TỔNG
CỤC LÂM NGHIỆP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
246-LN-QĐ
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 04 năm 1964
|
QUYẾT
ĐỊNH
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TRẢ THEO SẢN
PHẨM TRONG NGÀNH LÂM NGHIỆP
TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG
CỤC LÂM NGHIỆP
Căn cứ Nghị định số 140-CP
ngày 29-09-1961 của Hội đồng Chính phủ nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Tổng cục Lâm nghiệp;
Căn cứ Chỉ thị số 83-TTg ngày 06-03-1961 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh
thi hành chế độ lương theo sản phẩm và các văn bản hướng dẫn của Bộ Lao động;
Để đẩy mạnh việc thi hành chế độ lương thực sản phẩm cho thích hợp với đặc điểm
của ngành lâm nghiệp,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
– Ban hành kèm theo quyết định này bản “Điều lệ tạm thời về chế độ tiền lương
trả theo sản phẩm trong ngành lâm nghiệp”
Điều 2.
– Các ông Cục trưởng, Vụ trưởng các Cục, Vụ, các ông Trưởng ty và Trưởng phòng
Lâm nghiệp, các ông Giám đốc lâm trường và thủ tưởng các đơn vị trực thuộc khác
có trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
TỔNG
CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
Nguyễn Tạo
|
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TRẢ THEO SẢN PHẨM TRONG NGÀNH LÂM NGHIỆP
Chương 1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1. -
Để thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thích hợp với đặc điểm của
ngành lâm ngghiệp, nay ban hành điều lệ tạm thời này nhằm quán triệt thêm một
bước nguyên tắc phân phối theo lao động, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của từng
công nhân với lợi ích chung của Nhà nước, khuyết khích công nhân phát huy tính
tích cực và tính sáng tạo để không ngừng nâng cao năng suất lao động, bảo đảm
chất lượng, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo an toàn
thiết bị, an toàn lao động, góp phần hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch
Nhà nước, trên cơ sở đó tăng thêm thu nhập của công nhân một cách hợp lý.
Điều 2.
– Trong các lâm trường khai thác, trồng rừng, các cơ sở chế biến lâm sản, vận
chuyển và phân phối lâm sản, kiến thiết cơ bản v.v… những công việc nào có thể
định được mức lao động, có chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, thống kê được số lượng
và kiểm tra nghiệm thu được chất lượng sản phẩm điều phải tạo điều kiện cần thiết
để từng bước thực hiện một trong những chế độ tiền lương trả theo sản phẩm
thích hợp với tính chất và điều kiện sản xuất của từng khâu, từng phần việc, từng
cơ sở.
Điều 3.
– Các chế độ tiền lương trả theo sản phẩm được áp dụng gồm: Chế độ tiền lương
trả theo sản phẩm trực tiếp, chế độ tiền lương trả theo sản phẩm gián tiếp (áp
dụng cho công nhân cố định thường xuyên) và chế độ lương khoán ( có thể áp dụng
cho công nhân thời vụ, tạm thời hay công nhật v.v…)
Các chế độ tiền lương trả theo sản
phẩm trực tiếp và chế độ lương khoán có thể kết hợp với các chế độ tiền thưởng
thích hợp.
Điều 4.
– Những công việc nào có thể định mức và giao việc cho cá nhân như cắt cỏ thì cần
giao việc và trả lương trực tiếp cho từng công nhân. Đối với những công việc do
đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật sản xuất, không thể định mức và giao việc cho từng
cá nhân được như khai thác gỗ, củi, sản xuất than v.v… thì tiến hành giao việc
và trả lương cho tập thể công nhân (có thể là số công nhân trong một dây chyền
sản xuất hay một nhóm, tổ, đội, công nhân v.v…)
Trong trồng rừng và kiến thiết
cơ bản, do cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành phần việc trước và
sau để tăng năng suất lao động đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm, công
trình; cần tiến tới thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm cho toàn bộ khối
lượng công trình tức là những sản phẩm đã dược hoàn thành toàn bộ như tính trả
lương theo mét vuông đường sá và nhà cửa từng loại, trả lương theo số cây sống
từng loại (có hướng dẫn riêng)
Điều 5.
– Các chế độ trả lương theo sản phẩm áp dụng cho tất cả những công nhân sản xuất
được công nhận có đủ trình độ kỹ thuật so với yêu cầu của công việc được giao,
đảm bảo được chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn thiết bị và an toàn lao động;
về nguyên tắc không áp dụng đối với người học nghề hay còn trong thời gian tập
sự.
Điều 6.
- Ở những đơn vị thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm cần phải làm tốt
công tác định mức lao động, xác định cấp bậc công việc, định đơn giá sản phẩm
và phương pháp trả lương. Phải tăng cường công tác kế hoạch thật chặt chẽ,
chính xác, tỉ mỉ; tăng cường tổ chức và biện pháp để đảm bảo thống kê, nghiệm
thu số lượng và chất lượng sản phẩm được chặt chẽ, chính xác, kịp thời; đảm bảo
cung cấp đầy đủ thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và dụng cụ theo yêu cầu
sản xuất, tăng cường công tác bảo hộ lao động và an toàn kỹ thuật. Phải có quy
định cụ thể và quy các kỹ thuật cho từng loại sản phẩm và quy trình kỹ thuật
cho từng loại công việc hay từng khâu sản xuất .
Điều 7.
- Việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm phải được tiến hành thận
trọng và tích cực dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng và sự phối hợp chặt
chẽ giữa chuyên môn và công đoàn cùng cấp. Phải kết hợp chặt chẽ việc thực hiện
chế độ tiền lương trả theo sản phẩm với việc giáo dục chính trị, nâng cao nhận
thức tư tưởng và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho công nhân; khắc phục những
nhận thức và tư tưởng sai có ảnh hưởng tới việc thực hiện chế độ tiền lương trả
theo sản phẩm .
Chương 2:
ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG, CẤP BẬC
CÔNG VIỆC VÀ ĐỊNH ĐƠN GIÁ SẢN PHẨM
Điều 8.
- Định mức lao động là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo kết quả cho việc thực
hiện chế dộ tiền lương trả theo sản phẩm . Định mức lao động để áp dụng trong
chế độ tiền lương trả theo sản phẩm phải được xác định theo phương pháp định mức
có căn cứ kỹ thuật. Nội dung của nó là dựa vào kết quả quan sát thực tế quá
trình làm việc của công nhân bằng phương pháp chụp ảnh, bấm giờ…, tìm ra và có
biện pháp khắc phục những bất hợp lý trong quá trình công nghệ, trong tổ chức
lao động và trong việc sử dụng thời gian lao động, vạch ra phương pháp làm việc
có hiệu quả kinh tế cao nhất, trên cơ sở đó dùng phương pháp tính toán khoa học
để định ra mức thời gian và mức sản lượng( có hướng dẫn riêng).
Trong khi chưa có đủ điều kiện định
mức theo phương pháp có căn cứ kỹ thuật, tạm thời có thể áp dụng phương pháp thống
kê kinh nghiệm kết hợp với việc khảo sát thực tế để phân tích sử dụng công suất
máy móc thiết bị, sử dụng thời gian lao động , khắc phục giờ chết và những hiện
tượng sử dụng không hợp lý thời gian lao động trong sản xuất. Phải kiên quyết bỏ
các phương pháp định mức theo lối ước lượng và thiếu cơ sở thực tế
Các định mức lao động để áp dụng
trong chế độ tiền lương trả theo sản phẩm phải có định mức trung bình tiên tiến,
được xác định trên cơ sở phân tích đúng đắn các điều kiện thực tế của sản xuất
từng nơi, từng lúc, phải tiến hành theo đường lối quần chúng, phải có tác dụng
kích thích những nhân tố tích cực và khả năng tiềm tàng trong sản xuất .
Điều 9.
- Thời gian sử dụng các định mức lao động để trả lương theo sản phẩm quy định
như sau:
1. Khi tổ chức sản xuất , tổ chức
lao động, thiết bị máy móc, dụng cụ, quy cách sản phẩm và quy trình kỹ thuật, đối
tượng lao động có thay đổi thì phải kịp thời thay đổi định mức cho thích hợp;
do thủ trưởng đơn vị quyết định và cho thi hành sau khi có sự thỏa thuận với
Ban Chấp hành Công đoàn cùng cấp.
2. Nếu không có thay đổi về các
điều kiện kể trên thì việc thay đổi mức phải tiến hành theo định kỳ như sau:
a) Những sản phẩm mới định mức lần
đầu chưa có kinh nghiệm, chưa phân tích được đầy đủ khả năng đạt và vượt mức của
công nhân thì có thể sau một tháng sẽ xem xét lại mức, sau từ hai đến ba tháng
phải công bố định mức chính thức và sau đó từ ba đến sáu tháng sẽ xét lại một lần
b) Những sản phẩm được xác định
theo phương pháp định mức và căn cứ kỹ thuật, có phân tích đầy đủ điều kiện và
khả năng sản xuất, đảm bảo các định mức tương đối chính xác thì sau sáu tháng sẽ
xét lại một lần.
Điều 10.
– Những định mức áp dụng trong phạm vi một lâm trường, công ty… thì do thủ trưởng
lâm trường, công ty… quyết định và cho thi hành (riêng những lâm trường, cơ sở
thuộc ty mà bộ máy quản lý chưa được hoàn chỉnh, trình độ cán bộ còn yếu thì cơ
sở đề nghị và do ty quyết định mới được thi hành); những định mức áp dụng cho
các cơ sở trong một ty hay toàn ngành thì do Trưởng ty hay Tổng cục trưởng quyết
định và cho thi hành.
Khi có những định mức của ty hoặc
tổng cục ban hành, các cơ sở trực thuộc phải tổ chức thực hiện theo những quy định
trong các định mức của cơ quan cấp trên.
Điều 11.
- Cấp bậc công việc là một trong những căn cứ cần thiết để thực hiện chế độ tiền
lương trả theo sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm hay phần việc đều được quy định một
cấp bậc công việc nhất định. Về nguyên tắc, cấp bậc kỹ thuật của công nhân phải
phù hợp với cấp bậc công việc.
Những công việc mà Nhà nước hoặc
tổng cục đã quy định cấp bậc công việc thống nhất thì phải thi hành theo quy định
ấy. Những công việc chưa có quy định cấp bậc công việc thống nhất vì do cơ sở
xác định và trình cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp xét duyệt và cho áp dụng.
Việc xác định cấp bậc công việc
phải căn cứ vào yêu cầu thực tế của sản xuất, tức là căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật,
tính chất của quá trình sản xuất và đặc điểm về tổ chức lao động của từng loại
công việc, đối chiếu với bản tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật để xét định
Điều 12.
- Mỗi đơn vị sản phẩm do công nhân sản xuất ra đều được trả một số tiền lương
nhất định, gọi là đơn giá sản phẩm.
Mức tiền lương để tính đơn giá sản
phẩm gồm lương cấp bậc công việc, phụ cấp khu vực và tỷ lệ khuyến khích (nếu
co); các loại phụ cấp khác sẽ tính riêng, không được tính vào đơn giá sản phẩm.
Đơn vị sản phẩm có thể tính bằng
các đơn vị tính toán đo lường như: mét, mét vuông, mét khối, cân, tạ, tấn,
stère, lít, cái, tấn/km v.v…
Đơn giá sản phẩm được xác định cắn
cứ vào mức lương ngày hay tháng của cấp bậc công việc và định mức thời gian hoặc
định mức sản lượng của mỗi loại sản phẩm. Về nguyên tắc, cùng một loại sản phẩm,
quy cách phẩm chất giống nhau, điều kiện sản xuất, công cụ thiết bị như nhau
thì đơn giá phải thống nhất.
1. Trường hợp định mức sản lượng:
a) Tính đơn giá sản phẩm do cá
nhân làm ra thì lấy lương cấp bậc công việc cộng phụ cấp khu vực và tỷ lệ khuyến
khích (nếu có) chia cho định múc sản lượng. Cụ thể là:
Đơn giá =
|
Lương cấp bậc công việc
|
Định mức sản lượng
|
Ví dụ: Lương một ngày của công
việc khai thác nửa (lấy bậc 1) làm cấp bậc công việc, nơi có 20% phụ cấp khu vực
là:
định mức sản lượng khai thác nứa
một công là 150 cây; đơn giá khai thác một cây nứa là:
b) Tính đơn giá sản phẩm do nhiều
công nhân phối hợp cùng làm (như một tổ sản xuất chẳng hạn) thì lấy lương cấp bậc
công việc bình quân của tổ (cộng phụ cấp khu vực và tỷ lệ khuyến khích nếu có) chia
cho định mức sản lượng bình quân của tổ. Cụ thể là
Đơn giá =
|
Lương cấp bậc công việc bình
quân
|
Định mức sản lượng bình quân
|
Ví dụ: Theo yêu cầu sản xuất, một
tổ khai thác và vận xuất gỗ có 13 công nhân, cấp bậc công việc được xác định là:
một bậc 4, một bậc 3, bốn bậc 2 và chín bậc 1; nơi có 20% phụ cấp khu vực,
lương cấp bậc công việc bình quân của một công nhân trong một ngày (kể cả 20%
phụ cấp khu vực):
(75đ00x1) + (66,24x1) +
(58,44x4) + (51,60x9)
|
= 2đ152
|
26x15
|
Định mức sản lượng cho khai thác
và vận xuất gỗ bình quân của một công nhân ra đến bãi (nơi nhận sản phẩm )
trong một ngày là
Đơn giá một mét khối gỗ ra đến
bãi là:
2. Trường hợp định mức thời
gian:
Tính đơn giá sản phẩm trong trường
hợp định mức thời gian thì lấy lương cấp bậc công việc (công phụ cấp khu vực và
tỷ lệ khuyến khích nếu có) của một đơn vị thời gian nhân với định mức thời
gian.
Ví dụ: Theo yêu cầu sản xuất, một
tổ tu bổ rừng gồm người công nhân, cấp bậc công việc được xác địmh là: hai bậc
2, tám bậc 1, nơi có 20% phụ cấp khu vực, lương cấp bậc công việc bình quân của
một công nhân (kể cả 20% phụ cấp khu vực) trong một ngày là:
(54đ36x2)
+ (48đ00x8)
|
= 1đ98
|
26x10
|
định mức thời gian cho tu bổ rừng
là 19 công một éc-ta (19 công/ha); đơn giá éc-ta rừng tu bổ là 1đ89 x 19 =
35đ91.
Điều 13.
– Tùy theo trình độ vận dụng phương pháp định mức và mức độ chính xác của các định
mức, các đơn vị đề nghị để tổng cục quyết định cho tính thêm vào đơn giá sản phẩm
một tỷ lệ khuyến khích lương sản phẩm, 5%, 7% hoặc 10% mức lương cấp bậc công
việc.
Khoản tỷ lệ khuyến khích này chỉ
áp dụng đối với những công việc được định mức theo phương pháp định mức có căn
cứ kỹ thuật và phương pháp thống kê kinh nghiệm có kết hợp phân tích kỹ thuật;
không áp dụng đối với những công việc còn định mức theo phương pháp so sánh, ước
lượng thiếu cơ sở thực tế và thống kê kinh nghiệm đơn thuần.
Về nguyên tắc, các định mức có mức
độ chính xác cao thì hưởng tỷ lệ khuyến khích và ngược lại, đồng thời có xét những
khâu sản xuất quan trọng và những công việc có nhiều phức tạp, khó khăn, nặng
nhọc để cho hưởng tỷ lệ khuyến khích cao hơn những khâu ít quan trọng và những
công việc đơn giãn, nhẹ nhàng.
Điều 14.
– Những công việc có quy định mức lương nóng có hại thì đơn giá sẽ tính trên cơ
sở mức lương nóng có hại.
Chương 3:
NGHIỆM THU SẢN PHẨM, CHẾ
ĐỘ TRẢ LƯƠNG VÀ CÁC CHẾ ĐỘ CẦN THIẾT ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN HƯỞNG LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Điều 15.
– Khi giao việc cho công nhân cần quy định thời gian hoàn thành công việc. Sau
mỗi đợt hoàn thành công việc, những sản phẩm do công nhân làm ra điều phải kịp
thời nghiệm thu và được thanh toán, đảm bảo mỗi tháng ít nhất là hai lần. Thời
gian thanh toán cụ thể sẽ do thủ trưởng đơn vị quy định với sự thỏa thuận của
công đoàn cùng cấp.
Khi nghiệm thu sản phẩm phải có
phiếu giao nhận rõ ràng giữa người sản xuất và cán bộ nghiệm thu. Ngoài sự kiểm
tra của cán bộ nghiệm thu, phải có tổ chức kiểm tra chặt chẽ của các cấp thủ
trưởng từ đội đến lâm trường theo định kỳ mười ngày hoặc một tháng một lần.
Điều 16.
– Sau khi nghiệm thu xác nhận đủ số lượng và quy cách kỹ thuật thì căn cứ vào
đơn giá để trả đủ toàn bộ tiền lương của công nhân theo số lượng và chất lượng
sản phẩm đã được nghiệm thu.
Nếu có hàng hỏng, xấu và sai phạm
quy trình kỹ thuật thì tùy trường hợp mà áp dụng theo “chế độ trả lương khi làm
ra hàng hỏng, xấu và sai phạm quy trình kỹ thuật ”, hiện hành. Các đơn vị cần
có quy định cụ thể về quy cách sản phẩm, quy trình kỹ thuật và có biện pháp cụ
thể để ngăn ngừa hiện tượng làm ẩu, làm dối để hạn chế tới mức tối đa tỷ lệ
hàng hỏng, xấu và công trình sai phạm kỹ thuật. Các quy định cụ thể về quy cách
sản phẩm, quy trình kỹ thuật và chế độ trả lương khi làm ra hàng hỏng, xấu, sai
phạm quy trình kỹ thuật phải được ghi rõ trong nội quy về chế độ trả lương theo
sản phẩm của từng đơn vị và phải phổ biến cho công nhân thông suốt.
Điều 17.
- Trường hợp sản phẩm đã nghiệm thu và đã trả đủ lương rồi mới phát hiện không
đủ số lượng hoặc không đúng quy cách kỹ thuật thì cán bộ nghiệm thu chịu trách
nhiệm. Nếu có hiện tượng do công nhân cố tình che giấu mà cán bộ nghiệm thu
không phát hiện được, sau khi kiểm tra, xác nhận thì ngoài việc thi hành các biện
pháp hành chính cần thiết còn giải quyết như sau:
- Đối với sản phẩm thiếu hụt thì
khấu trừ toàn bộ tiền lương tính theo đơn giá quy định cho số sản phẩm thiếu hụt
ấy.
- Đối với số sản phẩm không đúng
quy cách kỹ thuật thì khấu trừ số tiền lương theo quy định trong “chế độ trả
lương mỗi khi làm ra hàng hỏng, xấu” hiện hành.
Số tiền trên đã trừ dần vào tiền
lương của công nhân, nhưng hàng tháng trừ nhiều nhất không quá 30% tiền lương cấp
bậc và phụ cấp khu vực (nếu có) và đảm bảo số tiền còn được lĩnh không thấp hơn
mức lương tối thiểu.
Điều 18.
- Nếu có trường hợp do công nhân thiếu trách nhiệm thường làm hư hