SẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 29
NGÀY 12 THÁNG 3 NĂM 1947
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ
Chiểu Sắc lệnh số 64 ngày 8
tháng 3 năm 1946 tổ chức các cơ quan lao động;
Chiểu Nghị định số 1 ngày 1
tháng 10 năm 1945 sửa đổi bởi Nghị định số 5 ngày 23 tháng 11 năm 1945 của Bộ
trưởng Bộ Lao động về thời hạn báo trước khi thải hồi công nhân;
Chiểu Nghị định số 2 ngày 1
tháng 10 năm 1945 sửa đổi bởi Nghị định số 4 ngày 12 tháng 10 năm 1945 của Bộ
trưởng Bộ Lao động về phụ cấp thâm niên;
Chiểu Sắc lệnh số 55 ngày 20
tháng 4 năm 1945 về việc cho các công nhân được nghỉ mà được ăn lương ngày lễ
lao động mùng 1 tháng 5;
Chiểu lời đề nghị của Bộ trưởng
Bộ Lao động;
Sau khi các nguyên tắc đã được
Quốc hội thông qua;
Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp,
RA
SẮC LỆNH:
Chương thứ
nhất
TỔNG LỆ
Điều thứ nhất
Mục đích Sắc lệnh này là để qui
định trong toàn cõi Việt Nam những sự giao dịch về việc làm công, giữa các chủ
nhân, người Việt Nam hay người ngoại quốc và các công nhân Việt Nam làm tại các
xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do.
Riêng chế độ thi hành cho công
nhân đồn điền, công nhân nông nghiệp, các người làm với tư gia (gia nhân), công
nhân làm việc cho Chính phủ sẽ do những Sắc lệnh quy định sau.
Điều thứ 2
Phàm công việc cưỡng bách thì
cấm hẳn, trừ khi có lệnh trưng tập của Chính phủ.
Công việc cưỡng bách là những
công việc người ta không thuận làm mà bị ép phải làm.
Điều thứ 3
Cấm hẳn những sự mộ nhân công
theo cách thức dụ dỗ hoặc cưỡng bách.
Điều thứ 4
"Công nhân" là người
làm thuê với một người chủ để lấy tiền và thuộc quyền điều khiển của người chủ.
Công nhân gồm có: thợ, gia nhân,
người làm công và phu.
Điều thứ 5
"Thợ" là những người
có nghệ, làm việc thủ công hay việc gì khác cho chủ.
Điều thứ 6
"Gia nhân" là những
người mà chủ thuê để giúp việc trong nhà.
Điều thứ 7
"Người làm công" là
những người không làm việc thủ công mà chủ mượn để giúp mình về công việc
thương mại, kỹ nghệ, nông lâm hay nghề tự do.
Điều thứ 8
"Phu" là người làm
việc bằng tay mà không chuyên một nghề rõ rệt.
Điều thứ 9
"Nhà tiểu công nghệ"
(hay thủ công nghệ) là người dùng thủ Công làm lấy cho mình, hay làm thuê cho
người khác hoặc làm ở nhà mình, hoặc làm ở nơi khác, bất cứ dùng máy hay không,
có cửa hàng, biển hiệu hay không, chuyên bán những hoá phẩm tự mình làm ra,
hoặc làm một mình, hoặc có vợ con, thợ bạn hay thợ học nghề giúp việc.
Số thợ bạn và thợ học nghề của
một nhà thủ công nghiệp hạn định không bao giờ được quá mười người.
Điều thứ 10
"Thợ học nghề" là
người mà chủ đã nhận dạy cho biết nghề và đã cam đoan làm cho chủ, tuỳ theo
những điều kiện và thời hạn mà đôi bên đã thoả thuận.
Chương thứ
hai
SỰ HỌC NGHỀ
Điều thứ 11
Tính cách "thợ học
nghề" định bởi:
1- Tuổi của người tình nguyện
học nghề
2- Sự thuận nhận của chủ cho học
nghề.
Điều thứ 12
Không được dùng trẻ con dưới 12
tuổi (tính theo dương lịch) làm thợ học nghề. Đến 18 tuổi phải kể là thợ chính
thức, trừ những trường hợp nói ở Điều thứ 14 dưới đây.
Điều thứ 13
Những thợ học nghề từ 16 đến 18
tuổi không có khế ước, hay có khế ước mà không ấn định học nghề, nếu tự xét
mình đã lành nghề mà chủ không chịu công nhận như vậy, có thể xin Ty Lao động
địa phương đưa ra một hội đồng chuyển nên khảo xét. Nếu được hội đồng công nhận
đã đủ tư cách, thì chủ phải nhận là đã thành thợ.
Qui tắc việc lập hội đồng khảo
xét này do Bộ trưởng Bộ Lao động định sau.
Điều thứ 14
Chủ cũng phải đưa ra hội đồng
khảo xét nói trên những người học nghề, không có khế ước, quá 18 tuổi mà chủ
không công nhận là lành nghề.
Nếu hội đồng xét quả thật chưa
lành nghề, thì những người ấy chưa được coi là thợ.
Những người học nghề mặc dầu quá
18 tuổi mà chưa học hết thời hạn đã định trong khế ước, cũng chưa được kể là
thợ.
Những người quá 18 tuổi, muốn
học nghề và được chủ thuận nhận, cũng phải xin phép hội đồng khảo xét nói trên.
Hội đồng này sẽ cấp giấy phép nếu xét không có sự gian lậu.
Điều thứ 15
Trừ các xưởng tiểu công nghệ, Số
thợ học nghề trong xí nghiệp không được quá một phần tư tổng số thợ kể cả thợ
học nghề.
Điều thứ 16
Bắt buộc các hãng kỹ nghệ, hầm
mỏ hay thương điếm nào dùng từ 30 người thợ chuyên nghiệp trở lên phải dậy một
số thợ học nghề bằng 1 phần 10 số thợ chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, nếu xí nghiệp nào
muốn xin miễn điều bắt buộc này thì phải làm đơn, nói rõ lý lẽ, gửi đến ty Lao
động địa phương. Ty này xét song sẽ trình bầy ý kiến lên Bộ trưởng Bộ Lao động
để định đoạt, sau khi hỏi ý kiến các cơ quan chuyên môn.
Điều thứ 17
Nếu số thợ học nghề quá 30
người, thì phải mở lớp tu nghiệp.
Chương trình những lớp học này
sẽ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục ấn định.
Chương thứ
3
KHẾ ƯỚC LÀM CÔNG
TIẾT THỨ NHẤT
TỔNG LỆ
Điều thứ 18
Khế ước làm công phải theo dân
luật. Chủ và công nhân có thể giao kết bằng miệng, hoặc ký kết trên mặt giấy.
Khi viết thành giấy, thì được miễn tem và thuế trước bạ. Khế ước có thể lặp
theo tục lệ địa phương. Nếu chỉ giao kết bằng miệng thì như chủ với công nhân
đã theo những điều khoản ấn định trong Sắc lệnh này và những tục lệ riêng của
nơi sở tại.
Điều thứ 19
Chủ chỉ có thể thuê công nhân
trong một thời hạn, hay để làm một việc gì nhất định.
Điều thứ 20
Nếu như không có ước định trước,
thời hạn làm việc sẽ theo tục lệ nơi sở tại.
Điều thứ 21
Các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ và
thương điếm dùng quá 25 công nhân phải lập một bản nội quy.
Bản nội qui định thể lệ về cách
tổ chức làm việc, về việc giữ trật tự, kỷ luật, vệ sinh và bảo an trong sở, về
cách tuyển người làm, cách tính và trả tiền công, về thời hạn báo trước khi bị
sa thải hay xin thôi vệc, về điều kiện nghỉ hàng tuần, v.v...
Điều thứ 22
Phải đem trình các nội qui ấy
cho Sở thanh tra lao động duyệt y. Mỗi khi có sửa đổi điều gì, cũng phải đem
duyệt y lại. Những điều khoản của nội qui đưa trình phải hợp với luật lệ lao
động hiện hành.
Nội qui đã duyệt y phải niêm yết
bằng tiếng Việt Nam tại nơi làm việc, cửa hàng, nơi trả tiền công và nơi tuyển
người làm.
Điều thứ 23
Đối với việc làm công không định
hạn thì chủ và thợ, bất cứ lúc nào, cũng có thể tự mình thôi được. Nhưng phải
báo trước trong thời hạn và trường hợp do Bộ trưởng Bộ Lao động ấn định.
Điều thứ 24
Bên nào tự ý bãi khế ước có thể
phải bồi thường cho bên kia.
Tiền bồi thường về sự tự ý bãi
khế ước khác hẳn với tiền bồi thường vì không tuân hạn báo trước. Việc đòi tiền
bồi thường này sẽ đưa ra Toà sơ cấp hay đệ nhị cấp tuỳ theo thẩm quyền định
trong hệ luật. Toà án có thể điều tra về trường hợp của sự quá hạn bãi bỏ khế
ước ấy. Bất cứ trong trường hợp nào, bản án cũng phải ghi rõ duyên cớ của bên
bãi khế ước đã viện ra.
Khi có sự thay đổi về phương
diện pháp luật của xí nghiệp, nhất là khi có sự kế thừa, bán chác, hợp vốn, cải
cách hình thức, v.v... thì chủ mới phải thi hành cho xong khế ước của chủ cũ.
Muốn kiện về việc bãi khế ước
thì phải nộp đơn trong hạn 6 tháng kể từ ngày bãi khế ước.
Chủ hãng nào thôi không kinh
doanh nữa, vẫn phải tuân lệ báo trước.
Điều thứ 25
Chủ và thợ, không được cam kết
trước sẽ không đòi những tiền bồi thường nói trong Điều thứ 24. Về phương diện
pháp luật, những tiền bồi thường ấy, đối với công nhân, được coi như tiền
lương. Những chủ nợ, kể cả chủ người công nhân bị thải, chỉ được trừ nợ theo
như dân luật.
Những tiền bồi thường đó cũng
được hưởng ưu tiên quyền do dân luật ấn định cho lương công nhân.
Điều thứ 26
Khi một công nhân tự ý bãi khế
ước một cách quá lạm để đi làm với một chủ khác thì người chủ mới này phải liên
đới với người công nhân ấy bồi thường cho người chủ cũ trong 3 trường hợp sau
đây:
1- Khi xét đích là người chủ mới
có can dự vào sự thôi việc
2- Khi người chủ mới rủ người
công nhân về làm với mình, tuy đã biết người ấy đương có khế ước làm với chủ
khác.
3- Khi người chủ mới cứ mượn
người công nhân mặc dầu biết khế ước của người này với chủ cũ chưa hết hạn.
Tuy nhiên trong trường hợp thứ
ba này người chủ mới không phải chịu trách nhiệm, nếu, đối với khế ước không có
định hạn, khi biết tin thì hạn báo trước đã qua.
Điều thứ 27
Công nhân thôi làm cho chủ, hay
đã hết hạn khế ước, có quyền xin chủ cấp cho một tờ chứng chỉ biên ngày đến
làm, ngày thôi việc và công việc đã làm. Trong giấy chứng, chủ không được phê
bình điều gì có hại đến sinh kế của công nhân. Nếu chủ không chịu cấp giấy ấy,
công nhân có thể đòi bồi thường.
Giấy chứng nói trên được miễn
tem và trước bạ.
Điều thứ 28
Khi chủ hay một công nhân bị gọi
ra chịu huấn luyện quân sự, hay làm phận sự binh bị trong một thời hạn, thì khế
ước làm công không được vì lẽ ấy mà bãi bỏ.
Điều thứ 29
Nếu vì một duyên cớ chính đáng
mà muốn bãi khế ước thì thời gian chịu huấn luyện quân sự hay làm phận sự binh
bị không được tính vào thời hạn báo trước.
Trừ khi công việc nói trong khế
ước là một công việc tạm thời và đã hết hạn trong lúc chủ hay công nhân đương
chịu huấn luyện quân sự hoặc làm phận sự binh bị.
Điều thứ 30
Bên nào không tuân theo hai Điều
28 và 29 phải bồi thường cho bên bị thiệt hại.
Điều thứ 31
Chủ không được phép bãi khế ước
của người công nhân đàn bà nào đình việc luôn 8 tuần lễ trong thời kỳ thai sản.
Công nhân đàn bà đau ốm vì có thai, hay đau ốm vì sinh đẻ có thể nghỉ lâu hơn
thời hạn nói trên, nhưng không quá 12 tuần lễ. Chủ cũng không được phép vì thế
mà bãi khế ước. Trái lệnh này, người công nhân đàn bà có quyền đòi bồi thường.
Công nhân đàn bà phải báo trước
cho chủ biết duyên cớ mình nghỉ việc: chủ có thể nhờ thầy thuốc xét xem có đích
thực không.
Khế ước nào trái với lệ nói trên
đều vô hiệu.
TIẾT THỨ HAI
SỰ BAO KHOÁN
(Nói
về cai khoán)
Điều thứ 32
"Cai khoán" là người
thầu lại với người thầu khoán chính, người chủ công nghệ, v.v..., để cung cấp
công nhân, vật liệu hay để làm một công tác đã định.
Người cai khoán phải đối đãi với
công nhân đúng theo các điều khoản định trong Sắc lệnh này.
Điều thứ 33
Chủ có bổn phận bắt buộc cai
khoán niêm yết tại các xưởng, cửa hàng hay công trường những điều này:
a) Lương tối thiểu hiện thi hành
trong miền đó,
b) Lương mà cai khoán trả cho
công nhân theo từng hạng hay từng việc làm.
Nếu những nơi làm việc nói trên
không thuộc của chủ chính thì người cai khoán, ngoài 2 điều nói trên, phải yết
thêm tên và chỗ ở của người chủ chính. Người cai khoán phải nộp cho người chủ
chính một tờ nhận thực đã thi hành các khoản trên. Người chủ chính phải gửi một
bản sao lại cho ty Lao động địa phương.
Điều thứ 34
Người chủ chính phải thế người
cai khoán trả cho công nhân tiền lương, các khoản phụ cấp, tiền bồi thường mà
họ được hưởng theo SSắc lệnh này, nếu người cai khoán không thể trả được.
Người chủ chính phải chịu trách
nhiệm theo Bộ luật về việc người cai khoán không thi hành những điều bắt buộc
trong Sắc lệnh này.
Nếu có công nhân nào khiếu nại
người cai khoán, thì người chủ chính phải báo cho Ty Lao động địa phương biết.
Điều thứ 35
Những xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ,
thương điếm và những công trường nào dùng cai khoán đều phải có bản danh sách
và địa chỉ những người ấy để trình cho nhân viên kiểm soát của Ty Lao động.
Điều thứ 36
Cấm hẳn chế độ ăn công làm
khoán. Theo chế độ này người công nhân bắt buộc phải làm xong một công việc đã
định nới được cả số lương hàng ngày.
TIẾT THỨ BA
NÓI VỀ TẬP HỢP KHẾ ƯỚC
Điều thứ 37
Tập hợp khế ước là những khế ước
lập ra để ấn định những quy tắc làm việc và tiền lương chung cho từng nghề,
từng xí nghiệp hay từng địa phương, do sự thoả thuận của chủ hay đại biểu chủ
và công nhân hay đại biểu công nhân.
Điều thứ 38
Đại biểu công đoàn không cần có
giấy uỷ quyền riêng của đoàn viên cũng có thể thay mặt họ mà ký tập hợp khế ước.
Nếu không có công đoàn, thì đại
biểu công nhân phải có giấy uỷ quyền rõ ràng của những người mình thay mặt, mới
có thể ký tập hợp khế ước được. Đại biểu chủ cũng phải có giấy uỷ quyền của
những người chủ mà mình thay mặt mới ký tập hợp khế ước được.
Điều thứ 39
Tập hợp khế ước bắt buộc phải
viết thành giấy, nếu không, sẽ vô hiệu. Phải đưa nộp 2 bản chính tập hợp khế
ước đã ký: một bản tại phòng lục sự toà án tỉnh, một bản tại Ty Lao động tỉnh,
ở tại tỉnh mà hai bên đã ký kết.
Phòng lục sự sẽ phát biên lai.
Hai mươi bốn giờ sau ngày phòng lục sự đã nhận được bản chính, tập hợp khế ước
sẽ có hiệu lực.
Điều thứ 40
Trong những tập hợp khế ước ký
kết giữa đại biểu chủ và công nhân nhiều xí nghiệp phải định rõ phạm vi thi
hành của bản giao kèo ấy. Bằng không, tập hợp khế ước sẽ thi hành trong khu vực
thẩm quyền của toà án mà phòng lục sự đã nhận được một bản chính.
Tập hợp khế ước nào sẽ thi hành
trong phạm vi nhiều tỉnh, thì phải nộp theo cách thức ở Điều 39 tại phòng lục
sự và Ty Lao động những tỉnh ấy.
Điều thứ 41
Tập hợp khế ước có thể ký:
1- Để thi hành trong một thời
hạn mà hai bên đã định rõ. Thời hạn này không bao giờ được quá 3 năm.
2- Để làm một công việc nhất
định.
Nếu không có định rõ thời hạn
thi hành thì lúc nào cũng có thể xin huỷ bỏ tập hợp khế ước. Nhưng bên muốn xin
huỷ tập hợp khế ước phải cho bên cùng ký khế ước và phòng lục sự đã nhận tập
hợp khế ước, biết trước một tháng. Tập hợp khế ước nào đã hết hạn mà chủ và
công nhân chưa thủ tiêu, hay sửa chữa, thì vẫn tiếp tục thi hành sáu tháng sau.
Hết hạn này, tập hợp kế ước sẽ coi như là một tập hợp khế ước không có định hạn.
Điều thứ 42
Đối với tập hợp khế ước không
định hạn, mà lại không định rõ cách thức sửa đổi, thì bất cứ lúc nào chủ hoặc
thợ đều có thể yêu cầu Ty Lao động cho triệu tập hai bên để sửa đổi.
Ty Lao động xét nếu những cớ
viện ra không được chính đáng, có thể bác bỏ yêu cầu.
Điều thứ 43
Công đoàn, đại biểu có giấy uỷ
quyền của chủ hay công nhân nếu muốn dự vào một tập hợp khế ước nào đang thi
hành thì cứ khai ý muốn ấy tại Phòng Lục sự Toà án đã nhận bản chính của tập
hợp khế ước đó. Tập hợp khế ước này sẽ có hiệu lực đối với công đoàn, các chủ
hay công nhân mà đại biểu đã xin gia nhập, kể từ hôm sau ngày phòng lục sự nhận
được giấy khai.
Giấy khai này cũng phải nộp cho
Ty Lao động.
Điều thứ 44
Tập hợp khế ước có hiệu lực đối
với:
1- Tất cả đoàn viên công đoàn,
tất cả chủ mà đại biểu đã thấy ? ký kế.
Những đoàn viên nào không có xin
ra khỏi công đoàn và nếu ra khỏi công đoàn mà không có báo cho phòng lục sự
biết trong năm ngày sau ngày nộp tập hợp khế ước tại Phòng Lục sự, cũng phải
thi hành tập hợp khế ước.
2- Tất cả những đoàn viên công
đoàn mà đại biểu đã xin gia nhập tập hợp khế ước trong trường hợp nói ở Điều
43. Cũng trong trường hợp này, đoàn viên nào không xin ra khỏi công đoàn và nếu
ra khỏi công đoàn mà không có báo cho phòng lục sự biết, trong thời hạn 5 ngày,
sau hôm phòng lục sự nhận được giấy khai xin gia nhập của đại biểu đoàn mình,
thì cũng phải thi hành tập hợp khế ước.
3- Tất cả những người đã gia
nhập sau vào công đoàn mà đại biểu đã ký tập hợp khế ước.
4- Những chủ mà đại biểu đã ký
tập hợp khế ước nếu những người ấy không khai trong hạn 5 ngày với phòng lục sự
rằng mình không thuận sự ký kết tập hợp khế ước.
5- Những chủ lấy tư cách cá nhân
đã ký kết.
6- Những chủ đã xin gia nhập sau
vào tập hợp khế ước trong trường hợp nói ở Điều 43.
Điều thứ 45
Những giao kèo ký kết riêng giữa
những người thuộc phạm vi thi hành một tập hợp khế ước không được trái với tập
hợp khế ước. Điều khoản nào trái với tập hợp khế ước sẽ coi như vô hiệu. Nếu
điều khoản trái này là điều khoản cốt yếu thì cả giao kèo đó coi như vô hiệu.
Điều thứ 46
Những người hay đoàn thuộc phạm
vi thi hành tập hợp khế ước không được làm việc gì tổn thương đến sự thi hành
thành thực tập hợp khế ước.
Những người hay đoàn có tư cách
pháp nhân bị thiệt hại có thể kiện những người hay đoàn có những hành vi tổn
hại nói trên để đòi bồi thương. Những đoàn có thể kiện đòi bồi thường những
đoàn viên nào của mình có những hành vi ấy.
Điều thứ 47
Công đoàn có tư cách pháp nhân
có thể thay mặt một đoàn viên bị thiệt hại để kiện đòi bồi thường mà không cần
phải có giấy uỷ quyền. Chỉ phải báo trước và được sự ưng thuận của người ấy.
Người này vẫn có quyền tham dự vào việc kiện.
Điều thứ 48
Khi có những việc kiện tụng nói
ở 2 Điều trên những đoàn có tư cách pháp nhân cùng thuộc phạm vi thi hành tập
hợp khế ước với người hoặc đoàn đứng kiện hay bị kiện đều có thể tham dự vào
những việc kiện ấy.
Điều thứ 49
Trong tập hợp khế ước có thể
định sẽ để cho trọng tài xét xử những sự xích mích xẩy ra do việc thi hành khế
ước. Cách thức chọn trọng tài do hai bên thoả thuận định lấy, nhưng trọng tài
phải có quốc tịch Việt Nam.
Điều thứ 50
Nếu có người xin, những phòng lục
sự toà án có nhiệm vụ cho xem những tập hợp khế ước cùng những tờ khai đã nộp
nơi phòng ấy. Những phòng này có thể cấp những bản sao y bản chính.
Điều thứ 51
Nếu xét ra cần Bộ trưởng Bộ Lao
động có thể định rõ chi tiết việc thi hành những điều khoản trong tiết này.
TIẾT THỨ TƯ
TIỀN KÝ QUỸ ĐỂ BẢO ĐẢM CHO CHỦ TRONG NHỮNG VIỆC THÂU XUẤT
TIỀN BẠC
Điều thứ 52
Trong nghề nào mà công nhân phải
ký quỹ tiền thì số tiền đó phải nộp thẳng vào quỹ tạm ký của Công khố Quốc gia.
Người gửi tiền phải nói rõ ký quỹ cho chủ hay xí nghiệp nào. Quỹ nhận tiền sẽ
cấp giấy biên lai đề rõ số tiền gửi, người gửi và ký quỹ cho ai, hay cho xí
nghiệp nào.
Chủ không được trực tiếp hay
gián tiếp nhận và giữ tiền ký quỹ của công nhân.
Điều thứ 53
Khi muốn lấy một phần hay cả số
tiền ký quỹ ra, thì phải có chữ ký của cả chủ và công nhân.
Nếu công khố có cấp lãi cho số
tiền gửi thì công nhân được hưởng món lãi đó.
Điều thứ 54
Chủ được hưởng "ưu tiên
quyền" về số tiền ký quỹ. Nếu có sự bất đồng ý giữa chủ và công nhân về
tiền ký quỹ, thì phải khiếu nại tại Toà án.
Điều thứ 55
Nếu xét ra cần, Bộ trưởng Bộ Lao
động có thể định rõ chi tiết việc thi hành những điều khoản nói trong tiết này.
TIẾT THỨ NĂM
TIỀN CÔNG
1- TIỀN CÔNG TỐI THIỂU
Điều thứ 56
Tiền công nói trong tiết này là
tiền lương chính không kể các khoản phụ cấp, mà chủ đã hứa trả hay đã ghi trong
khế ước.
Không thể lấy cớ phải trả các
khoản phụ cấp, như phụ cấp thâm niên, phụ cấp gia đình, v.v... định trong sắc
lệnh này mà trừ một số tiền công đó.
Những phụ cấp hay tiền thưởng
đặc biệt như phụ cấp làm được nhiều việc và tiền chia lãi, sẽ trả ngoài số
lương chính.
Điều thứ 57
Công nhân đàn bà hay trẻ con mà
làm một công việc công nhân đàn ông đều được lĩnh tiền công bằng số tiền công
đàn ông.
Điều thứ 58
Tiền công tối thiểu là số tiền công
do chính phủ ấn định theo giá sinh hoạt, để một công nhân không chuyên nghiệp
sinh sống một mình, trong một ngày, ở một khu vực nhất định.
Điều thứ 59
Tiền công tối thiểu cốt để cho
các chủ lấy đó làm định lương cho các hạng công nhân. Bất luận trường hợp nào
không được trả lương công nhân ít hơn lương tối thiểu này sẽ định riêng cho
người nhớn và trẻ con dưới 15 tuổi hình thức nói ở điều sau.
Tiền công căn bản của công nhân
chuyên môn sẽ định trong các tập hợp khế ước.
Điều thứ 60
Nghị định Bộ trưởng Bộ Lao động
sẽ ấn định cách tổ chức các hội đồng có nhiệm vụ đề nghị số tiền công tối thiểu
cho từng khu vực. Những Hội đồng này mỗi năm ít ra họp một lần. Nếu có sự thay
đổi quan trọng về giá sinh hoạt, thì các Ty Thanh tra Lao động, theo lời đề
nghị của đại biểu chủ hay công đoàn, có thể triệu tập các hội đồng bất thường.
Bộ Lao động sẽ hỏi ý kiến Uỷ ban
hành chính kỳ về đề nghị của những Hội đồng nói trên trước khi ra nghị định ấn
định lương tối thiểu.
Điều thứ 61
Nếu làm khoán từng kiện, bất
luận là làm ở xưởng hay ở nhà, tiền công từng kiện phải tính thế nào cho một
người thợ trung bình làm trong một ngày, theo số giờ định trong luật, có thể
kiếm ít ra bằng số tiền công tối thiểu định ở các Điều trên.
Điều thứ 62
Tiền công tối thiểu phải niêm
yết luôn bằng tiếng Việt Nam tại các nơi làm việc, các phòng trả lương và tuyển
người làm.
Điều thứ 63
Các bản điều lệ cho đấu giá các
công tác công chính hoặc cho đấu giá việc cung cấp vật liệu cho Chính phủ phải
có những khoản bắt buộc người thầu khoán định rõ sự thi hành tập hợp khế ước và
lương tối thiểu cho công nhân.
Điều thứ 64
Nếu xét ra cần, Bộ trưởng Bộ Lao
động có thể định rõ chi tiết việc thi hành những điều khoản nói trong tiết này.
2- Việc trả
tiền công
Điều thứ 65
Tiền công của công nhân phải trả
bằng tiền tệ do pháp luật cho phép lưu hành. Điều khoản khế ước nào trái với lẽ
trên là vô hiệu.
Tuy nhiên, nếu được công nhân
ưng thuận, chủ có thể trả một phần tiền công bằng gạo hay hoá phẩm cần thiết
khác, theo giá của Chính phủ đã định. Nếu như không có giá của Chính phủ định,
thì phải theo giá hiện hành ở thị trường nơi sở tại.
Điều thứ 66
Tiền công tháng phải trả mỗi
tháng 2 kỳ, cách nhau 15 ngày.
Số tiền lĩnh lần đầu phải ngang
với số tiền công những ngày đã làm trong kỳ đầu, và có thể coi như tiền cho
mượn trước để tiện việc kế toán. Tiền công hàng tuần phải trả cuối tuần làm
việc.
Điều thứ 67
Cấm chế độ giảm tiền lương của
công nhân.
Nếu vô cớ mà chủ chậm trả tiền
công, thì Thanh tra Lao động sẽ can thiệp bắt chủ phải trả trong một thời hạn
nhất định. Nếu hết hạn mà vẫn chưa trả thì thanh tra lao động lập biên bản,
không phải lệ phí, đưa trình thẩm phán sơ cấp hoặc đệ nhị cấp tuỳ theo số tiền
công nhận trả. Thẩm phán sẽ xét theo thủ tục cấp thẩm. Khi nào cấp bách đặc
biệt, Thẩm phán đệ nhị cấp có thể ra lệnh thi hành mọi phương pháp bảo thủ
quyền lợi cho công nhân và có thể cử một người tạm quản lý công việc thay chủ.
Sau đó công nhân hoặc Thanh tra
Lao động thay mặt công nhân sẽ kiện trước toà án bắt chủ trả món tiền thiếu.
Điều thứ 68
Khi có sự khiếu nại về việc trả
tiền công thì chủ phải trình đủ giấy tờ, bằng chứng là mình đã trả rồi.
Điều thứ 69
Không được trả tiền công vào
ngày thợ được nghỉ.
Điều thứ 70
Không được chặn lại hay giam giữ
những số tiền trả các thầu khoán làm công việc công chính nếu số tiền ấy cần
dùng để trả lương cho công nhân.
Điều thứ 71
Tiền công của công nhân được
hưởng ưu tiên quyền định trong dân luật.
3- Việc phạt
và trừ tiền công
Điều thứ 72
Cấm phạt vào tiền công.
Điều thứ 73
Chủ cho công nhân vay tiền, hoặc
ứng tiền để cung cấp vật dụng cho công nhân, mỗi lần trừ không được quá một
phần mười (1/10) số lương tháng.
Tiền cho mượn, hoặc gạo, vải, có
thể trừ ngay, nếu như chủ trả trước tất cả tiền công của những việc đương làm.
TIẾT THỨ SÁU
PHỤ CẤP GIA ĐÌNH
Điều thứ 74
Tất cả công nhân đều được phụ
cấp gia đình.
Điều thứ 75
Những con ruột hay con nuôi đã
được công nhận hợp pháp, chưa tự kiếm ăn được, mà cha mẹ có phận sự phải nuôi,
đều được hưởng phụ cấp này.
Phụ cấp gia đình chỉ trả cho đến
hết năm 16 tuổi tính theo dương lịch. Tuy nhiên, trẻ nào đang học nghề theo
những pháp luật hiện hành, hay đang theo học chữ, hay vì tàn tật hoặc bệnh kinh
niên mà không tự kiếm ăn được thì sẽ được hưởng đến hết năm 18 tuổi.
Tiền phụ cấp này sẽ do Sắc lệnh
Chính phủ định sau.
Điều thứ 76
Phụ cấp gia đình sẽ trả cho
người cha hay mẹ đang phải nuôi con.
Nếu cha mẹ cùng đi làm, phụ cấp
gia đình sẽ trả cho người cha. Trừ khi hai vợ chồng đã ly dị thì phụ cấp sẽ trả
cho người nào phải nuôi con.
Nếu người cha mất đi, thất
nghiệp, hay coi như mất tích, thì người mẹ sẽ được lĩnh phụ cấp.
Điều thứ 77
Để trả khoản phụ cấp gia đình,
chủ phải đóng vào một quỹ do Sắc lệnh Chính phủ định sau, một số tiền tỷ lệ đối
với số tiền lương tổng cộng phải trả cho tất cả công nhân làm trong xí nghiệp.
Điều thứ 78
Tiền phụ cấp gia đình phải trả
đủ cho công nhân không được vì một lẽ gì mà phạm đến món tiền ấy.
Chủ cũng không được lấy cớ phải
trả phụ cấp gia đình mà giảm tiền lương của công nhân.
Điều thứ 79
Các chi tiết thi hành những điều
khoản nói trong tiết này sẽ do Sắc lệnh định sau.
TIẾT THỨ BẢY
PHỤ CẤP THÂM NIÊN
Điều thứ 80
Công nhân Việt Nam, phải được chủ trả phụ cấp thâm niên khi bị thải hồi, trừ những trường hợp sau đây:
1- Tự ý xin thôi ra làm một sở
khác hay ra kinh doanh để lợi riêng cho mình.
2- Bị thải vì đã phạm một trọng
tội về hình luật.
Điều thứ 81
Những công nhân đã làm được 15
năm trở lên mà xin thôi để dưỡng lão và những công nhân vì sức yếu không thể
làm việc được nữa mà phải xin thôi cũng được hưởng phụ cấp nói trên.
Trong trường hợp sau này, những
công nhân ấy phải có giấy chứng nhận của một thày thuốc của Chính phủ hay được
Chính phủ công nhận.
Nếu có sự kháng cáo về giấy
chứng nhận ấy thì sẽ đem ra một Hội đồng thầy thuốc định đoạt. Hội đồng này sẽ
đặt dưới quyền Chủ tịch của một thầy thuốc khác của Chính phủ và có hai thầy
thuốc do chủ và công nhân viện ra làm hội viên. Công nhân nào không có thầy
thuốc, sẽ xin Chính phủ cử ra một người.
Điều thứ 82
Đối với công nhân quá cố tiền
phụ cấp thâm niên sẽ trả cho các con người ấy. Nếu không có con thì người chồng
hay vợ còn sống được quyền hưởng.
Điều thứ 83
Các thợ học việc không được
hưởng phụ cấp thâm niên. Những khi lành nghề mà vẫn làm với chủ, thì thời gian
tập việc cũng tính vào hạn thâm niên.
Điều thứ 84
Tiền phụ cấp thâm niên tính như
sau;
Công nhân đã làm với chủ được
một năm trở lên thì cứ tính mỗi năm (12 tháng) ít nhất được 50đ00. Người nào
làm kém 1 năm không được phụ cấp ấy.
Điều thứ 85
Theo pháp luật phụ cấp thâm niên
được kể như tiền công và được ưu tiên quyền như tiền công.
Phụ cấp thâm niên phải trả riêng
không lẵn với tiền bồi thường khi thải hồi mà không báo trước.
Điều thứ 86
Những điều khoản nói trên có cả
hiệu lực đối với dĩ vãng nếu công nhân bị thải, xin thôi hay quá cố, sau ngày
ban hành Sắc lệnh này.
Phụ cấp thâm niên bao giờ cũng
tính theo những năm đã làm việc nhân với số phụ cấp một năm.
Tuy nhiên đối với thời hạn của
công nhân làm việc trước ngày ban hành Sắc lệnh này, chủ chỉ phải trả cho công
nhân lúc xin thôi, bị thải hay quá cố một món phụ cấp không quá 10 năm thâm
niên.
Điều thứ 87
Những giao kèo, nội lệ, hay quỹ
trữ phòng của xí nghiệp nào đã đảm bảo cho công nhân khi xin thôi hay bị sa
thải một số tiền bằng hay nhiều hơn tiền phụ cấp thâm niên đã định ở những điều
khoản trên, thì vẫn thi hành. Xí nghiệp ấy không phải trả phụ cấp thâm niên nữa.
Điều thứ 88
Nay bãi bỏ 2 nghị định về phụ
cấp thâm niên số 2 ngày 1 tháng 10 và số 4 ngày 12 tháng 10 năm 1945, của Bộ
trưởng Bộ Lao động.
TIẾT THỨ TÁM
VIỆC CHIA LÃI CHO CÔNG NHÂN
Điều thứ 89
Để khuyến khích công nhân trong
các ngành kỹ nghệ và thương mại,có thể định cho công nhân tham gia vào việc
chia lãi hàng năm.
Một Sắc lệnh sẽ ấn định sau tỷ
lệ số lãi mà công nhân được hưởng tuỳ theo từng xí nghiệp và những chi tiết thi
hành điều khoản này.
TIẾT THỨ CHÍN
KHO TIẾP TẾ
Điều thứ 90
Chủ một xí nghiệp hoặc người
thay quyền, nếu muốn lập một kho tiếp tế riêng cho các công nhân thuộc xí
nghiệp của mình thì phải theo những điều kiện nói sau đây:
1- Kho tiếp tế chỉ có những thực
phẩm hoặc hoá phẩm cần thiết,
2- Thực phẩm hoặc hoá phẩm bán
cho công nhân phải tính theo giá vốn (giá mua cộng với các khoản tiền phí tổn).
3- Không được bắt buộc công nhân
phải mua hàng ở kho tiếp tế.
4- Việc bán hàng không phải là
một nguồn lợi cho chủ hay người quản lý.
5- Kho tiếp tế phải đặt dưới
quyền kiểm soát của một Uỷ ban mà trong đó ít ra một nửa số uỷ viên là đại biểu
công nhân,
6- Kế toán của kho tiếp tế phải
hoàn toàn tự trị không thuộc vào việc kế toán của xí nghiệp.
Điều thứ 91
Cấm những cai thầu không được
trực tiếp hoặc gián tiếp lập những kho tiếp tế.
Điều thứ 92
Giá những thực phẩm và hoá phẩm
phải niêm yết rõ ràng bằng tiếng Việt Nam ở nơi bán các phẩm vật ấy.
Điều thứ 93
Các nhân viên kiểm soát của Ty
Lao động đều có quyền khám những kho tiếp tế. Nếu xét thấy trái với các điều
nói trên thì các nhân viên này có thể xin Bộ trưởng Bộ Lao động đình chỉ việc
hoạt động của kho tiếp tế.
Chủ hay người quản lý có quyền
kháng cáo lên Bộ trưởng Bộ Lao động. Đại biểu của công nhân cũng có quyền kháng
cáo.
Điều thứ 94
Khi xét ra cần, Bộ trưởng Bộ Lao
động có thể bắt buộc một xí nghiệp nào đó lập kho tiếp tế cho công nhân.
TIẾT THỨ MƯỜI
VIỆC MỘ CÔNG NHÂN VÀ SỰ THIẾT LẬP CÁC PHÒNG TÌM VIỆC CHO
CÔNG NHÂN
Điều thứ 95
Thể lệ việc mộ công nhân sẽ do
một Sắc lệnh ấn định sau.
Điều thứ 96
Tại những đô thị nào xét ra cần,
thì các Uỷ ban hành chính kỳ có thể ban bố nghị định thiết lập những phòng tìm
việc giùm cho công nhân. Những Nghị định này trước khi thi hành phải được Bộ
trưởng Bộ Lao động duyệt y.
Chương thứ
4
TIẾT THỨ
NHẤT
KHAI TRÌNH VỀ VIỆC DÙNG NHÂN CÔNG TRONG CÁC XƯỞNG KỸ
NGHỆ, HẦM MỎ HAY THƯƠNG ĐIẾM
Điều thứ 97
Các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ hay
thương điếm, các xưởng gia đình, tiểu công nghệ dùng quá 10 công nhân đều phải
khai cho Ty Lao động địa phương biết, trong hạn 15 ngày sau khi thành lập.
Cũng bắt buộc phải khai trong
những trường hợp sau này:
1- Xí nghiệp nào đã thôi kinh
doanh quá 6 tháng, nay lại tiếp tục,
2 ?
3- Xí nghiệp nào đang làm mà dọn
đi nơi khác hoặc sửa đổi, hoặc khuếch trương khiến cho việc kỹ nghệ hay thương
mại đó thay đổi khác trước,
4- Xí nghiệp nào trước không
dùng trẻ con dưới 18 tuổi hay đàn bà mà nay muốn mượn 2 hạng công nhân đó,
5- Xí nghiệp nào trước chưa dùng
máy mà nay lại dùng đến.
Tờ khai phải biên tên, địa chỉ
của người đứng khai, nơi lập xí nghiệp và tính cách công việc kỹ nghệ hay
thương mại của xí nghiệp. Phải khai rõ có dùng trẻ con dưới 18 tuổi hoặc đàn bà
và có dùng máy hay không.
Điều thứ 98
Hạn 3 tháng kể từ ngày ban bố
đạo Sắc lệnh này, tất cả các xí nghiệp đều phải khai theo thể lệ nói trên.
TIẾT THỨ HAI
TUỔI LÀM VIỆC
Điều thứ 99
Các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ và
thương điếm không được mượn trẻ con dưới 12 tuổi dương lịch.
Điều thứ
100
Các Ty Lao động có thể yêu cầu 1
viên thầy thuốc nhà nước xét xem trẻ con hay thiếu niên từ 12 tuổi đến 18 tuổi
dùng trong các xí nghiệp đã nói trên có đủ sức làm các công việc của chủ giao
cho không.
Nếu xét ra quá sức thì ty Lao
động, sau khi đồng ý với viên thầy thuốc, có quyền bắt chủ đổi việc làm hay
thôi không cho làm nữa.
TIẾT THỨ BA
THỜI HẠN LÀM VIỆC
Điều thứ 101
Thời hạn làm việc của công nhân,
đàn ông hay đàn bàm bất kỳ tuổi nào, không được quá 48 giờ một tuần lễ.
Điều thứ
102
Về những công việc làm dưới hầm
mỏ hoặc trong những xưởng kỹ nghệ có hại có sức khoẻ, thì giờ công nhân phải có
mặt ở nơi làm việc không được quá 45 giờ một tuần lễ.
Nghị định của Bộ Lao động sẽ ấn
định sau những ngành kỹ nghệ coi là có hại cho sức khoẻ.
Thì giờ công nhân có mặt ở các
hầm mỏ tính như sau này:
a) Trong các mỏ có giếng thông
xuống, giờ làm việc tính từ lúc công nhân bước chân vào thang máy để xuống cho
đến lúc ra khỏi giếng lên mặt đất.
b) Trong các mỏ xuống bằng đường
hầm thì tính từ lúc vào đường hầm cho đến lúc ra khỏi mặt đất.
Không thể viện cớ giảm giờ làm
việc nói trong điều này mà bớt tiền công của người làm.
Điều thứ
103
Bộ trưởng Bộ Lao động có thể do
đề nghị của các cơ quan chuyên môn mà ấn định các chi tiết thi hành những điều
khoản trên cho từng ngành hầm mỏ, kỹ nghệ, hay thương mại trong toàn cõi Việt Nam hay trong từng miền.
Sau khi thoả thuận với công
nhân, chủ có thể xin Ty Lao động cho phép làm thêm giờ, để bù vào những giờ mất
đi vì:
1- Toàn thể công nhân ngừng việc,
2- Công việc trong sở bị đình
trệ do những duyên cớ bất thường, nhất là vì thời tiết không thuận hay vì những
ngày lễ, hội hè, cùng là những việc khác xảy ra trong miền. Tuy vậy, những giờ
làm phụ đó mỗi năm, mỗi người làm, không được quá 100 giờ.
Điều thứ
104
Những giờ được phép làm thêm nói
ở Điều 103 phải trả theo lương phụ cấp.
Điều thứ
105
Trong thời kỳ chiến tranh, hay
vì sự khẩn cấp chung của quốc gia, thì giờ làm việc có thể tăng quá hạn định ở
những điều trên; biến lệ này sẽ do sắc lệnh của Chính phủ ấn định.
TIẾT THỨ TƯ
LÀM ĐÊM
Điều thứ
106
Con trai chưa đến 18 tuổi, đàn
bà, con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi, làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương
điếm đều không được làm đêm. Phàm công việc nào làm trong khoảng từ 9 giờ tối
đến 5 giờ sáng đều là công việc làm đêm.
Điều thứ
107
Thì giờ nghỉ đêm của công nhân
con trai dưới 18 tuổi và của đàn bà, con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi, ít ra phải
được 11 giờ liền. Tuy nhiên, gặp các trường hợp nói ở hai điều sau đây có thể
rút xuống còn 10 giờ:
Điều thứ
108
Đối với những xí nghiệp dùng các
nguyên liệu hay những chất đang biến hoá, không thể để lâu được thì Bộ trưởng
Bộ Lao động sẽ ra nghị định cho những nhà kỹ nghệ đó được tạm thời dùng thì giờ
làm đêm dễ dàng hơn thể lệ nói trên.
Điều thứ
109
Gặp công việc khẩn cấp phải làm
ngay để ngăn ngừa tại nạn sắp đến hoặc để tổ chức việc cứu vãn hay sửa chữa các
khí cụ, vật liệu, nhà cửa bị tai nạn làm hư hỏng, thì hạn làm việc của công
nhân con trai dưới 18 tuổi và đàn bà con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi, có thể tăng
quá giới hạn đã định ở Điều 107.
Điều thứ
110
Trong những trường hợp nói trên
phải trả phụ cấp cho những giờ làm đêm.
Điều thứ
111
Ngoài ra, trong những trường hợp
đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Lao động, sau khi hỏi ý kiến các cơ quan chuyên môn, có
thể ra nghị định cho phép dùng đàn bà, trẻ con dưới 18 tuổi làm đêm theo những
điều kiện của nghị định ấy.
TIẾT THỨ NĂM
NGÀY NGHỈ HÀNG TUẦN
Điều thứ
112
Mỗi tuần lễ công nhân phải được
nghỉ 24 giờ liền.
Tuy nhiên, lệ nghỉ hàng tuần của
những công nhân các sở vận tải đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, cùng là
xe lửa, xe điện sẽ do nghị định riêng ấn định.
Điều thứ
113
Bộ trưởng Bộ Lao động theo đề
nghị của Ty Lao động địa phương sẽ ra nghị định ấn định những sở nào có thể cho
công nhân nghỉ hàng tuần theo cách lần lượt kế tiếp và những biến lệ về việc
nghỉ của những thợ chuyên môn làm trong các nhà máy đốt lửa hay chạy luôn luôn,
cũng là cách thức thi hành các điều khoản ở tiết này.
Điều thứ
114
Đối với các sở, vì thời tiết bất
thường mà phải đình việc, thì công nhân có thể phải làm bù vào những ngày nghỉ
hàng tuần nhưng không được quá 3 ngày trong một tháng. Những ngày làm việc này
phải trả lương phụ cấp.
Điều thứ
115
Các kỹ nghệ nào chỉ làm từng mùa
trong một năm hoặc dùng chất dễ hư hỏng thì có thể xin Ty Lao động cho phép tạm
thời đình việc thi hành lệ nghỉ hàng tuần.
Điều thứ
116
Chiểu theo tờ trình của Uỷ ban
hành chính kỳ và sau khi hỏi ý kiến các cơ quan chuyên môn, Bộ trưởng Bộ Lao
động sẽ ra nghị định lập danh sách các xưởng kỹ nghệ hay thương điếm có thể
được hưởng hai điều nói trên.
TIẾT THỨ SÁU
NGHỈ NHỮNG NGÀY LỄ CHÍNH THỨC
Điều thứ
117
Tất cả công nhân đều được nghỉ
việc và được hưởng lương như ngày làm việc trong những lễ chính thức kể sau đây:
1- Ngày lễ lao động 1 tháng 5
dương lịch,
2- ????
3- Ngày mồng 2 tháng 9 dương
lịch, ngày lễ độc lập,
4- Ngày mồng 1 tháng giêng dương
lịch,
5- Ngày Phận đản, mồng 8 tháng 4
âm lịch
6- Ngày Thiên chúa giáng sinh.
Điều thứ
118
Khi công việc sở hay xí nghiệp
nào không thể tạm ngừng lại được thì những công nhân phụ trách thường trực
trong những ngày nghỉ nói ở điều trên được lĩnh gấp đôi lương.
Những công nhân ăn lương ngày mà
phải đi thường trực trong những ngày nghỉ nói ở điều trên được lĩnh gấp đôi
lương.
Những công nhân ăn lương tháng
mà phải đi thường trực thì tiền phụ cấp về những ngày nghỉ ấy sẽ tính là 1/25
số lương tháng.
Điều thứ
119
Khi một ngày hay nhiều ngày lễ
chính thức nói trên nhằm vào ngày nghỉ hàng tuần thì công nhân chỉ được lương
nếu hợp đồng hay nội quy của sở hay xí nghiệp có cho ăn lương cả ngày nghỉ hàng
tuần. Những công nhân đi thường trực sẽ được lương thường nếu nội quy hay hợp
đồng của sở hay xí nghiệp không cho lương ngày nghỉ hàng tuần. Họ sẽ lĩnh gấp
đôi nếu họ được lương ngày nghỉ hàng tuần.
Điều thứ
120
Những công nhân làm khoán, tính
kiện ăn công thì số lương những ngày nghỉ ấy sẽ tính theo số lương trung bình đã
lĩnh hàng ngày trong 7 hôm trước ngày lễ chính thức.
TIẾT THỨ BẢY
LỆ NGHỈ CỦA ĐÀN BÀ ĐẺ VÀ ĐÀN BÀ CHO CON BÚ
Điều thứ
121
Đàn bà nghỉ về thai sản được
lĩnh trong thời hạn 8 tuần lễ nói ở Điều 31 nửa số tiền công kể cả phụ cấp.
Chủ không được lấy cớ người công
nhân có thai mà sa thải hoặc bắt làm công việc nặng nề hơn hoặc đổi chỗ làm mà
không được họ đồng ý.
Điều thứ
122
Người mẹ có thể cho con bú tại
nơi mình làm việc trong hạn một năm kể từ ngày đẻ. Lúc cho con bú được nghỉ 30
phút trong giờ làm buổi sáng và 30 phút trong giờ làm buổi chiều.
Các giờ nghỉ cho con bú không
được trừ vào hạn nghỉ thường lệ do Sắc lệnh này.
Điều thứ
123
Nơi nào dùng 100 công nhân đàn
bà phải lập một nhà để giữ trẻ con cần cho bú.
TIẾT THỨ TÁM
NGHỈ HÀNG NĂM
Điều thứ
124
Công nhân hay thợ học nghề làm
được một năm thì được nghỉ hàng năm ít nhất 10 ngày liền được cả lương và phụ
cấp. Trong 10 ngày ấy, phải 8 ngày không là chủ nhật hay ngày lễ chính thức.
Công nhân nào làm được 6 tháng được nghỉ ít nhất 5 ngày lĩnh cả lương và phụ
cấp, mà 4 ngày không phải là chủ nhật hay ngày lễ chính thức.
Điều thứ
125
Trước khi nghỉ hàng năm, công
nhân được lĩnh trước số tiền công và cả mọi khoản phụ cấp đã nói trong điều
trên, tính theo tiền công hàng ngày của họ.
Điều thứ
126
Khế ước nào định rằng công nhân
tình nguyện không hưởng lệ nghỉ hàng năm, đều kể là vô hiệu, dù chủ có cấp cho
một số tiền bù vào cũng vậy.
TIẾT THỨ
CHÍN
LỆ NGHỈ CỦA CÔNG NHÂN KHI ỐM ĐAU
Điều thứ
127
Công nhân khi ốm đau muốn xin
nghỉ ăn lương phải có giấy chứng nhận của bác sĩ hoặc thầy thuốc.
Điều thứ
128
Nếu bệnh không do một tai nạn
lao động gây ra thì công nhân có quyền được nghỉ bệnh mà vẫn có lương, nhiều
nhất là 20 ngày trong một năm.
Hạn nghỉ này không được trừ vào
hạn nghỉ hàng năm ăn lương.
Điều thứ
129
Các xí nghiệp hoặc tự lập nhà
thương riêng hoặc bị bắt buộc phải có nhà thương và chịu hết phí tổn về ăn uống
và thuốc men cho công nhân trong khi ốm đau, thì không phải trả lương trong
những ngày công nhân nằm điều trị.
Xí nghiệp nào đưa công nhân ốm
đến bệnh viện tư hay công và chịu hết phí tổn như đã nói trên cũng không phải
trả lương.
Nếu lương công nhân nhiều hơn số
tiền phí tổn này thì chủ phải trả lại số tiền thừa.
Chương thứ
5
CÁC ĐIỀU KHOẢN RIÊNG
CÔNG VIỆC LÀM DƯỚI HẦM MỎ
Điều thứ
130
Đàn bà, con gái bất kỳ bao nhiêu
tuổi và con trai dưới 15 tuổi không được dùng làm việc dưới hầm mỏ và trong
những xưởng kỹ nghệ có hại cho sức khoẻ hay nguy hiểm do Bộ trưởng Bộ Lao động
ấn định.
Tuy nhiên, trong những trường
hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Lao động có thể cho phép một vài xí nghiệp (trừ dưới
hầm mỏ) không phải tuân theo lệ này.
NGHỀ Ả ĐÀO VÀ VŨ NỮ
Điều thứ
131
Cấm không được dùng trẻ con chưa
đến 15 tuổi tính theo dương lịch, để làm ả đào và vũ nữ.
VIỆC DÙNG NHÂN CÔNG NGOẠI QUỐC
Điều thứ
132
Những người không có quốc tịch
Việt Nam muốn làm ăn trên đất Việt Nam phải được Chính phủ Việt Nam cấp cho giấy phép trước. Những chủ muốn dùng công nhân ngoại quốc phải xin phép bộ
trưởng Bộ Lao động.
Sắc lệnh này cũng thi hành cho
công nhân ngoại quốc được phép làm ăn trên đất Việt Nam.
Tỷ số nhân công ngoại quốc không
được quá một tỷ số sẽ ấn định sau.
Chương thứ
6
VỆ SINH VÀ BẢO AN CHO
NGƯỜI LÀM
TIẾT THỨ
NHẤT
TỔNG LỆ
Điều thứ
133
Các điều khoản ở chương này thi
hành cho tất cả công nhân các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm bất luận tư
hay công.
Tuy vậy, những xưởng gia đình,
những nhà tiểu công nghệ đều được miễn lệ này, trừ khi những xưởng đó dùng nồi
máy hay động cơ, hoặc thuộc vào hạng xưởng có hại cho sức khoẻ ở chương này
phải có đủ phương tiện để bảo an và giữ gìn sức khoẻ cho công nhân.
Các máy móc và dụng cụ phải xếp
đặt và giữ gìn thế nào cho hợp sự bảo an.
Điều thứ
134
Công nhân hay thợ học nghề làm
trong các giếng mỏ, các ống dẫn hơi, các ống khói, các chuồng tiêu, các thùng
máy chứa chất độc, v.v. .. đều phải có những dụng cụ thích hợp để bảo vệ sinh
mệnh và tránh tại nạn.
Các miệng giếng, miệng lỗ, nắp
hầm đều phải có chắn chung quanh.
Các động cơ phải đặt riêng biệt
và có rào chắn. Các giàn cất để làm việc trên cao đều phải có tay vịn vững
chắc. Các bộ phận máy đương chạy đều phải che chở hay đặt xa tầm tay thợ làm
cho khỏi nguy hiểm. Các dây truyền điện đặt trong xưởng không cao quá 2 thước
50 cũng đều phải che chở như thế.
Phải có dụng cụ riêng cho chạy
dây chuyền các máy móc để thợ khỏi mó tay vào.
Điều thứ
135
Bộ trưởng Bộ Lao động sẽ ấn định
những điều cần thiết cho sự bảo an và vệ sinh trong các xí nghiệp nói ở Điều
thứ 133.
Điều thứ
136
Chủ các xưởng nói ở Điều thứ 133
phải có một cuốn sổ biên những điều mà sở Lao động bắt thi hành. Sổ đó phải đưa
trình khi Thanh tra và kiểm soát viên ty Lao động hỏi đến.
Điều thứ
137
Trước khi lập biên bản phạt, các
Thanh tra và Kiểm soát lao động phải ra lệnh bắt chủ thi hành những phương pháp
đã định trong một thời gian không được kém 15 ngày. Lệnh đó phải ghi vào quyển
sổ nói ở Điều 136.
Điều thứ
138
Sau khi nhận được lệnh nói ở
điều trên, chủ có thể khiếu nại lên Bộ Lao động, trong hạn 15 ngày; nếu có đơn
khiếu nại thì sự thi hành được phép hoãn lại.
Nếu Bộ Lao động bác đơn khiếu
nại thì thời hạn phải thi hành bắt đầu tính từ ngày chủ nhận được giấy thông
đạt sự bác bỏ đó. Nếu hết kỳ hạn mà các phương pháp về vệ sinh và bảo an vẫn
chưa thi hành thì lập biên bản lần thứ hai. Biên bản này sẽ đệ trình ông Thẩm
phán đệ nhị cấp xử theo thủ tục cấp thẩm không mất lệ phí. Vị này sẽ ra lệnh
thi hành những phương pháp cần thiết.
Điều thứ
139
Nếu công nhân tự tìm được chỗ ở
gần nơi làm thì chủ không phải trù liệu chỗ ở cho họ.
Nhưng nếu số công nhân nhiều đến
nỗi không tìm đủ chỗ ở trong các vùng gần nơi làm hoặc nếu họ đông đến nỗi làm
hại vệ sinh chung, và trong các vùng mỏ, các khu tập trung công nhân xa thành
thị, thì chủ sẽ bắt buộc lo nhà ở cho tất cả hay một phần thợ thuyền làm với
mình.
Gặp một vài trường hợp đặc biệt,
nhất là trong những khi có bệnh dịch tả, chủ cũng có thể bị bắt buộc phải tạm
trù liệu nhà cho công nhân ở.
Việc bắt buộc vĩnh viễn hay tạm
thời phải có những khu nhà cho công nhân ở sẽ do Uỷ ban hành chính kỳ quyết
định theo lời đề nghị của Ty Lao động, và sau khi đã hỏi ý kiến sở y tế.
Điều thứ
140
Những nơi làm việc phải rộng
rãi, thoáng khí và có ánh nắng mặt trời. Những nơi làm việc phải cách biệt hẳn
những nhà tiêu, những cống, rãnh, để tránh mùi hôi tanh.
Điều thứ
141
Mỗi ngày các nơi làm việc phải
quét dọn sạch sẽ trước khi công nhân vào làm.
Điều thứ
142
Chủ phải xếp đặt chỗ nhà tiêu,
đi tiểu đủ dùng cho công nhân trong xí nghiệp và phải rửa quét một ngày 2 lần.
Điều thứ
143
Chủ phải trù liệu cho công nhân
có nước ăn đủ vệ sinh ở nơi làm.
Điều thứ
144
Xí nghiệp nào dùng từ 25 đến 100
công nhân bắt buộc phải có hộp thuốc cấp cứu, từ 100 đến 500 phải có phòng
thuốc và y tá thường trực để cho thuốc, từ 500 đến 2.000 phải có phòng thuốc do
y sĩ trông nom.
Từ 2.000 trở lên phải có bệnh
viện.
Ở những nơi nước độc có từ 1.000
công nhân trở lên phải có bệnh viện do y sĩ trông nom.
Những xí nghiệp nào bị bắt buộc
có bệnh viện mà dùng nhiều công nhân đàn bà thì phải có phòng hộ sinh.
Đối với các xí nghiệp gần bệnh
viện công, Bộ trưởng Bộ Lao động có thể đặc biệt cho phép không theo lệnh này.
Điều thứ
145
Ở các vùng có bệnh sốt rét rừng,
chủ phải chịu phí tổn về việc đề phòng bệnh này mà phát thuốc cho công nhân
không lấy tiền.
Điều thứ
146
Bộ trưởng Bộ Lao động sẽ chỉ
định:
1- Những công việc coi là nguy
hiểm, quá sức, đối với đàn bà trẻ con để cấm họ không được làm;
2- Những thể lệ đặc biệt cho
phép đàn bà, trẻ con làm trong các sở có hại cho sức khoẻ hay nguy hiểm vì phải
gần những chất hay hơi độc, với những sự bảo vệ cần phải có cho họ.
Điều thứ 147
Xí nghiệp nào nuôi cơm cho thợ,
thì bắt buộc phải có nhà ăn riêng biệt chỗ làm việc, và phải rộng rãi, sạch sẽ.
TIẾT THỨ HAI
THỂ LỆ RIÊNG CHO CÁC HẦM MỎ
Điều thứ
148
Thể lệ riêng về việc bảo vệ sức
khoẻ và sinh mệnh cho công nhân các hầm mỏ sẽ do Bộ trưởng Bộ Lao động ấn định
sau khi hỏi ý kiến các cơ quan chuyên môn.
Chương thứ
7
TAI NẠN LAO ĐỘNG
Điều thứ
149
Tại nạn lao động là những tai
nạn xảy ra cho công nhân bỏ công việc làm hay công nhân khi làm công việc.
Công nhân bị tai nạn lao động,
dù lỗi tại mình hay không, mà phải nghỉ việc quá 4 ngày, thì phải được chủ bồi
thường; nếu vì tai nạn ấy mà chết thì những người thừa kế được bồi thường. Số
tiền bồi thường sẽ kể từ hôm sau ngày xảy ra tai nạn. Ngày xảy ra tai nạn coi
như ngày công nhân vẫn làm việc, chủ phải trả cả lương.
Điều thứ
150
Một Sắc lệnh sẽ định rõ chi tiết
thi hành điều khoản trên.
Chương thứ
8
VIỆC LẬP ĐOÀN THỂ CÔNG
NHÂN
TIẾT THỨ
NHẤT
CÔNG ĐOÀN
A- MỤC ĐÍCH VÀ CÁCH THÀNH LẬP
CÔNG ĐOÀN
Điều thứ
151
Công đoàn là những đoàn thể lập
ra mục đích để bảo vệ quyền lợi của công nhân về phương diện nghề nghiệp.
Điều thứ
152
Những người sáng lập công đoàn
phải khai rõ tên tuổi, nghề nghiệp và chỗ ở của mình và của những người sẽ tham
dự vào việc điều khiển hay quản lý công đoàn, và phải nộp bản điều lệ của công
đoàn tại:
1- Uỷ ban hành chính tỉnh hay
thành phố nơi công đoàn đặt hội sở;
2- Phòng lục sự toà án tỉnh;
3- Ty Lao động tỉnh.
Điều thứ
153
Sẽ nộp những giấy tờ nói trên
cho Chủ tịch Uỷ ban hành chính và vị này có nhiệm vụ phát biên lai.
Mỗi khi có sự thay đổi điều lệ
hay nhân viên ban quản trị thì những người thay mặt hội phải khai sự thay đổi
ấy với các cơ quan nói trên trong hạn nhiều nhất là 5 ngày kể từ ngày có sự
thay đổi.
Điều thứ
154
Những người tham dự vào ban quản
trị phải có đủ điều kiện sau đây:
1- Có quốc tịch Việt Nam,
2- Phải là đoàn viên,
3- Phải có đủ quyền về dân luật.
Điều thứ
155
Đàn bà có quyền vào công đoàn và
có quyền tham dự vào ban quản trị.
Người vị thành niên từ 16 tuổi
trở lên tính theo dương lịch được phép vào công đoàn, nhưng không được tham dự
vào ban quản trị.
Điều thứ
156
Chỉ những người ở trong nghề mới
được vào công đoàn nghề ấy, khi đã vào công đoàn được ít nhất là một năm, thì
dầu có thôi không làm nghề cũ vẫn có thể ở trong công đoàn.
Điều thứ
157
Công đoàn không có quyền bắt
buộc ai vào tổ chức, nhưng có quyền nhận hay từ chối đoàn viên theo điều lệ
riêng của mình. Công đoàn không có thể bắt buộc đoàn viên phải ở trong đoàn một
cách vĩnh viễn, nhưng có quyền bắt người xin ra phải nộp tiền nguyệt phí trong
một hạn nhiều nhất là 6 tháng kể từ ngày xin ra.
Điều thứ
158
Khi nào vì một cớ gì mà giải tán
thì của cải của công đoàn không được đem chia cho đoàn viên, mà phải đem sử
dụng theo điều kiện định trong điều lệ. Không nữa thì phải chuyển sang cho một
cơ quan cứu tế do Bộ Lao động ấn định.
B- PHÁP NHÂN TƯ CÁCH CỦA CÔNG
ĐOÀN
Điều thứ
159
Công đoàn có pháp nhân tư cách,
có thể đối tụng trước toà án hay đứng nguyên đơn mỗi khi có việc gì xảy ra làm
tổn hại gián tiếp hay trực tiếp đến quyền lợi chung của nghề nghiệp mà công
đoàn đứng thay mặt.
Điều thứ
160
Công đoàn có quyền thay mặt công
nhân trong đoàn mình trước Toà án.
Điều thứ
161
Công đoàn có thể mua hay nhận
không cần xin phép, các động sản và bất động sản.
Điều thứ
162
Công đoàn được tự do sáng lập và
quản trị những phòng tìm việc và cung cấp nhân công. Công đoàn được tự do sáng
lập, quản trị hay giúp đỡ những công cuộc có tính cách nghề nghiệp, như quỹ
tương tế, phòng thí nghiệm, trường dạy về khoa học, canh nông, xã hội, hay lớp
dạy nghề.
Điều thứ
163
Công đoàn ??? do bác sỹ hay y sỹ
của công đoàn điều khiển và cho giấy chứng nhận bệnh tật của đoàn viên.
Điều thứ
164
Công đoàn có thể sáng lập hay
giúp đỡ những hợp tác xã tiêu thụ sản xuất.
Điều thứ
165
Các cơ quan của Chính phủ có thể
hỏi ý kiến công đoàn về việc định giá sinh hoạt, định giá nhân công và mọi vấn
đề có liên can đến nghề nghiệp mà công đoàn đứng thay mặt.
Điều thứ
166
Những hội viên xin ra công đoàn
vẫn có thể là những hội viên của các hội tương tế, mà họ đã đóng góp.
C- LIÊN ĐOÀN
Điều thứ
167
Những công đoàn đã thành lập
theo những điều trên này có thể liên kết với nhau để lập những liên đoàn hay
tổng liên đoàn.
Điều thứ
168
Những khoản nói trong những Điều
từ 151 đến 158 trên này sẽ thi hành cho liên đoàn cùng những người đứng quản lý.
Trong điều lệ mỗi liên đoàn phải
định rõ danh hiệu và hội sở của liên đoàn và cách thức bầu cử ban quản trị của
liên đoàn.
Điều thứ
169
Sau khi thành lập, liên đoàn hay
tổng liên đoàn cũng được hưởng quyền hạn định trong những Điều từ 159 đến 16 ?
trên đây.
D- LINH TINH
Điều thứ
170
Những người sáng lập hay quản lý
công đoàn và liên đoàn không theo đúng những Điều 151 đến 158 cùng những Điều
167, 168 trên đây, hoặc là cố ý khai gian, có thể bị phạt tù 1 đến 6 tháng án
treo và phạt bạc từ 15 đ đến 1.000 đ.
Nếu tái phạm, Toà án sẽ phạt tù.
Điều thứ
171
Nếu công đoàn hành động trái với
điều lệ công đoàn, trái với những điều khoản trong chương này, hay có những
hành vi tổn hại đến nền Dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam thì Biện lý nơi hội
sở có quyền xin toà giải tán công đoàn hay liên đoàn và tịch thu của cải của
những hội ấy để cấp cho một cơ quan cứu tế do Bộ Lao động ấn định.
Trừ những người trong ban quản
trị có thể bị truy tổ theo pháp luật, những người trong công đoàn hay liên đoàn
đã bị giải tán vẫn giữ quyền tự do lập công đoàn khác hợp theo pháp luật.
TIẾT THỨ HAI
UỶ BAN Ở CÁC CÔNG SỞ
Điều thứ
172
Ở các ngành kỹ nghệ của quốc gia
hay thuộc quyền quốc gia kiểm soát, công nhân có thể lập các uỷ ban công sở để
trực tiếp giao thiệp với những cơ quan của Chính phủ.
Ở các xí nghiệp của tư nhân,
công đoàn hoặc đại biểu công nhân sẽ thay mặt cho toàn thể công nhân ở xí
nghiệp ấy trong mọi trưởng hợp.
Điều thứ
173
Những chi tiết thi hành Điều thứ
172 trên này sẽ do một nghị định Bộ trưởng Bộ Lao động ấn định sau.
TIẾT THỨ BA
QUYỀN TỰ DO KẾT HỢP VÀ BÃI CÔNG
Điều thứ
174
Công nhân có quyền tự do kết hợp
và bãi công.
Một Sắc lệnh sau sẽ ấn định phạm
vi sử dụng những quyền này cùng cách thức hoà giải và trọng tài.
Chương thứ
9
NÓI VỀ HÌNH PHẠT
Điều thứ
175
Hễ phạm vào một trong các điều
sau này thì phải phạt bạc từ 10đ đến 50đ và tái phạm thì phạt từ 51đ đến 100đ.
Điều thứ 9 về số thợ hay thợ học
nghề nhiều nhất mà nhà tiểu công nghệ được dùng.
Điều thứ 15 và 16 về thể lệ hạn
tuổi thợ học nghề và số thợ học nghề trong các xí nghiệp.
Điều thứ 21 và 22 về việc lập và
niêm yết nội quy.
Điều thứ 33 về lệ niêm yết nói trong
điều này.
Điều thứ 35 không có danh sách
các cai khoán.
Điều thứ 36 cấm chế độ ăn công
làm khoán.
Điều thứ 46 không tuân tập hợp
khế ước.
Điều thứ 62 về việc niêm yết số
lương tối thiểu.
Điều thứ 66 về việc trả tiền
công mỗi tháng 2 kỳ.
Điều thứ 72 cấm phạt vào tiền
công.
Điều thứ 73 cấm trừ tiền công
trái phép.
Điều thứ 91, 92 và 93 về việc
cấm cai thầu làm kho tiếp tế và bắt buộc yết thị giá thực phẩm bán tại các kho
tiếp tế.
Điều 97 và 98 về việc khai trình
nói trong 2 điều ấy.
Điều 101 và 102 không tuân hạn
giờ làm việc đã định.
Điều 106 không tuân việc cấm
dùng trẻ con và đàn bà làm đêm, và thời hạn nghỉ đêm của hai hạng công nhân này.
Điều 112 không tuân hạn nghỉ
hàng tuần.
Điều 114 lạm dụng hạn làm bù.
Điều 124 và 126 không tuân hạn
nghỉ hàng năm ăn lương,
Điều 136 không có cuốn sổ ghi
những điều các nhà chức trách bắt phải làm về việc vệ sinh và bảo an.
Điều 146 về những việc nguy hiểm
hay quá sức cho đàn bà, trẻ con.
Điều thứ
176
Nếu phạm vào những điều sau này
sẽ bị phạt bạc từ 101đ đến 200đ và tái phạm từ 201đ đến 1.000đ.
Điều 3 cấm mộ công nhân theo
cách dụ dỗ hoặc cưỡng bách.
Điều 12 cấm dùng trẻ con dưới 12
tuổi làm thợ học nghề.
Điều 52 cấm chủ không được nhận
thẳng tiền ký quỹ của công nhân.
Điều 123 không trù liệu nơi cho
công nhân đàn bà cho con bú.
Điều 130 không tuân lệnh cấm đàn
bà trẻ con làm dưới hầm mỏ.
Điều 131 cấm dùng trẻ con dưới
15 tuổi làm nghề ả đào hay vũ nữ.
Điều 132 dùng công nhân ngoại
quốc trái phép.
Điều 133 và 134 không trù liệu
những phương pháp về bảo an và vệ sinh.
Điều 139 về việc trù liệu nơi
trú ngụ cho công nhân.
Điều 143 không trù liệu nước ăn
đủ vệ sinh cho công nhân.
Điều 144 không trù liệu các cách
cứu chữa cho công nhân hay không có khán hộ hay y sỹ.
Điều 145 không trù liệu thuốc
men đề phòng và chữa bệnh sốt rét rừng.
Điều thứ
177
Khi phạm vào luật lệ lao động mà
không có những điều khoản riêng định trừng phạt thì sẽ bị phạt bạc từ 10đ đến
50 đ và nếu tái phạm từ 51đ đến 100đ.
Điều thứ
178
Những chủ nào không chịu nộp
tiền góp về phụ cấp gia đình cho công nhân sẽ phải phạt một số tiền gấp đôi số
tiền phải góp.
Những chủ cố ý khai man trong
việc tính tiền góp về phụ cấp gia đình sẽ phải phạt bạc từ 10đ đến 50đ và nếu
tái phạm từ 51đ đến 100đ.
Điều thứ
179
Những cai khoán cố ý khai man
những điều nói trong Điều 33 sẽ bị phạt bạc từ 10đ đến 50đ hoặc phải phạt giam
từ 7 đến 15 ngày. Nếu tái phạm sẽ bị cả hình phạt trên.
Điều thứ
180
Về luật lao động, nếu trong 12
tháng mà phạm cùng một lỗi thời coi là tái phạm.
Điều thứ
181
Nếu phạm pháp thì cứ dùng bao
nhiêu công nhân trong trường hợp ấy sẽ bị phạt tiền bầy nhiều lần.
Tuy nhiên, lần đầu mà phạm pháp
như thế, thì tổng cộng số tiền phạt không được quá 500đ.
Điều thứ
182
Ai làm ngăn trở các Bộ trưởng,
Thanh tra, Kiểm soát hay Uỷ viên lao động, trong khi thi hành công vụ thì sẽ bị
phạt bạc từ 100đ đến 1.000đ và nếu tái phạm thì bị phạt từ 1.000đ đến 10.000đ.
Ngoài ra, những người phạm tội
ngăn trở, công việc làm của các viên chức lao động nói trên, hoặc vũ mãn hay bạo
động đối với những người ấy đều bị truy tố theo các điều khoản trong hình luật
thi hành cho các uỷ viên tư pháp công an.
Điều thứ
183
Xí nghiệp phải chịu trách nhiệm
về mặt hội đồng với những án phạt Giám đốc, Quản lý hay người thay mặt xí
nghiệp đó.
Chương
thứ 10
Điều thứ
184
Để kiểm soát việc thi hành luật
lệ lao động, một sắc lệnh sẽ lập những ngạch Thanh tra và Kiểm soát lao động
cùng định rõ nhiệm vụ và quyền hành của những viên chức này.
Điều thứ
185
Các Luật lệ, Nghị định, Thông tư
trái với điều khoản đạo Sắc lệnh này đều bãi bỏ.
Những luật lệ hiện hành nói đến
những vấn đề chưa giải quyết bởi Sắc lệnh này vẫn tạm thi hành.
Điều thứ
186
Công nhân đứng kiện hay bị kiện
về việc thi hành các điều khoản Sắc lệnh này, được tư pháp bảo trợ tại toà án
không mất phí tổn kiện tụng.
Điều thứ
187
Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp,
Bộ Tài chính và Bộ Lao động thi hành Sắc lệnh này.