dung hợp đồng (không phải đăng ký như hợp đồng tập thể của
toàn xí nghiệp). Khi hợp đồng đã được duyệt, quản đốc và Ban chấp hành công
đoàn phân xưởng chịu trách nhiệm tổ chức và động viên công nhân, viên chức toàn
phân xưởng thực hiện hợp đồng. Quản đốc và Ban chấp hành công đoàn phân xưởng
chịu trách nhiệm với giám đốc và Ban chấp hành xí nghiệp về việc thực hiện hợp
đồng tập thể của phân xưởng.
Sau khi hợp đồng tập thể của
phân xưởng đã được duyệt, quản đốc và Ban chấp hành công đoàn cần có kế hoạch
cho các tổ sản xuất làm giao ước thi đua thực hiện kế hoạch của tổ, có sơ kết,
tổng kết việc thực hiện giao ước, có động viên, khen thưởng kịp thời để củng cố
và phát triển phong trào.
IV. HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TẬP THỂ
Điều lệ tạm thời quy định “hợp đồng
tập thể có hiệu lực từ ngày đăng ký”, nghĩa là sau khi được Ủy ban hành chính
hoặc Bộ chủ quan duyệt thì hợp đồng mới có hiệu lực.
Điều 12 của điều lệ tạm thời còn
quy định: “tất cả công nhân, viên chức trong và ngoài biên chế, thường xuyên và
tạm thời (lực lượng làm lâu dài và lực lượng làm tạm thời) ở các xí nghiệp Nhà
nước, đều có trách nhiệm thực hiện bản hợp đồng ký kết giữa giám đốc và Ban chấp
hành công đoàn”. Ký kết hợp đồng tập thể là nguyện vọng chính đáng của mọi công
nhân, viên chức, đại diện là Ban chấp hành công đoàn ký kết với giám đốc xí
nghiệp những yêu cầu thiết thực nhằm đảm bảo tốt việc thực hiện kế hoạch Nhà nước
và kế hoạch cải thiện đời sống, nên tất cả những người làm việc trong xí nghiệp
đều có trách nhiệm thực hiện hợp đồng. Cụ thể là thực hiện đầy đủ kế hoạch sản
xuất và mọi nhiệm vụ khác do tổ sản xuất đã căn cứ vào hợp đồng tập thể giao
cho mỗi người. Đối với những công nhân, viên chức làm việc tạm thời theo hợp đồng
lao động thì nhiệm vụ thực hiện hợp đồng tập thể là nhiệm vụ đã ghi trong hợp đồng
lao động.
Để đảm bảo cho hợp đồng thực hiện
được nghiêm túc, giám đốc xí nghiệp và Ban chấp hành công đoàn phải thường kỳ
cùng nhau kiểm điểm việc thực hiện hợp đồng tập thể (lồng vào việc kiểm điểm thực
hiện kế hoạch) và báo cáo kết quả trước hội nghị công nhân, viên chức. Nếu có
những điều chưa thực hiện được phải nói rõ lý do để hội nghị công nhân, viên chức
thảo luận đề xuất biện pháp khắc phục và ấn định thời gian hoàn thành.
Sau khi hợp đồng tập thể được ký
kết, việc theo dõi và đôn đốc thực hiện là việc hết sức cần thiết không thể thiếu,
các xí nghiệp cần cử một bộ phận thường trực gồm: đại diện cho giám đốc và đại
diện cho Ban chấp hành công đoàn để theo dõi thực hiện hợp đồng (về chính quyềt
nên cử đồng chí phó giám đốc phụ trách kỹ thuật và trưởng phòng kế hoạch, về
phía công đoàn nên cử đồng chí phó thư ký và đồng chí phụ trách đời sống). Kinh
nghiệm qua các đợt thí điểm thì những hợp đồng tập thể nào mà không cử bộ phận
thường trực không có người đôn đốc theo dõi thì thực hiện ít kết quả, thậm chí
có hợp đồng trở thành hình thức. Ngược lại, những xí nghiệp lập ra bộ phận thường
trựcvà được Đảng ủy lãnh đạo làm trọng tài thì hợp đồng thực hiện được tốt.
Ở những địa phương có xí nghiệp
ký kết hợp đồng tập thể thì các cơ quan lao động và Liên hiệp công đoàn phải có
kế hoạch kiểm tra, giúp đỡ, đôn đốc hợp đồng thực hiện được kết quả. Từng thời
kỳ, cơ quan lao động phối hợp với Liên hiệp công đoàn giúp Ủy ban hành chính
đúc rút kinh nghiệm việc ký kết và thực hiện hợp đồng tập thể để phổ biến trong
địa phương và báo cáo lên cấp trên.
