BỘ
GIÁO DỤC
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
13-QC
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 07 năm 1958
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC SẮP XẾP CẤP BẬC CHO CÁN BỘ, GIÁO VIÊN VÀO
THANG LƯƠNG GIÁO DỤC 16 BẬC
Căn cứ nghị quyết Hội đồng
Chính phủ họp ngày 17, 18/3/1958 về việc cải tiến chế độ tiền lương và tăng
lương năm 1958, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 270-TTg ngày
30/5/1958 để thi hành đối với khu vực hành chính sự nghiệp từ 01/5/1958;
Bộ Nội vụ đã ra Thông tư số 46-NVCB ngày 03/7/1958 để hướng dẫn việc sắp xếp cấp
bậc cho cán bộ, công nhân viên, viên chức các cơ quan hành chính, sự nghiệp;
Trong Thông tư này Bộ hướng dẫn cụ thể việc sắp xếp cấp bậc cho cán bộ chuyên
môn ngành Giáo dục.
1) Thang
lương giáo dục:
Để cho thích hợp với tình hình tổ
chức hiện nay của ngành Giáo dục và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
cán bộ, giáo viên trong ngành, thang lương giáo dục trước 11 bậc nay mở rộng ra
16 bậc.
Khung bậc các loại giáo viên và
cán bộ được bố trí lại cho hợp lý hơn:
Khung giáo viên cấp I: từ bậc 1
đến bậc 9/16.
Khung giáo viên cấp II: từ bậc 5
đến bậc 11/16.
Khung giáo viên cấp III: từ bậc
12 đến bậc 13/16.
Tập sự trợ lý các trường:
Đại học : Bậc 6 và 7/16
Trợ lý và phụ giảng : từ bậc 8
đến bậc 13/16
Giảng viên và giáo sư : từ bậc
12 đến bậc 16/16.
Cán bộ Bình dân học vụ huyện,
ty: từ bậc 2 đến bậc 9/16.
Cán bộ Bình dân học vụ khu, nha:
từ bậc 3 đến bậc 11/16.
2) Khởi điểm
của mỗi cấp:
Cấp 1 - Bậc 2: Khởi điểm của
giáo viên đào tạo ra để dạy lớp 1, 2.
Bậc 3: Tốt nghiệp sư phạm sơ cấp
ra dạy toàn cấp 1.
Cấp 2 - Bậc 5: Tốt nghiệp trường
sư phạm trung cấp ra dạy toàn cấp 2.
Cấp 3 - Bậc 7: Trình độ văn hóa
lớp 10, học Đại học sư phạm ba năm và tốt nghiệp đại học, ra dạy toàn cấp 3.
Ở cấp 1 khi xếp vào bậc khởi điểm
phải qua thời gian tập sự một năm, cấp 2 và 3 thời gian tập sự là hai năm. Sau
thời gian tập sự sẽ xét để đưa lên bậc khởi điểm.
Trong thời gian tập sự giáo viên
được hưởng mức lương tương đương với bậc dưới khởi điểm một bậc.
3) Tiêu chuẩn
để xếp bậc:
Tiêu chuẩn chung để sắp xếp cho
giáo viên và cán bộ BDHV vẫn là “căn cứ vào chức vụ hiện tại xét đức tài mà xếp”.
Chức vụ hiện tại là cương vị
công tác, nhiệm vụ mà người giáo viên hiện đang đảm nhận.
Tài của người giáo viên thể hiện
trong việc thực hiện nhiệm vụ hiện nay tức là trong phương pháp, kinh nghiệm, kết
quả giảng dạy, khả năng giảng dạy, khả năng tổ chức và lãnh đạo việc học tập của
học sinh, thành tích cống hiến cho việc xây dựng nhà trường, xây dựng ngành.
