TỔNG CỤC THỦY SẢN
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc
*******
|
Số : 02-TS-TT
|
Hà Nội, ngày 28
tháng 01 năm 1963
|
THÔNG
TƯ
QUY
ĐỊNH THỐNG NHẤT CHẾ ĐỘ TRANG BỊ PHÒNG HỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi:
|
- Các Sở, Ty Thủy sản các tỉnh
- Các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh
- Các trường trung cấp thủy sản trung ương và địa phương
- Trường kỹ thuật cơ khí hàng hải
- Các trạm nghiên cứu, trạm vật tư.
|
Ngành thủy sản mới thành lập, nhưng sự phát
triển sản xuất rất phức tạp, mang nhiều tính chất công tác khác nhau như khai
thác cá biển, cơ khí tàu thuyền, chế biến thủy sản, thu mua phân phối thực phẩm
nguyên vật liệu mà nhất là nghề đánh cá ngoài biển khơi, thường xuyên lưu động
trên mặt biển chịu đựng với thời tiết thiên nhiên, sóng gió bất ngờ nặng nhọc
và nguy hiểm. Trong điều kiện làm việc cũng gặp nhiều khó khăn, vì chế độ phòng
hộ lao động chưa được ban hành đầy đủ và thống nhất trong ngành, do đó cũng làm
trở ngại cho các cơ sở xí nghiệp trong việc lập kế hoạch bảo hộ lao động và dự
trù mua sắm dụng cụ phòng hộ hàng năm để trang bị cho công nhân sản xuất. Mặt
khác việc quy định phân công trách nhiệm của cán bộ môn chưa được rõ ràng,
trách nhiệm bảo quản, sử dụng các dụng cụ phòng hộ lao động chưa có kế hoạch
chu đáo, nên việc chấp hành các nội quy chưa được nghiêm chỉnh..
Căn cứ theo tinh thần
thông tư số 13-LĐ-TT ngày 20-06-1962 của Bộ Lao động đã quy định các nguyên tắc
cấp phát, sử dụng, bảo quản dụng cụ phòng hộ lao động;
Căn cứ theo nghề
nghiệp của ngành thủy sản hiện nay và phát triển sản xuất sắp đến, để đáp ứng
yêu cầu của sản xuất , nhằm ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ảnh
hưởng đến cơ thể người lao động;
Được sự thỏa thuận
của Bộ Lao động tại công văn số 2047-LĐ-BHLĐ ngày 17-12-1962 và Tổng công đoàn
Việt-nam tại Công văn số 18-HC-P9, ngày 08-01-1963 cùng với sự thống nhất của
Công đoàn thủy sản Việt-nam, Tổng cục Thủy sản ban hành chế độ trang bị phòng
hộ lao động, cụ thể cho từng nghề nghiệp và thống nhất trong ngành thủy sản
nhằm:
Thống nhất những
thông tư đã ban hành và các văn bản quy định tạm thời trước đây;
- Phân biệt tính chất
điều kiện lao động cụ thể của từng nghề để trang bị cho thích hợp với yêu cầu
sản xuất;
- Quy định nguyên tắc cấp phát, sử dụng bảo
quản và trách nhiệm của các bộ môn trong cơ quan, xí nghiệp, việc dự trù mua
sắm cấp phát dụng cụ và trách nhiệm bảo quản của cá nhân được cấp phát dụng cụ
phòng hộ lao động.
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC
CHUNG VỀ CẤP PHÁT TRANG BỊ DỤNG CỤ PHÒNG HỘ
A. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC
TRANG BỊ
Những cán bộ công
nhân làm việc trong một hay nhiều điều kiện sau đây thì được trang bị cá nhân
(hoặc cho mượn) tùy theo công việc làm thường xuyên hay không thường xuyên.
1. Làm việc trực tiếp
với những nguyên vật liệu có chất độc, khí độc, hơi độc, bụi độc nhiễm vào
người, ảnh hưởng tới sức khỏe.
2. Làm việc trực tiếp
với những nguyên vật liệu ẩm ướt, hôi thối dơ bẩn dễ bị nhiễm trùng hoặc làm
việc ở nơi nóng quá, lạnh quá mức bình thường.
3. Làm việc trong
những điều kiện không bình thường như:
- Ánh sáng chói quá
có hại đến mắt;
- Dưới hầm kín hoặc trong
buồng kín thiếu không khí khó thở;
- Tiếp xúc với những
vật nhọn, sắc cạnh, vật nặng, vật ráp có thể bị cọ xát cơ thể;
- Tiếp xúc với vật bị
đun nóng, nung nóng, hơi khí nóng, nước sôi, những mảnh kim loại nóng có thể
bắn làm cháy bỏng da thịt;
- Có nhiều bụi độc
quá tiêu chuẩn quy định;
- Thường xuyên làm
việc những nơi nóng quá, lạnh quá tiêu chuẩn quy định.
- Những nơi dơ bẩn
lầy lội, hoặc có các chất axit dễ ăn lở loét chân tay, da như: mổ cá, rửa cá,
gọt dứa, cắt dứa, lội dưới âu đà, trộn chượp; v.v...
- Thường xuyên phải
lưu động, làm việc ngoài trời chịu ảnh hưởng nắng mưa sương gió, vì công việc
không thể nghỉ để trú ẩn được (nhất là nghề đánh cá ngoài khơi và vận tải đường
thủy).
4. Làm việc trong
những điều kiện nguy hiểm như:
- Tiếp xúc với thiết
bị có điện thế trên 36vôn;
- Làm việc trên cao
như: chữa dây điện, bắt dây buồm, chữa ống khói;
- Làm việc dưới nước
như: lặn kẹp chì, gỡ rạn, gỡ lưới vướng chân vịt.
B. ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC
TRANG BỊ PHÒNG HỘ
1. Cán bộ, công nhân,
viên chức khi làm việc ở một hay nhiều điều kiện nói trên, không phân biệt
chính thức hay tạm tuyển, trong hay ngoài biên chế, lao động hợp đồng, thợ học
việc thường xuyên và học sinh, sinh viên chuyên nghiệp thực tập, đều được sử
dụng trang bị những dụng cụ phòng hộ lao động đã quy định theo tính chất công
việc làm.
Cụ thể là:
- Công nhân viên chức
trong biên chế Nhà nước;
- Công nhân tạm
tuyển, phụ động (lực lượng thường xuyên cố định);
- Công nhân ký hợp
đồng làm khoán mà cơ quan quản lý về nhân lực hoặc về kỹ thuật sản xuất;
- Học sinh và sinh
viên chuyên nghiệp thực tập hay tập sự ở các xí nghiệp, các tàu thuyền.
2. Những cán bộ, nhân
viên kỹ thuật, nghiệp vụ ở các cơ sở trực tiếp sản xuất, làm nhiệm vụ hướng dẫn
sản xuất hay sửa chữa thường xuyên hàng ngày phải tiếp xúc với công việc ở vào
những điều kiện nói trên được trang bị cá nhân hoặc cho mượn (nếu không thường
xuyên).
3. Cán bộ lãnh đạo xí
nghiệp (giám đốc kỹ thuật), cán bộ kỹ thuật, cán bộ bảo hộ lao động xuống kiểm
tra thì được mượn số dụng cụ (sắm chung trang bị cho phòng hay tổ) để dùng
trong khi làm nhiệm vụ nói trên, không cấp phát cho từng cá nhân và cũng không
được mược dùng vào việc khác.
4. Đối với những công
việc làm không được thường xuyên nhưng khi làm cần thiết phải có trang bị phòng
hộ thì đơn vị được mua sắm một số dự phòng cho khi làm những công việc đó, như
áo mưa, ủng cách điện, v.v...
5. Đối với những công
việc không gây nhiễm độc và nguy hiểm mà chỉ làm trong một thời gian ngắn, sau
đó lại đi làm việc khác, nếu chưa trang bị đầy đủ cũng không gây ra tai nạn thì
không nhất thiết phải trang bị đầy đủ theo tiêu chuẩn quy định (như: quần áo,
mũ, áo mưa, yếm vệ sinh v.v...) nhưng đối với những công việc dễ nhiễm độc,
nhiễm trùng hoặc nguy hiểm đến tính mạng công nhân, thì mặc dù chỉ làm trong
một thời gian ngắn, công nhân phải được trang bị đầy đủ dụng cụ phòng hộ theo
tiêu chuẩn quy định như: công nhân làm việc trên cao phải có dây an toàn, lặn
dưới nước phải dây an toàn và đồ lặn, trực tiếp với điện phải có trang bị an
toàn về điện.
C. ĐỐI TƯỢNG KHÔNG
ĐƯỢC TRANG BỊ HAY CHO MƯỢN:
1. Công nhân viên
chức ở các xí nghiệp, cơ sở trực tiếp sản xuất nhưng công tác không ở trong
điều kiện nói trên thì không được trang bị.
2. Những người hợp
đồng làm khoán tự do theo một khối lượng công việc nhất định xong rồi thì thôi,
hưởng một số tiền do hai bên thỏa thuận. Những người nhận làm khoán gia công ký
hợp đồng giao nguyên liệu. Những người làm khoán hưởng theo giá cước; ba loại
này, tuy ta không quản lý nhân lực và kỹ thuật, nhưng trong khi ký hợp đồng với
họ đều phải ghi rõ vấn đề an toàn lao động, để các tổ chức làm khoán ấy có
trách nhiệm thi hành cho đúng đồng thời xí nghiệp cũng có trách nhiệm giúp đỡ
họ về mặt tổ chức và đôn đốc kiểm tra hướng dẫn việc thực hiện an toàn lao
động.
II. NGUYÊN TẮC SỬ
DỤNG GIỮ GÌN BẢO QUẢN
A. NGUYÊN TẮC SỬ
DỤNG:
1. Cá nhân, tổ, bộ
phận được cấp phát hoặc được mượn dụng cụ trang bị phòng hộ đều bắt buộc phải
sử dụng trong khi làm việc và chỉ được sử dụng những dụng cụ đó trong khi làm
việc chung.
2. Những dụng cụ
phòng hộ cấp phát cho công việc nào thì chỉ dùng cho công việc ấy. Nhất thiết
không được dùng chung lẫn lộn, vì dụng cụ ấy chỉ có một tác dụng nhất định. Ví
dụ: không thể dùng ủng đi mưa vào việc cách điện, dùng găng tay cao su vào việc
kéo dây cáp, v.v... Mặt khác cũng không được dùng giày, ủng và áo quần mang đi
phố.
3. Đơn vị khi mua sắm
phải theo đúng quy cách, mẫu mực, phẩm chất dụng cụ dùng cho từng công việc, cá
nhân hay bộ phận được trang bị, không được tự ý thay đổi sửa chữa hay cho mượn
đổi lẫn với nhau.
4. Người đã được cơ
quan trang bị cá nhân hay cho mượn dụng cụ phòng hộ, khi làm việc mà không sử
dụng trang bị phòng hộ thì những người có trách nhiệm bảo đảm an toàn có quyền
yêu cầu phải mang dụng cụ phòng hộ mới được làm việc, nếu không nghe thì có
quyền đình chỉ công tác và báo cáo lên giám đốc và Ban bảo hộ lao động của xí
nghiệp cơ quan.
5. Khi giao dụng cụ
phòng hộ cho công nhân sử dụng cần được hướng dẫn cách bảo quản giữ gìn, nếu
dụng cụ nào sử dụng chưa thành thạo cần hướng chu đáo.
6. Những người làm
việc đã được trang bị phòng hộ, nếu đổi sang làm việc khác không có tiêu chuẩn
trang bị thì phải trả lại. Nếu sang làm công việc mới phải trang bị thêm hay
rút bớt đều được cấp thêm hay rút bớt. Trường hợp đổi công tác từ cơ sở này
sang cơ sở khác nhưng cùng trong một xí nghiệp, Sở, Ty nếu được ban giám đốc
đồng ý thì được mang đi theo và ghi vào sổ cấp phát để đơn vị mới theo dõi, nếu
là đơn vị, phân xưởng hạch toán thì không thể mang đi được.
7. Khi muốn được lĩnh
dụng cụ mới, do hết thời hạn sử dụng mà đã rách, hay vì rách nát do phẩm chất
kém hoặc lý do khác chính đáng thì phải nạp cái cũ lại, mới được cấp phát.
Nhưng không phải vì thế mà làm trở ngại cho việc đảm bảo an toàn, kể cả trường
hợp làm mất chưa xử lý xong. Thủ kho có nhiệm vụ bảo quản dụng cụ đã hư hỏng
sau bán lại cho công ty phế phẩm chế biến.
B. NGUYÊN TẮC GIỮ GÌN
BẢO QUẢN
1. Dụng cụ phòng hộ
là tài sản chung của Nhà nước, không phải của phúc lợi tập thể của công nhân,
nhưng tùy theo yêu cầu của công việc phải làm thường xuyên hay bất thường, tùy
theo điều kiện làm việc và tính chất của mỗi loại nghề nghiệp mà giao hẳn hay
tạm thời cho cá nhân hay bộ phận sử dụng. Cho nên cá nhân hay bộ phận đó có
trách nhiệm giữ gìn bảo quản sử dụng đó.
2. Để đảm bảo chất
lượng của dụng cụ phòng hộ, như dụng cụ dùng vào việc cách điện, đề phòng nhiễm
độc, dây an toàn, phao an toàn, v.v... Các đơn vị sử dụng cần kiểm tra thử
nghiệm trước khi cấp phát cho công nhân, đồng thời định kỳ kiểm tra và thử lại
sau từng thời gian sử dụng, nhưng tốt nhất trước khi sử dụng công nhân phải
kiểm tra xem xét chu đáo các dụng cụ phòng hộ lao động.
3. Những tổ, bộ phận
được trang bị dụng cụ phòng hộ dùng chung, tùy theo từng tổ, bộ phận phải quy
định có một nơi để như giá treo hay tủ để dụng cụ và giao trách nhiệm cho từng
người phải thực hiện những quy định đó. Chỗ để cần chọn nơi nhiệt độ trung
bình, khô ráo, thoáng khí để tránh ẩm ướt, mối, chuột hoặc han rỉ (nếu là bằng
kim loại), phải phân công giặt rũ bảo quản chu đáo.
4. Những dụng cụ mới
rách hoặc hư hỏng nhẹ, cá nhân hay bộ phận phải tự sửa chữa lấy. Cơ quan, xí
nghiệp chịu trách nhiệm sửa chữa những dụng cụ phòng hộ rách nhiều hoặc hư hỏng
nặng mà cá nhân hay bộ phận không đủ điều kiện sửa chữa.
5. Dụng cụ phòng hộ
và quần áo dùng để làm việc ở những nơi do bẩn gây nhiễm trùng, nhiễm độc đối
với cơ thể công nhân, phải định kỳ khử độc bằng phương pháp sấy hoặc tẩy nấu ở
nhiệt độ cần thiết.
6. Để cho việc bảo
quản và sử dụng tốt, những người thay đổi công tác khác phải nạp lại dụng cụ
phòng hộ, trước khi nạp giao cho thủ kho bảo quản phải giặt rũ lau chùi sạch
sẽ.
III. HÌNH THỨC KHEN
THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
Để mọi người có ý
thức sử dụng và giữ gìn dụng cụ phòng hộ được tốt, tránh lãnh phí cho công quỹ,
dựa trên tiêu chuẩn đã quy định thời gian sử dụng. Đối với cá nhân hoặc tổ chức
bộ phận có ý thức bảo vệ tốt dụng cụ phòng hộ, cần có sự động viên khuyến
khích. Đối với cá nhân hay bộ phận kém ý thức bảo vệ làm hư hỏng mất mát thì
cần có xử lý và bồi thường.
a) Để khuyến khích
những cá nhân hay đơn vị có thành tích trong việc sử dụng và giữ gìn dụng cụ
phòng hộ, hàng năm xí nghiệp được trích một khoản tiền bằng từ 20%-30% trong
giá trị tiết kiệm được của những dụng cụ phòng hộ do anh em đã sử dụng lâu hơn
thời gian quy định, để thưởng cho cá nhân hay đơn vị có ý thức tiết kiệm, giữ
gìn tốt trang bị đó (mua vật kỷ niệm tặng) đồng thời được tính một tiêu chuẩn
trong việc bình bầu thi đua của năm đó (tùy theo lớn hay nhỏ). Nhưng phải hết
sức chú ý đến bảo đảm an toàn, không phải vì tiết kiệm mà không sử dụng dụng cụ
phòng hộ trong khi làm việc, để kéo dài được thời gian sử dụng, gây tai nạn lao
động.
b) Trường hợp làm mất
mát hoặc hư hỏng nặng dụng cụ phòng hộ mà không có lý do chính đáng thì đơn vị
xí nghiệp tùy theo lỗi nặng nhẹ (một lần hay nhiều lần, vô tình hay cố ý) mà xử
trí thích đáng bằng biện pháp hành chính, từ phê bình, cảnh báo, bồi thường
bằng tiền (áp dụng nguyên tắc bồi thường, khi cán bộ công nhân viên chức làm
mất tiền hay đồ vật của Nhà nước, quy định tại công văn số 1076-TN ngày
14-03-1958 của Thủ tướng) theo giá trước khi mất hoặc hư hỏng. Việc xử lý này
cấp phụ trách đơn vị xí nghiệp quyết định với sự thỏa thuận của Công đoàn cùng
cấp. Tùy theo số tiền bồi thường có ảnh hưởng tới sinh hoạt công nhân nhiều hay
ít mà trừ dần vào lương hàng tháng, nhưng mỗi lần không trừ quá 20% tiền lương
và phụ cấp bản thân của người công nhân viên chức.
IV. TRÁCH NHIỆM THI
HÀNH CHẾ ĐỘ TRANG BỊ PHÒNG HỘ
1. Cơ quan cấp phát
có nhiệm vụ thi hành những điểm quy định trong thông tư này, tập hợp ý kiến,
nghiên cứu đề nghị lên Tổng cục cần bổ sung thêm bớt hoặc sửa đổi cho sát để
thích hợp với nghề sản xuất.
2. Căn cứ vào những
điều đã quy định trong thông tư này và tình hình cụ thể của đơn vị, xí nghiệp
mình mà xây dựng nội quy sử dụng, bảo quản cấp phát, theo dõi kiểm tra và thu
hồi. Đề ra kế hoạch tuyên truyền, giáo dục, khen thưởng, kỷ luật. Các bản nội
quy này cần được sư tham gia ý kiến của công đoàn cùng cấp rồi tổ chức cho công
nhân viên chức học tập và thực hiện.
3. Hàng năm các Sở,
Ty, xí nghiệp, trường, trạm lập kế hoạch sản xuất đồng thời lập kế hoạch bảo hộ
lao động (thiết bị an toàn, vệ sinh công nghiệp, tuyên truyền giáo dục và dự
trù trang bị phòng hộ) trong đó có dự trù trang bị phòng hộ lao động gửi tới Ty
thương nghiệp địa phương, đối với các mặt hàng trong nước. Đối với các mặt hàng
nhập ngoại thì gửi lên trạm vật tư của Tổng cục, để tập hợp yêu cầu xin ngoại
tệ và ký hợp đồng với ngoại thương. (Để có hàng hóa dụng cụ phòng hộ cho năm
sau thì tháng chín năm trước phải làm bản dự trụ gửi đến các Ty thương nghiệp
địa phương, đối với hàng xuất trong nước. Còn hàng nhập ngoại thì phải làm dự
trù tháng bảy năm trước gửi về trạm vật tư mới kịp tập hợp lập kế hoạch và ký
hợp đồng với Ngoại thương),
4. Thực hiện tốt công
tác bảo hộ lao động để nhằm đảm bảo an toàn lao động xuất là nhiệm vụ chung của
cán bộ công nhân viên chức trong đơn vị, xí nghiệp, chính quyền phối hợp chặt
chẽ với Công đoàn và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh niên lao động, dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Để đảm bảo sự lãnh đạo thực hiện công tác bảo hộ lao động
được tốt, cần quy định trách nhiệm cụ thể như sau:
- Tổ chức, lao động
nhân lực có kế hoạch nhân lực trong đơn vị xí nghiệp theo yêu cầu phát triển
sản xuất hàng năm;
- Cán bộ nghiệp vụ kỹ
thuật và chuyên trách công tác bảo hộ lao động căn cứ vào chế độ quy định và
tình hình nghề nghiệp, tính chất sản xuất, cùng với Công đoàn y tế hướng dẫn
cho các đơn vị sản xuất, đề xuất các yêu cầu về thiết bị an toàn, vệ sinh công
nghiệp, tuyên truyền giáo dục và xây dựng nội quy, tổ chức màng lưới an toàn
viên, dự trù phòng hộ lao động, đôn đốc kiểm tra thực hiện, nghiên cứu đề nghị
bổ sung chính sách, đề nghị kỷ luật khen thưởng trong việc sử dụng bảo quản
dụng cụ bảo hộ lao động và việc chấp hành nội quy an toàn trong xí nghiệp.
Riêng phần kỹ thuật còn nghiên cứu cải tiến thiết bị an toàn, vệ sinh công
nghiệp và dụng cụ phòng hộ cho thích hợp với yêu cầu sản xuất và thiết kế các
bộ phận đó;
- Cán bộ kế hoạch và
tài vụ của các đơn vị, xí nghiệp tập hợp yêu cầu của các bộ phận lập kế hoạch
bảo hộ lao động cùng với kế hoạch sản xuất, trình lên cấp trên xét duyệt, xin
kinh phí để thực hiện các kế hoạch đó;
- Cán bộ cung ứng căn
cứ vào kế hoạch đã được xét duyệt lập dự trù, mua sắm gửi đến Ty thương nghiệp
địa phương và trạm vật tư của Tổng cục (có hợp đồng cụ thể). Mua sắm, bảo quản,
cấp phát, thu hồi, sửa chữa và hướng dẫn công nhân sử dụng dụng cụ phòng hộ.
Khi cấp phát phải có sổ theo dõi và thống kê số tiết kiệm.
5. Lề lối làm việc:
Khi có một công nhân mới tuyển hoặc nơi khác chuyển đến thì tổ chức nhân lực
sắp xếp rồi, cán bộ bảo hộ lao động phổ biến hướng dẫn quy tắc an toàn của công
việc đó, rồi giới thiệu sang cung ứng cấp phát trang bị phòng hộ và giao xuống
tổ sản xuất giáo dục nội quy an toàn. Nếu công nhân chuyển đi nơi khác phải bảo
đảm khi cung ứng thu hồi lại dụng cụ phòng hộ, khi đó tổ chức nhân lực mới
quyết định đi.
V. PHẠM VI ÁP DỤNG
Những nguyên tắc và
tiêu chuẩn quy định trang bị phòng hộ nói trong thông tư này được áp dụng trong
các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh, công trường các đơn vị kinh doanh
và sự nghiệp, các trạm nghiên cứu nuôi cá, đánh cá, các trường kỹ thuật cơ khí
hàng hải, trung cấp thủy sản, có công nhân viên chức, học sinh, sinh viên làm
các công việc có những điều kiện nói ở mục 1 (điểm A và B) không phân biệt là
quốc doanh trung ương hay địa phương.
Thông tư này thay thế
các Thông tư số 16 NL-TT ngày 24-9-1959 của Bộ Nông lâm cũ công văn số
368-TS-LĐTL ngày 11-4-1962 của Tổng cục quy định tạm thời cho các xí nghiệp và
trường chuyên nghiệp của Tổng cục Thủy sản.
Kèm theo thông tư này
có bản quy định tiêu chuẩn trang bị phòng hộ cho các loại công nhân viên chức
trong ngành.
Thông tư này có hiệu
lực thi hành kể từ ngày ký.
Để việc thi hành chế
độ này có kết quả tốt. Tổng cục yêu cầu các cấp, các đơn vị, xí nghiệp tăng
cường hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục ý thức đề phòng tai nạn và sử dụng
trang bị phòng hộ trong quần chúng công nhân, tăng cường kiểm tra đôn đốc việc
thực hiện, đồng thời thu thập kinh nghiệm và cách giải quyết khó khăn phản ảnh
với Tổng cục để nghiên cứu bổ sung hoặc sửa đổi cho thích hợp với yêu cầu trang
bị bảo hộ lao động trong ngành thủy sản.
|
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC THỦY SẢN
TỔNG CỤC PHÓ
Nguyễn Cao Đàm
|