Ở trung ương thì các bộ chủ quản
giao việc theo dõi chung việc thực hiện chế độ ký kết hợp đồng tập thể cho
Chánh Văn phòng bộ và Vụ trưởng vụ lao động tiền lương, ngoài ra các bộ phận
khác của bộ cũng chịu trách nhiệm theo dõi từng phần hành của mình; những xí
nghiệp đã ký kết hợp đồng tập thể mà thuộc vào những đơn vị không có điều kiện
liên lạc để đăng ký ở Ủy ban hành chính địa phương thì do Chánh văn phòng bộ và
Vụ trưởng vụ lao động tiền lương cùng với công đoàn các ngành dọc đôn đốc, theo
dõi, đúc rút kinh nghiệm việc ký kết và thực hiện chế độ ký kết hợp đồng tập thể.
Trong quá trình thực hiện chế độ
ký kết hợp đồng tập thể, giữa giám đốc xí nghiệp và Ban chấp hành công đoàn có
những sự bất đồng ý kiến thì hai bên phải báo cáo lên cơ quan đăng ký (Ủy ban
hành chính hoặc bộ chủ quản) và công đoàn cùng cấp để xin giải quyết. Để giúp Ủy
ban hành chính giải quyết được nhanh chóng; ủy ban có thể ủy nhiệm cho cơ quan
lao động và các cơ quan chủ quản các xí nghiệp địa phương nghiên cứu giải quyết
những ý kiến bất đồng giữa hai bên. Nếu các cơ quan được Ủy ban hành chính ủy
nhiệm không giải quyết được thì báo cáo để Ủy ban hành chính quyết định.
Hợp đồng tập thể sau khi đã đăng
ký, hai bên giám đốc và Ban chấp hành công đoàn cần phải nghiêm chỉnh thực hiện,
nếu thiếu tinh thần trách nhiệm mà không làm đúng những điều đã cam kết sẽ bị
thi hành kỷ luật tùy theo lỗi nặng hay nhẹ (không thực hiện đầy đủ những điều
đã ghi và hợp đồng mà không có lý do chính đáng thì coi là thiếu tinh thần
trách nhiệm. Nếu đã tận dụng hết khả năng của mình mà vẫn không thưc hiện được
và được tập thể xác nhận thì coi là do nguyên nhân khác quan). Ủy ban hành
chính địa phương quyết định kỷ luật đối với những cán bộ thuộc ủy ban quản lý
còn đối với những cán bộ do cấp trên quản lý thì ủy ban xét và đề nghị kỷ luật.
Liên hiệp công đoàn tỉnh hay thành phố trực thuộc trung ương quyết định kỷ luật
đối với Ban chấp hành công đoàn cơ sở. Nếu có trường hợp thiếu tinh thần trách
nhiệm trong việc thi hành hợp đồng tập thể mà gây ra thiệt hại lớn đến tài sản
Nhà nước hoặc tính mạng của công nhân, viên chức thì có thể bị truy tố trước
tòa án.
V. PHẠM VI THI HÀNH
Chế độ ký kết hợp đồng tập thể
được áp dụng cho tất cả xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, đoàn
xe, cửa hàng, khách sạn…thuộc trung ương và địa phương kể cả xí nghiệp công tư
hợp doanh.
Những xí nghiệp có kế hoạch sản
xuất và công đoàn đã được củng cố, thì đó là những điều kiện để tiến hành ký kết
hợp đồng tập thể; khi tiến hành sẽ dựa vào bản kế hoạch hướng dẫn và tham khảo
hợp đồng mẫu kèm theo thông tư này.
Các bộ, các cơ quan ngang bộ,
các tổng cục trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh
trong khi thực hiện nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra, đúc rút kinh nghiệm, yêu cầu gửi
báo cáo thường kỳ về kết quả và kinh nghiệm thực hiện chế độ ký kết hợp đồng
tập thể cho Bộ Lao động và Tổng Công đoàn để phổ biến chung và báo cáo lên Phủ
Thủ tướng.
Chế độ ký kết hợp đồng tập thể
là chế độ mới, chúng ta còn ít kinh nghiệm, trong khi thực hiện nếu gặp mắc mứu
mong các ngành các cấp phản ánh kịp thời cho Bộ Lao động và Tổng Công đoàn biết
để cùng tham gia giải quyết.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|