Đức là phẩm chất chính trị của
người giáo viên, là lập trường tư tưởng thể hiện trong việc giảng dạy, “thực hiện
đúng đường lối, mục đích, phương châm giáo dục của Đảng và Chính phủ”, trong
thái độ công tác, trong tinh thần phục vụ, trong tinh thần chấp hành chính
sách, ý thức tổ chức và kỷ luật, trong tác phong liên hệ với quần chúng nhân
dân và học sinh, trong tinh thần tham gia vào các đoàn thể như công đoàn, Đoàn
thanh niên lao động.
Đức, tài của người giáo viên thể
hiện trên một quá trình công tác nhất định. Ngành giáo dục là một ngành chuyên
môn, sự tích lũy kinh nghiệm, quá trình được rèn luyện trong ngành là một yếu tố
cần phải tính đến khi xét đức, tài của thầy giáo. Cho nên giáo viên mới ra trường
5, 3 năm chưa nên xếp vào những bậc trên của khung giáo viên cấp ấy vì lập trường
tư tưởng chưa được thử thách lâu dài, thành tích công lao với ngành, kinh nghiệm
tích lũy chưa được là bao nhiêu.
Điểm này không trái với nguyên tắc
phân phối theo lao động vì lao động của người giáo viên không phải chỉ tính vào
công sức giảng dạy, khả năng thuần túy về chuyên môn mà điểm chính là phẩm chất
chính trị, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm qua một quá trình giảng dạy lâu dài,
thành tích xây dựng ngành.
Vì cũng lẽ ấy nên đối với những
cán bộ đã có công tác trong các ngành khác, trong quân đội, tuy mới chuyển qua
ngành khác, trong quân đội, tuy mới chuyển qua ngành Giáo dục, chuyên môn giáo
dục còn non, nhưng không thể coi như học sinh mới ra trường mà phải cân nhắc sự
trưởng thành rèn luyện của họ trong kháng chiến, trong công tác mà đánh giá đức
tài cho đúng.
4) Đối tượng
sắp xếp vào thang lương Giáo dục:
Được xếp vào thang lương Giáo dục:
- Những cán bộ, giáo viên đang
trực tiếp làm công tác giảng dạy văn hóa, văn thể mỹ, kỹ thuật khoa học ngoại
ngữ tại các trường thuộc Bộ Giáo dục hoặc chuyên trách công tác giảng dạy tại
các trường thuộc các Bộ khác.
- Những cán bộ nghiên cứu đã xếp
thang lương Giáo dục hiện làm công tác nghiên cứu về chuyên môn Giáo dục trực
tiếp phục vụ cho việc giảng dạy.
- Những cán bộ Bình dân học vụ
(nếu xếp thang lương 16 bậc chưa có cơ sở để xét thì xếp vào thang lương 21 bậc).
- Những cán bộ làm công tác giảng
dạy chính trị ở các trường Phổ thông, Đại học và Chuyên nghiệp (trường hợp xếp ở
thang lương 16 bậc chưa thỏa đáng thì có thể xếp ở thang lương 21 bậc).
- Những giáo viên vì nhu cầu
công tác mới điều động về Khu, Ty hoặc Bộ làm công tác tổ chức hay cán bộ công
tác kế hoạch, mà cần phải là giáo viên mới làm được, trước cũng đã xếp vào
thang lương Giáo dục (nếu đã làm lâu năm: 3, 4, 5 năm trở lên thì nên xếp
thang lương 21 bậc).
- Những giáo viên phụ trách các
phòng thí nghiệm.
Các cán bộ lãnh đạo như Chánh, Phó Giám đốc Nha,
Chánh, Phó Giám đốc Khu, Trưởng, Phó ty đều xếp vào thang lương 21 bậc. Nếu xếp
vào thang lương 21 bậc chưa thỏa đáng thì xếp sang thang lương Giáo dục 16 bậc.
Hiệu trưởng, Hiệu phó các trường
Phổ thông đều xếp vào thang lương Giáo dục theo các khung dưới đây:
Hiệu trưởng cấp 1 từ bậc 4 đến bậc
9/16.
Hiệu trưởng cấp 2 từ bậc 6 đến bậc
11/16.
Hiệu trưởng và Hiệu phó cấp 3 từ
bậc 8 đến bậc 13/16.
Giáo viên trong thời gian chưa
được chính thức cử làm Hiệu trưởng, mới có quyết định quyền Hiệu trưởng thì vẫn
giữ bậc của giáo viên.
Nói chung giáo viên mới tốt nghiệp
ở trường ra chưa thể bố trí làm Hiệu trưởng, nhưng nếu ở một vài địa phương vì
nhu cầu phải bố trí thì vẫn coi như quyền Hiệu trưởng và hưởng khung bậc của
giáo viên.
5) Quan hệ
chỉ đạo:
Việc hướng dẫn học tập chính
sách lương mới và việc sắp xếp bậc cho cán bộ, giáo viên ở mỗi cấp đều tập
trung dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính ở mỗi cấp, Bộ chỉ xét duyệt ngạch bậc
cho:
- Chánh, Phó Giám đốc Khu, Sở.
- Trưởng, Phó ty.
- Giáo viên ở địa phương xếp từ
bậc 10/16 trở lên trong thang lương Giáo dục.
- Cán bộ, giáo viên, công nhân
viên ở các cơ quan trung ương và trường trực thuộc Bộ.
Đính theo Thông tư này có bảng
hướng dẫn về tiêu chuẩn cụ thể.
BẢNG
HƯỚNG DẪN TIÊU CHUẨN CỤ THỂ ĐỂ XẾP GIÁO VIÊN VÀ CÁN BỘ VÀO THANG LƯƠNG GIÁO DỤC
16 BẬC
(kèm theo Thông tư số 13-QC ngày
05/7/1958 của Bộ Giáo dục)
Dưới đây Bộ hướng dẫn một số
tiêu chuẩn cụ thể để các địa phương sắp xếp khỏi chênh lệch nhau nhiều:
1) Đối với
bậc khởi điểm ở mỗi cấp:
Đối với cấp 1 và cấp 2, những
giáo viên đã có Nghị định xếp vào bậc khởi điểm thì nay chuyển qua bậc khởi điểm
của thang lương 16 bậc. Đối với những giáo viên đã hết thời gian tập sự và đã
xét đáng được đưa lên bậc khởi điểm nhưng vì sự chậm trễ của các cấp lãnh đạo
chưa ra quyết định kịp thì bây giờ nên xét để chuyển qua bậc khởi điểm. Nhưng đối
với những giáo viên tinh thần đạo đức trách nhiệm quá kém, tư cách đạo đức quá
kém, ảnh hưởng đến uy tín của thầy giáo thì có thể xét để chuyển qua bậc dưới
khởi điểm tuy đã có Nghị định chính thức xếp vào bậc khởi điểm.
Để tránh sự chênh lệch đối với
giáo viên sắp ra trường phải áp dụng thời gian tập sự dài hơn, những giáo viên
mới lên khởi điểm phải ở bậc khởi điểm ít nhất 2 năm mới xét để đưa lên bậc
trên khởi điểm, trừ trường hợp đặc biệt.
Đối với giáo viên cấp 3: bậc
7/16 là bậc khởi điểm của giáo viên tốt nghiệp Đại học sư phạm; khi vào trình độ
lớp 10 và học đúng ba năm Đại học. Trước khi xếp bậc 7/16 qua thời gian tập sự
hai năm.
Đối với giáo viên ra trường niên
khóa 1956 – 1957 có một số công tác mới được một năm tuy đã có Nghị định xếp
vào bậc khởi điểm cũ nhưng nếu về lập trường tư tưởng và khả năng giảng dạy vào
loại kém thì vẫn chuyển qua bậc 6/16; qua năm học 1958 – 1959 nếu có tiến bộ mới
xét để đưa lên bậc 7/16, nhưng không nhất thiết phải chờ đủ hai năm kể từ khi mới
ra trường. Đối với số sắp ra trường cuối niên khóa 1957 – 1958 thì sẽ áp dụng
thời gian tập sự mới.
2) Sắp xếp
giáo viên cấp 1:
Dưới đây là những tiêu chuẩn để
nghiên cứu xếp cho giáo viên cấp 1, 2 và 3, nhưng không phải đơn thuần căn cứ
vào số năm đã công tác mà sắp xếp. Tiêu chuẩn chung vẫn “căn cứ vào chức vụ hiện
nay xét đức tài mà xếp”, nhưng khi xét đức, tài phải nhìn cả quá trình của người
giáo viên. Đối với một giáo viên đã phục vụ lâu năm hơn trong ngành thì sự cống
hiến xây dựng ngành có nhiều hơn, kinh nghiệm giảng dạy nhiều hơn, lập trường
tư tưởng được thử thách hơn. Nhưng tất cả những điều đó được thể hiện trên đức,
tài hiện nay. Nếu lập trường tư tưởng sút kém, giảng dạy kém thì không thể dựa
vào thời gian phục vụ lâu hơn trong ngành mà xếp cao.
Quan niệm “trung bình” phải là về
mặt đức và tài bảo đảm mức trung bình không thuộc vào loại kém. Trên trung bình
là loại khá, tốt và loại có nhiều thành tích trội hẳn. Quan niệm đúng như trên
mới nghiên cứu vận dụng đúng những tiêu chuẩn cụ thể dưới đây:
Giáo viên cấp 1 gồm có giáo viên
chỉ dạy được lớp 1, 2 gắng lắm là lớp 3 và giáo viên dạy được toàn cấp 1.
a) Giáo viên chỉ dạy được lớp 1,
2 tuyển từ hòa bình nay còn ở mức trung bình vẫn xếp 2, dạy khá có thể xếp 3. Từ
hòa bình đến nay mà lập được nhiều thành tích có thể xếp đến 4/16.
Giáo viên chỉ dạy được lớp 1, 2
gắng lắm là 3, vào ngành từ năm 1950 trở lại đến 1953 dạy còn trung bình có thể
xếp 3/16, dạy khá có thể xếp 4/16, dạy tốt có thể xếp 5/16. Loại này nếu dạy từ
Cách mạng tháng 8 đến nay, dạy còn trung bình có thể xếp 4/16, dạy khá có thể xếp
5/16, dạy tốt có thể xếp 6/16, có nhiều thành tích uy tín có thể xếp đến 7/16.
Giáo viên đào tạo ra dạy toàn cấp
nhưng vì nhu cầu chỉ bố trí dạy lớp 1, 2 thì cần xét để xếp cho thỏa đáng.
b) Giáo viên dạy toàn cấp:
Giáo viên tốt nghiệp Sư phạm sơ
cấp ra trường năm 1954 hoặc 1955 dạy còn mức trung bình có thể vẫn xếp 3/16, dạy
khá có thể xếp 4/16. Từ hòa bình đến nay mà lập được nhiều thành tích có thể xếp
5/16.
Giáo viên tốt nghiệp Sư phạm sơ
cấp ra trường năm 1952 – 1953 hoặc giáo viên trình độ tương đương cao đẳng tiểu
học, trung học phổ thông dạy toàn cấp từ năm 1952 – 1953 dạy còn trung bình có
thể xếp 4/16, dạy khá có thể xếp 5/16, dạy tốt có thể xếp 6/16.
Giáo viên có trình độ văn hóa dạy
toàn cấp vào ngành từ năm 1950 hay trước một vài năm dạy còn trung bình cũng xếp
4/16, khá xếp 5/16, dạy tốt có thể xếp 6/16 và có nhiều thành tích có thể xếp đến
7/16.
Giáo viên có CAP, BAP hoặc có trình
độ tương đương dạy toàn cấp dạy liên tục từ trước Cách mạng tháng 8 hoặc từ
Cách mạng tháng 8 đến nay, trung bình có thể xếp 6/16, dạy tốt có thể xếp 7,
8/16; nếu có nhiều thành tích trội, có uy tín tỏ ra là một nhà giáo mẫu mực có
thể xếp 9/16.
3) Sắp xếp
giáo viên cấp 2:
Giáo viên tốt nghiệp Sư phạm
trung cấp từ năm 1956 xếp bậc 5/16 có số tuy mới tốt nghiệp nhưng trước là giáo
viên cấp 1 đề bạt đi học hoặc có quá trình công tác nhất định, có thể xét để xếp
6/16.
Giáo viên tốt nghiệp Sư phạm
trung cấp ra năm 1954 – 1955 dạy tốt có thể xếp 6/16.
Giáo viên tốt nghiệp Sư phạm
trung cấp ra năm 1952 hoặc 1953 dạy trung bình xếp 6/16, dạy khá xếp 7/16.
Giáo viên cấp 1 có Cao đẳng tiểu
học, BAP vào ngành từ trước Cách mạng tháng 8 hoặc từ Cách mạng tháng 8 hoặc
sau đó một ít dạy kê lên cấp 2, dạy được toàn cấp, dạy trung bình có thể xếp
7/16, một số đã làm Hiệu trưởng, dạy tốt có thể xếp 8/16 và có nhiều thànht ích
uy tín có thể xếp 9/16.
Giáo viên có bằng chuyên khoa,
tú tài toàn phần, Cao đẳng sư phạm cũ, dạy từ trước Cách mạng tháng 8 hoặc từ
Cách mạng tháng 8 dạy toàn cấp, dạy trung bình có thể xếp 8/16, dạy tốt có thể
xếp 9/16, 10/16. Có nhiều thành tích nhiều uy tín có thể xếp 11/16.
Giáo viên Cao đẳng sư phạm cũ và
giáo viên đào tạo ở trường Đại học sư phạm ra để dạy cấp 3 và khả năng dạy cấp
3 nhưng vì nhu cầu bố trí dạy cấp 2, xét để cấp bậc thỏa đáng.
4) Sắp xếp
giáo viên cấp 3:
Hiện nay giáo viên cấp 3 xếp từ
8/11 đến 5/11 trong thang lương 11 bậc, những cũng có giáo viên xếp vượt khung
lên 4/11, nên khi chuyển sang thang lương 16 bậc có thể từ 6/16 đến 13/16..
Giáo viên có trình độ tương
đương tú tài, hoặc giáo viên cấp 2 đề bạt dạy cấp 3 từ 1950 – 1951 trở đi, giáo
viên tốt nghiệp Sư phạm cao cấp liên khu 4, Sư phạm cao cấp Khu học xá từ năm
1953, tốt nghiệp khoa học cơ bản năm 1953, giáo viên có cử nhân hoặc một bằng đại
học dạy cấp 3 từ năm 1950 – 1951 dạy trung bình có thể xếp 8/16, dạy tốt có thể
xếp 9, 10/16.
Giáo viên có tú tài toàn phần, một
bằng đại học, cử nhân, cao đẳng sư phạm cũ dạy trung học từ trước Cách mạng
tháng 8, dạy trung học chuyên khoa từ Cách mạng tháng 8, dạy trung học chuyên
khoa từ Cách mạng tháng 8, sau dạy cấp 3 hiện nay dạy toàn cấp dạy trung bình
có thể xếp 9/16, dạy tốt có thể xếp 10, 11/16, có nhiều thành tích, nhiều uy
tín trong ngành có thể xếp 12/16.
Số giáo viên này có người trước
đã xếp vượt khung lên đến bậc 4/11 hoặc đã đề bạt làm công tác ở Đại học và xếp
4/11 nay có thể chuyển sang 12/16 hoặc 13/16.
Trên đây là những loại giáo viên
phổ biến, nơi nào cũng có thể có. Ngoài ra mỗi địa phương nếu có những loại
giáo viên khác thì căn cứ vào tương quan chung mà xếp. Đối với Hiệu trưởng thì
căn cứ vào khả năng hiện tại cộng thêm vào khả năng tổ chức, trách nhiệm lãnh đạo
mà xét để xếp vào một bậc thỏa đáng trong khung bậc Hiệu trưởng.
Đối với cán bộ tốt nghiệp trường
Trung cấp kỹ thuật trong hay ngoài nước và nhận công tác giảng dạy từ đầu niên
học 1957 – 1958, nếu trước khi đi học là học sinh thì xếp bậc 5/16, nếu trước
là cán bộ đã có quá trình công tác nhất định thì có thể xét để xếp vào bậc
6/16.
Đối với cán bộ tốt nghiệp trường
Đại học 4 năm ở trong hay ngoài nước, hiện xếp 6/11 thì chuyển sang 8/16. Loại
này trước khi đi học là cán bộ có nhiều thành tích, có thể xếp cao hơn.
CÁN
BỘ BÌNH DÂN HỌC VỤ
Vì tính chất công tác khác nhau,
khung bậc sắp xếp cho cán bộ Bình dân học vụ không chia dứt khoát ra từng cấp
như giáo viên phổ thông cấp 1, 2 và 3, nên khi sắp xếp cần so sánh tương quan
mà xếp, cần lấy mức sắp xếp cho cán bộ Bình dân học vụ huyện để sắp xếp cho cán
bộ có trình độ trên công tác ở các cấp.
Bậc cao nhất có thể ngang với bậc
của cán bộ điều khiển ở cấp đó. Ví dụ ở Ty có thể xếp ngang với Phó ty, ở Khu
có thể xếp ngang với Phó phòng chuyên môn khu, ở Nha có thể xếp ngang với Phó
phòng chuyên môn Nha.
Bậc khởi điểm của cán bộ Bình
dân học vụ huyện, châu là 2/16, chỉ xếp cho những cán bộ mới vào ngành chưa có
quá trình công tác thoát ly, cần phải kém cấp. Nếu cán bộ tuy còn kém cấp nhưng
có quá trình công tác thoát ly thì xếp 3/16.
Cán bộ có khả năng phụ trách
trung bình phong trào Bình dân học vụ huyện thì xếp 4, 5/16, khá, vững xếp
6/16. Nếu đã công tác lâu năm trong ngành có kinh nghiệm lãnh đạo phong trào xếp
7/16.
Các cán bộ đã qua kỳ thi kiểm
soát viên cao cấp hoạt động lâu năm trong ngành, công tác tích cực, có kinh
nghiệm lãnh đạo phong trào Bình dân học vụ trong tỉnh trung bình xếp 7/16, khá
xếp 8, 9/16, và có nhiều kinh nghiệm thành tích xây dựng ngành có thể xếp
10/16. Cán bộ trên nữa thì xét tương quan với loại cán bộ này mà xếp, nguyên tắc
là ở mỗi cán bộ nghiên cứu không vượt quá cán bộ lãnh đạo ở cấp ấy.
Cán bộ tốt nghiệp ở các trường
Sư phạm ra chuyển sang công tác ngành Bình dân học vụ thì căn cứ theo tiêu chuẩn
của giáo viên phổ thông mà xếp nếu thời gian ra trường chưa lâu, sau sẽ căn cứ
vào khả năng công tác Bình dân học vụ mà xếp.
Những cán bộ trước là giáo viên
phổ thông chuyển qua thì đối chiếu với giáo viên phổ thông và căn cứ vào đức
tài hiện nay trên công tác Bình dân học vụ mà xếp.
CÁN
BỘ LÀM CÔNG TÁC NGOẠI NGỮ
Những cán bộ dùng tiếng nước
ngoài để dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt Nam hoặc từ tiếng Việt Nam
sang tiếng nước ngoài bằng dịch viết hay dịch nói tức là làm công tác phiên dịch
thì xếp vào thang lương phiên dịch chung.
Những người dùng tiếng nước
ngoài vào việc nghiên cứu thì không xếp vào thang lương phiên dịch mà xếp vào
thang lương 21 bậc.
Những cán bộ làm công tác giảng
dạy ngoại văn ở các trường thì xếp vào thang lương Giáo dục theo những bậc dưới
đây (có đối chiếu với thang lương phiên dịch chung và có so sánh tương quan với
giáo viên).
Những cán bộ tốt nghiệp ở các lớp
Hoa văn ở Nam Ninh:
Khóa 1952 – 1953 hiện đã xếp
13/17 hoặc 8/11 thì có thể xếp 5, 6/16.
Khóa 1952 – 1954 hiện đã xếp 8,
7/11 thì có thể xếp 6, 7/16.
Nếu là giáo viên cấp 2 đề bạt đi
học, cán bộ thoát ly có thành tích hiện dạy trội hẳn có thể xếp 8/16.
Khóa 1953 – 1954 hoặc 1954 –
1956 hiện đã xếp 8, 7/11 có thể xếp 5, 6/16.
Nếu là giáo viên cấp 2 đề bạt đi
học là cán bộ thoát ly, có một quá trình công tác nhất định có thành tích hiện
dạy tốt có thể xếp 7/16.
Khóa 1954 – 1955 hiện xếp 9,
8/11 có thể xếp 5, 6/16.
Đối với giáo viên Hoa văn và Nga
văn ở trường Ngoại ngữ (Việt Nam
học xá):
Nếu tốt nghiệp đầu năm 1958 thì
xếp lương bậc 4, sau thời gian tập sự 2 năm mới xét xếp vào bậc khởi điểm là
5/16.
Đối với lớp Nga văn ở Bắc Kinh:
Khóa 50 – 53 hiện đã xếp 10,
11/17 hoặc 6, 7/11 thì có thể xếp 7, 8, 9/16.
Đối với lớp Nga văn ở Mạc tư
Khoa:
Khóa 1954 – 1956 hiện xếp 8/11
có thể xếp 5, 6/16.
Việc xếp một cán bộ nói trên vào
bậc trên hay dưới là căn cứ vào công tác hiện tại xét các mặt đức, tài mà xếp.
CÁN
BỘ VĂN THỂ MỸ
Những giáo viên thể thao thể dục
nguyên là giáo viên cấp 2 hoặc cấp 1 đề bạt đi học thì sẽ căn cứ vào quá trình
công tác giáo viên và khả năng, tính chất công tác hiện nay mà xếp bậc.
Tính chất công tác hiện nay mà xếp
vào bậc thoả đáng từ bậc 4 đến bậc 10 trong thang lương giáo dục.
Ban Thể thao thể dục trung ương
sẽ nghiên cứu quy định tiêu chuẩn cụ thể.
Các giáo viên nhạc, họa ở các
trường thì căn cứ vào bậc hiện nay mà chuyển sang bậc mới trong thang lương
giáo dục.
Trên đây là một số hướng dẫn cụ
thể, đề nghị các Ủy ban căn cứ tiêu chuẩn chung và tình hình cụ thể của địa
phương hướng dẫn các cơ quan Giáo dục tiến hành việc sắp xếp giáo viên trong
thang lương mới, cố gắng đảm bảo thực hiện đúng nhiều điểm đã nêu trong Thông
tư này để tránh bớt sự chênh lệch giữa địa phương này và địa phương khác, giảm
bớt tình hình sắp xếp bất hợp lý cũ đối với ngành Giáo dục, nhưng đồng thời
cũng phù hợp với quan hệ sắp xếp của địa phương.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
GIÁO DỤC
Nguyễn Văn Huyên
|