BỘ LAO ĐỘNG-BỘ
THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI-TỔNG CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 06-LĐ/TT
|
Hà Nội, ngày 15
tháng 06 năm 1979
|
HƯỚNG DẪN VIỆC SỬ DỤNG SỔ LAO ĐỘNG CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC
NHÀ NƯỚC ĐỂ THI HÀNH CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Thi hành nghị định số 97-CP ngày
02-05-1974 của Hội đồng Chính phủ về đăng ký nghĩa vụ lao động và làm sổ lao động
cho công dân trong tuổi lao động, Bộ Lao động đã ra thông tư số 06-LĐ/TT ngày
28-02-1975 hướng dẫn làm sổ và sử dụng sổ lao động đối với công nhân, viên chức
Nhà nước. Sau một thời gian thực hiện, nay đã cơ bản hoàn thành việc làm tờ
khai và sổ lao động đối với công nhân, viên chức ở các tỉnh miền Bắc.
Để thực hiện đầy đủ mục đích của
việc làm sổ lao động như điều 4 của nghị định: “Tiến hành cấp sổ lao động… nhằm
nắm vững khả năng và quá trình lao động của từng người để làm cơ sở… và thực hiện
các chế độ đãi ngộ tùy theo cống hiến của mỗi người”. Sau khi trao đổi với Ban
tổ chức của Chính phủ, liên Bộ Lao động – Thương binh và xã hội – Tổng công
đoàn Việt Nam ra thông tư hướng dẫn việc sử dụng sổ lao động của công nhân,
viên chức Nhà nước để thi hành chế độ bảo hiểm xã hội như sau.
I. SỬ DỤNG SỔ
LAO ĐỘNG LÀM CƠ SỞ ĐỂ THI HÀNH CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÁC CHẾ ĐỘ KHÁC
1. Lập hồ sơ, làm thủ tục cho
công nhân, viên chức hưởng chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội (hưu trí, mất sức lao
động, trợ cấp tiền tuất..) ngoài những giấy tờ của Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Thương binh và xã hội) quy định tại văn bản số 367-HT ngày 27-02-1973, nay liên
Bộ quy định hồ sơ pháp lý phải có thêm sổ lao động để tính trợ cấp.
Nội dung khai trong phiếu cá
nhân của công nhân, viên chức để xét thi hành chế độ bảo hiểm xã hội phải khớp
với nội dung khai trong sổ lao động. Nếu có sự khác nhau thì phải căn cứ vào sổ
lao động và các bằng chứng, giấy tờ hợp pháp khác để xác minh sự thật.
Cơ quan xét giải quyết chế độ bảo
hiểm xã hội phải căn cứ vào các phần đã kê khai về quá trình làm việc, bậc lương,
nghề nghiệp, tính chất và thời gian làm công việc nặng nhọc, độc hại có ảnh hưởng
đến sức khỏe… ghi trong sổ lao động của công nhân, viên chức để xét tiêu chuẩn
tuổi đời, thời gian công tác nói chung, thời gian công tác liên tục, tiền
lương,… để tính các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội.
2. Sổ lao động còn là căn cứ chủ
yếu để xét tuyển lại đối với công nhân, viên chức đã thôi việc, duyệt công
nhân, viên chức nghỉ mất sức hoặc ký hợp đồng lao động có thời hạn giữa người
lao động với cơ quan, xí nghiệp sử dụng.
II. MỘT SỐ
QUY ĐỊNH THÊM VỀ NỘI DUNG KÊ KHAI BỔ SUNG, GHI CHÉP VÀ QUẢN LÝ SỔ CÙNG TỜ KHAI
CẤP SỔ LAO ĐỘNG
Để có cơ sở đúng đắn cho việc
thi hành chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội và phục vụ các yêu cầu quản lý của Nhà
nước, ngoài những quy định tại thông tư số 6-LĐ/TT ngày 28-02-1975 của Bộ Lao động,
nay liên Bộ quy định thêm:
1. Về nội dung kê khai:
Phần quá trình làm việc trước và
sau khi làm sổ lao động, công nhân, viên chức phải khai chính xác, đầy đủ và
liên tục các thời kỳ làm việc, học tập (trong các tổ chức, bộ máy của Đảng và
Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức kinh tế tập thể hoặc tư nhân), các
thời kỳ nghỉ việc,v.v…
Người đã tham gia hoạt động cách
mạng trước 16 tuổi, hoặc người đã tham gia hoạt động cách mạng trước tháng Tám
năm 1945 thì khai rõ ngày, tháng, năm bắt đầu đi hoạt động thoát ly.
Trường hợp công nhân, viên chức
đã làm sổ lao động nhưng chưa kê khai đầy đủ thì khai bổ sung và phải có xác nhận
của cấp có thẩm quyền để tính thời gian công tác và chế độ trợ cấp. Sau khi ghi
vào sổ lao động, cơ quan, xí nghiệp có trách nhiệm lưu tờ khai bổ sung cùng với
hồ sơ nhân sự của đương sự.
Từ năm 1975 trở đi, công nhân,
viên chức có quyết định tuyển dụng chính thức, thay đổi mức lương, bậc thợ, cấp
bậc kỹ thuật, thuyên chuyển công tác, v.v… cơ quan, xí nghiệp có trách nhiệm
ghi vào sổ lao động và thủ trưởng phải ký tên xác nhận.
Tất cả các trang trong sổ lao động
(kể cả sổ lao động đã được duyệt), cơ quan, xí nghiệp đang quản lý phải đóng dấu
giáp lai.
Mọi trường hợp sửa chữa, tẩy xóa
trong sổ lao động phải được thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp ký tên, đóng dấu xác
nhận.
Sổ lao động làm lại phải có giấy
tờ hợp pháp xác nhận lời khai.
2. Quản lý tờ khai và sổ lao
động:
Khi công nhân, viên chức đang
làm việc thì tờ khai và sổ lao động do cơ quan, xí nghiệp quản lý cùng với hồ
sơ nhân sự của đương sự.
Công nhân, viên chức được thuyên
chuyển công tác đi nơi khác, thì sau khi ghi bổ sung nội dung quyết định vào sổ
lao động, thủ trưởng ký tên, đóng dấu xác nhận và trả sổ lao động cho đương sự
để mang đến đơn vị mới, còn tờ khai cấp sổ lao động phải chuyển cho đơn vị tiếp
nhận cùng với hồ sơ nhân sự theo nguyên tắc bảo mật.
Khi công nhân, viên chức về hưu
trí hay nghỉ mất sức hoặc chết, sau khi ghi bổ sung đầy đủ vào sổ lao động, thủ
trưởng ký tên, đóng dấu xác nhận; dùng sổ, tờ khai cấp sổ lao động và các tờ
khai bổ sung (nếu có) để làm thủ tục xét duyệt cho công nhân, viên chức hưởng
chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Sau khi giải quyết xong thủ tục
trợ cấp bảo hiểm xã hội, cơ quan thương binh và xã hội quản lý tờ khai cấp sổ
lao động của những người hưu trí, tuất; đối với người về nghỉ mất sức thì cơ
quan, xí nghiệp chuyển tờ khai cấp sổ lao động của họ về Sở, Ty lao động nơi họ
về cư trú chính thức để tiện việc quản lý và sử dụng khi người đó có yêu cầu sắp
xếp việc làm.
Trường hợp công nhân, viên chức
Nhà nước được thôi việc hoặc buộc thôi việc thì cơ quan, xí nghiệp cũng làm những
thủ tục như trường hợp trên và trả sổ lao động cho đương sự. Riêng tờ khai cấp
sổ lao động thì chuyển cho Sở, Ty lao động thuộc địa phương đương sự về cư trú
chính thức để làm tài liệu quản lý về lao động.
Trường hợp công nhân, viên chức
tự ý bỏ việc, thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp ghi trường hợp tự ý bỏ việc vào phần
quá trình làm việc của sổ lao động rồi chuyển cho Sở, Ty lao động nơi họ cư trú
chính thức để Sở, Ty lao động quản lý lao động theo tinh thần quyết định số
201-CP ngày 30-8-1974 của Hội đồng Chính phủ.
Trường hợp công nhân, viên chức
đi nghĩa vụ quân sự hoặc đi học ở trong và ngoài nước, cơ quan, xí nghiệp có
trách nhiệm ghi bổ sung đầy đủ vào sổ lao động, thủ trưởng ký tên, đóng dấu xác
nhận rồi trả lại sổ và tờ khai cấp sổ lao động cho đương sự. Nếu công nhân,
viên chức đó chưa được cấp sổ lao động thì cơ quan, xí nghiệp phải gấp rút làm
sổ lao động cho họ. Trường hợp không thể làm kịp thì cơ quan, xí nghiệp phải cấp
giấy chứng nhận lý do chưa được làm sổ lao động cho đương sự. Sau khi hoàn
thành nghĩa vụ quân sự hoặc tốt nghiệp trở về, đương sự phải nộp lại sổ, tờ
khai cấp sổ lao động (hoặc giấy chứng nhận chưa được cấp sổ lao động) và tờ
khai bổ sung về thời gian tham gia quân đội hoặc thời gian đi học cho cơ quan,
xí nghiệp đến làm việc.
Trường hợp quân nhân được xuất
ngũ, chuyển ngành hoặc học sinh tốt nghiệp được bố trí công tác về cơ quan, xí
nghiệp thật sự chưa có sổ lao động (nếu trước kia chưa phải là công nhân, viên
chức Nhà nước), hoặc có giấy chứng nhận chưa được cấp sổ lao động (nếu trước đã
là công nhân, viên chức Nhà nước), thì cơ quan, xí nghiệp căn cứ vào lý lịch
quân nhân, hoặc lý lịch học sinh làm sổ lao động cho đương sự. Trường hợp mất sổ
lao động thì phải khai lại và thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp ký nhận thực để làm
lại.
III. TRÁCH
NHIỆM CỦA CÁC CẤP, CÁC NGÀNH
Để thực hiện tốt thông tư này,
liên Bộ yêu cầu các cấp, các ngành:
1. Cơ quan lao động có trách nhiệm
giúp Ủy ban nhân dân hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, xí nghiệp thực
hiện việc làm sổ; ghi bổ sung hàng năm vào sổ; xét duyệt sổ; tổ chức quản lý tờ
khai cấp sổ của những người có quyết định về nghỉ mất sức, hoặc được thôi vịêc,
hoặc bị buộc thôi việc, sổ lao động và tờ khai cấp sổ lao động của những người
tự ý bỏ việc cư trú tại địa phương do cơ quan, xí nghiệp chuyển đến; nghiên cứu
đề xuất ý kiến với Ủy ban nhân dân và những ngành có liên quan xử lý những trường
hợp vi phạm nguyên tắc lập sổ và sử dụng sổ lao động; cùng cơ quan công đoàn,
thương binh và xã hội chỉ đạo việc sử dụng sổ lao động để thi hành chế độ bảo
hiểm xã hội.
2. Cơ quan thương binh và xã hội
có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân trong việc sử dụng sổ lao động để thi hành
chế độ bảo hiểm xã hội khi công nhân, viên chức về hưu và nghỉ mất sức, tuất;
có quyền yêu cầu đương sự hoặc cơ quan, xí nghiệp quản lý đương sự thuyết minh
những phần khai không rõ ràng, có trách nhiệm kiến nghị với Sở, Ty lao động bác
bỏ từng phần hay toàn bộ những sổ lao động làm trái với quy định của Nhà nước
và buộc phải làm lại sổ; quản lý tờ khai cấp sổ lao động của những người được
hưởng chế độ trợ cấp hưu trí và tiền tuất.
3. Cơ quan công đoàn các cấp có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan lao động và cơ quan chuyên môn cùng cấp động
viên, giáo dục công nhân, viên chức thực hiện tốt việc làm sổ, tổ chức đôn đốc,
kiểm tra các cơ quan, xí nghiệp chấp hành việc làm sổ lao động, ghi chép bổ
sung và sử dụng sổ lao động; cùng cơ quan chuyên môn điều tra, xác minh và xử
lý những trường hợp công nhân, viên chức khiếu nại; có quyền yêu cầu cơ quan,
xí nghiệp (và người có sổ lao động) xuất trình sổ lao động của công nhân, viên
chức thuộc đơn vị khi tiến hành, kiểm tra việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội.
4. Thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp
chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung kê khai trong sổ lao động của công nhân,
viên chức trong thời gian thuộc quyền quản lý của đơn vị; bố trí cán bộ và
phương tiện vật chất cho việc làm sổ, quản lý và ghi chép bổ sung hàng năm vào
sổ lao động của công nhân, viên chức; cùng với công đoàn cơ sở giải quyết kịp
thời những khiếu nại về sổ của công nhân, viên chức; xuất trình sổ lao động của
công nhân, viên chức thuộc đơn vị khi có yêu cầu kiểm tra của các cấp, các
ngành có trách nhiệm.
5. Đương sự có trách nhiệm khai
chính xác, đầy đủ và liên tục các yêu cầu về nội dung của sổ lao động; chịu
trách nhiệm hoàn toàn về lời khai trong sổ, dẫn chứng để xác minh những chỗ
khai chưa rõ ràng; có trách nhiệm giữ gìn sổ lao động và tờ khai cấp sổ khi được
phép giữ, nếu bị mất phải báo ngay với cơ quan an ninh, đơn vị công tác hoặc
xã, phường,… và Sở, Ty lao động nơi mình cư trú để xin làm lại sổ; có quyền yêu
cầu cơ quan, xí nghiệp cho xem sổ lao động tại chỗ vào các kỳ cuối năm và có
quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp bổ sung những phần còn thiếu; có
quyền khiếu nại lên cơ quan lao động và công đoàn cấp trên về những điểm mà cơ
quan, xí nghiệp ghi không đúng lại không chịu sửa.
IV. ĐỐI TƯỢNG
VÀ PHẠM VI THỰC HIỆN
Thông tư này áp dụng cho tất cả
công nhân, viên chức Nhà nước thuộc đối tượng làm sổ lao động quy định tại
thông tư số 06-LĐ/TT ngày 28-02-1975 của Bộ Lao động và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày ký.
Đối với công nhân, viên chức Nhà
nước ở các tỉnh miền Nam
(bao gồm cả xí nghiệp công tư hợp doanh) liên Bộ sẽ hướng dẫn cụ thể sau.
Việc sử dụng sổ lao động làm căn
cứ pháp lý thi hành chế độ bảo hiểm xã hội là vấn đề mới, chúng ta vừa làm vừa
rút kinh nghiệm nhưng phải tích cực thực hiện để đưa vào nề nếp phục vụ tốt cho
sản xuất, công tác, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của công nhân, viên
chức. Liên Bộ đề nghị các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng
Chính phủ, các đoàn thể, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
tăng cường sự chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện tốt thông tư này.
Trong quá trình thực hiện, có gì mắc mứu, đề nghị phản ảnh kịp thời cho liên Bộ
biết để nghiên cứu giải quyết.
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
THỨ TRƯỞNG
Phan Văn Hựu
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Kiện
|
TM.
BAN THƯ KÝ TỒNG CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
Vũ Định
|