BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
06-LĐ/TT
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 05 năm 1971
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Để quản lý chặt chẽ thời gian lao động, góp phần
nâng cao năng suất lao động, hiệu suất công tác, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết
định số 119-CP ngày 19 tháng 07 năm 1969 về một số biện pháp bảo đảm thời gian
lao động của công nhân, viên chức Nhà nước và Bộ Lao động đã ra Thông tư số
11-LĐ/TT ngày 20 tháng 10 năm 1969 hướng dẫn thi hành. Các quy định cụ thể
khác về giờ làm việc của công nhân, viên chức còn ở cả trong nhiều văn bản của
Bộ Lao động ban hành trước đây, nên các xí nghiệp, cơ quan khó nắm được đầy đủ
khi thi hành.
Để giúp các xí nghiệp, cơ quan tra cứu, áp dụng,
trong thông tư này Bộ Lao động tổng hợp các quy định còn hiệu lực trong các văn
bản đó, có sửa đổi, bổ sung một số điểm cho phù hợp với tình hình mới.
I. GIỜ LÀM VIỆC CHÍNH THỨC
A. Giờ làm việc chính thức tại các cơ quan, xí
nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, các cơ sở kinh doanh của Nhà nước,v.v…
là 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần lễ.
Trường hợp do tính chất sản xuất, điều kiện thời
tiết, thời vụ khẩn trương hoặc do trường hợp đột xuất phải phân bố lại số giờ
làm việc trong ngày hoặc số giờ và số ngày làm việc trong tuần, trong tháng cho
thích hợp thì tính chung phải làm việc bình quân đủ 8 giờ trong một ngày và bảo
đảm số ngày nghỉ theo chế độ.
Riêng một số trường hợp sau đây, do tính chất
công tác trong khoảng 8 giờ có những lúc không làm việc thực sự và liên tục thì
thời giờ có mặt của công nhân, viên chức tuỳ hoàn cảnh từng xí nghiệp, cơ quan
mà có thể quy định nhiều hơn thời giờ đã quy định theo nguyên tắc chung.
Ví dụ:
Loại 1: y tá, gác cổng, gác xưởng, thủ kho, thợ
điện thường trực để đợi đi cứu chữa khi có bộ phận hỏng, lái xe con cho thủ trưởng…
Những người này được ăn, ở trong phạm vi xí nghiệp, cơ quan, thời giờ có mặt và
giờ làm việc có thể trên 8 tiếng.
Loại 2: công nhân phụ trách máy phát động lực,
công nhân phụ trách tu bổ hoặc lau chùi máy móc, dụng cụ, quét dọn lò, trưởng
kíp khi đổi kíp… Những người này vì tính chất công việc phụ trách phải đến sớm,
về muộn hơn những anh em khác nên thời giờ làm việc và có mặt phải trên 8 tiếng.
Những trường hợp đặc biệt này sẽ do thủ trưởng từng
xí nghiệp, cơ quan quy định và ghi vào nội quy xí nghiệp, cơ quan.
B. Cách tính một số thời giờ vào giờ làm việc
chính thức:
Được tính vào thời giờ làm việc những loại thời
giờ sau đây:
1. Thời giờ để chuẩn bị và kết thúc ca làm việc,
thực hiện các yêu cầu về kỹ thuật bảo dưỡng máy móc, thiết bị và bảo đảm trật tự
vệ sinh nơi làm việc (cần được ghi trong nội quy xí nghiệp);
2. Thời giờ thay quần áo làm việc của thợ lặn;
3. Thời giờ nghỉ giải lao giữa ca làm việc đối với
một số trường hợp đặc biệt (sẽ có quy định riêng).
4. Thời giờ ăn cơm 30 phút mỗi ca đối với những
xí nghiệp làm 3 ca liên tục. Tuy nhiên đối với những công việc có hoàn cảnh
luân phiên nhau để ăn cơm, như công nhân đốt lửa nồi hơi, thợ coi đồng hồ điện,
coi bơm,v.v… thì không nhất thiết phải bố trí thì giờ dành để ăn cơm trong 8 giờ
làm việc;
5. Thời giờ cho con bú: nữ công nhân, viên chức
có con nhỏ dưới một năm, mỗi ngày làm việc được nghỉ một giờ cho con bú (cả thời
giờ đi và về để cho con bú). Tuỳ theo tình hình nhà riêng hoặc nhà trẻ ở xa hay
gần, nữ công nhân, viên chức làm việc hai tầm theo giờ hành chính hay làm liền
8 tiếng trong một ngày mà sử dụng linh hoạt giờ cho con bú.
- Nghỉ hai lần mỗi buổi 30 phút, hoặc nghỉ một lần
một giờ trong mỗi ngày trong 12 tháng;
- Hoặc 6 tháng đầu, mỗi ngày nghỉ 1 giờ 30 phút,
6 tháng sau cháu bé đã ăn thêm thức ăn, mỗi ngày nghỉ một lần 30 phút. Nghỉ 1
giờ 30 phút trong 6 tháng đầu có thể nghỉ một lần giữa ca hoặc chia làm 2 lần:
giữa ca nghỉ 1 giờ, cuối ca nghỉ 30 phút đối với người làm việc liền 8 tiếng,
hoặc nghỉ mỗi buổi 45 phút đối với người làm việc hai lần. Nếu đẻ sinh đôi thì
cộng thêm 30 phút, đẻ sinh ba thì thêm 45 phút mỗi ngày trong 12 tháng.
trường hợp công nhân làm ca thông 8 tiếng mà con
nhỏ ở nơi xa làm việc, đi về không tiện hoặc phải chờ tầu xe, đã ở lại tiếp tục
sản xuất vào số giờ quy định được nghỉ cho con bú, thì giờ đó sẽ được tính trả
lương như giờ làm thêm.
C. Bớt giờ:
Để chiếu cố đến sức khoẻ của một số công nhân
làm những nghề thật nặng nhọc, nguy hiểm, cần rút thời giờ làm việc dưới 8 tiếng.
Cụ thể đối với thợ lặn, thời giờ làm việc (kể cả
thời giờ lên và xuống nước) mỗi ngày không được quá 6 giờ (thông tư Liên Bộ Lao
động – Y tế số 19-TT/LB ngày 19 tháng 12 năm 1964), đối với cán bộ, nhân viên
chuyên trách làm công tác điện quang thời giờ làm việc hàng ngày là 7 tiếng
(Thông tư của bộ Y tế số 13-BYT/TT ngày 16 tháng 05 năm 1963), đối với công
nhân lắp cột vượt sông Hồng thời giờ làm việc là 7 tiếng trong những ngày phải
làm việc ở độ cao 80m so với mặt đất.
Những nghề khác xét cần rút bớt giờ làm việc dưới
8 tiếng sẽ có quy định riêng.
II. GIỜ LÀM THÊM
Ngoài thời giờ làm việc chính thức mỗi ngày, nếu
công nhân phải làm thêm giờ thì được hưởng phụ cấp cho giờ làm thêm ấy.
Những trường hợp có thể làm thêm giờ là những
trường hợp vì có công việc đột xuất nên phải tranh thủ làm cho xong, không trì
hoãn được. Cụ thể là:
- Do những điều kiện bất ngờ không đạt được kế
hoạch, phải làm thêm giờ cho kịp (như đã ngừng sản xuất vì máy hỏng, thiếu
nguyên vật liệu, mưa, lũ lụt, công nhân ốm đau nhiều v.v…);
- Do có kế hoạch bất thường với tính chất cấp
thiết mà cấp trên giao cho phải hoàn thành mà xí nghiệp không thể lấy thêm người
làm;
- Do cấp thiết phải tiến hành những công tác đặc
biệt để bảo vệ sản xuất;
- Do tính chất công tác khẩn trương, đột xuất phải
hoàn thành nhanh chóng trong một thời gian ngắn để khỏi lãng phí nguyên vật liệu,
tiền bạc và làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình như khi đổ bê tông sỏi ở
công trường, khi bốc dỡ hàng cho tầu đi kịp nước hoặc khi đào móng xây công
trình phải tranh thủ làm xong trước khi mưa, lụt sắp xảy đến v.v…
Số giờ làm thêm đối với mỗi người nhiều nhất là
4 giờ một ngày và 150 giờ mỗi năm. Khi tính số giờ làm thêm này, cần phân biệt
giữa thời giờ làm bù và thời giờ làm thêm. Ngày công và giờ công lao động đã được
ghi trong kế hoạch của xí nghiệp, nếu vì điều kiện khách quan bị mất điện, mưa
bão…, nên phải ngừng việc, những ngày ngừng việc công nhân được nghỉ, Chính phủ
đã trả lương ngừng việc để bảo đảm sinh hoạt cho công nhân, thì khi xí nghiệp
trợ lại hoạt động bình thưòng phải có kế hoạch tổ chức việc làm bù vào thời
gian lao động đã mất vì ngừng việc. Trường hợp này giám đốc xí nghiệp có thể động
viên công nhân, viên chức làm bù vào ngày thường hoặc ngày nghỉ hàng tuần.
Nhưng khi tổ chức công nhân, viên chức làm thêm
hoặc làm bù, phải chú ý không động viên làm quá sức, không được sử dụng làm
thêm hoặc làm bù quá 2 ngày nghỉ trong 1 tháng, không làm thêm quá 4 tiếng
trong một ngày. Những trường hợp hết sức khẩn cấp mới không hạn định số giờ làm
việc thêm là 4 tiếng một ngày, cốt để làm cho nhanh chóng, xong việc như: trường
hợp tối khẩn cấp thuộc về quốc phòng, trường hợp rủi ro bất ngờ vì máy phát động
lực hỏng, máy điện, máy nước hỏng phải tập trung cứu chữa, trường hợp phải đề
phòng tai nạn do thiên tai có thể gây ra… Tuy vậy số giờ làm thêm phải rút dần
bằng giờ thường lệ, ví dụ: lúc khẩn cấp có thể làm 14 giờ, nhưng sẽ rút dần xuống
13, 12, 10, 9 và 8 giờ.
Nói chung, giám đốc xí nghiệp phải quan tâm đảm
bảo sức khoẻ cho công nhân, tìm mọi cách hạn chế số giờ làm thêm, và mỗi khi cần
làm thêm, phải dựa vào các tổ chức công đoàn, thanh niên… để phát huy được tính
tự nguyện, tự giác của quần chúng. Trường hợp nào cần thiết phải làm thêm giờ,
làm thêm giờ nhiều hay ít là phải căn cứ vào yêu cầu thực tế của sản xuất để định
cho thích hợp.
Việc làm thêm giờ không phải ở đâu và lúc nào
cũng cần thiết như nhau. Ví dụ: trên công trường, nhất là công trường thuỷ lợi,
do tính chất xây dựng cấp bách, phải tranh thủ thời tiết thuận lợi, tổ chức sản
xuất xây dựng không ổn định được như xí nghiệp, nên có thể và có lúc phải làm
thêm nhiều giờ hơn xí nghiệp. Do tình hình tổ chức, đặc điểm và yêu cầu sản xuất
khác nhau cho nên việc làm thêm giờ trong các cơ sở sản xuất cũng không phải giống
nhau. Ngay trong một xí nghiệp, cũng có bộ phận phải làm thêm giờ, có bộ phận
không, tuỳ bộ phận này làm thêm giờ nhiều hơn bộ phận khác.
- Việc làm thêm giờ cần có chừng mực, tuy theo
hoàn cảnh và đặc điểm sức khoẻ của mỗi người. Công nhân trẻ tuổi, sinh hoạt độc
thân có thể làm thêm giờ nhiều hơn những người già yếu, những người có gia
đình. Phụ nữ có thai từ tháng thứ 5 hoặc có con nhỏ đang bú dưới 6 tháng, những
người dưới 18 tuổi và công nhân làm việc theo chế độ bớt giờ được miễn làm thêm
giờ.
Ngoài số giờ làm thêm đã quy định trên, điều 15
của điều lệ tạm thời về bảo hộ lao động của Hội đồng Chính phủ ban hành kèm nghị
định số 181-CP ngày 18 tháng 12 năm 1964 quy định: “…trường hợp đặc biệt cần
huy động làm ngoài giờ thêm nữa thì phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép”.
Thông tư này thay thế cho các văn bản sau đây:
- Thông tư số 05-LĐ/TT ngày 09 tháng 03 năm 1955
của Bộ Lao động về thời giờ làm việc tại các xí nghiệp Chính phủ và công trường
(trừ mục II, điểm G về ngày nghỉ);
- Thông tư số 16-LĐ/TT ngày 06 tháng 09 năm 1957
của Bộ Lao động sửa đổi về thời gian làm việc quy định trong thông tư số
05-LĐ/TT ngày 09 tháng 03 năm 1955;
- Thông tư số 12-LĐ/TT ngày 12 tháng 05 năm 1958
của Bộ Lao động hướng dẫn thi hành chế độ tiền lương và bổ sung các chế độ lãnh
đạo của công nhân, cán bộ, nhân viên các công trường kiến thiết cơ bản loại
III, loại 1 về thời giờ làm việc;
- Công văn số 461-LĐ/TL ngày 22 tháng 04 năm
1959 của Bộ Lao động giải thích vấn đề làm thêm giờ.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
LAO ĐỘNG
Nguyễn Hữu Khiếu
|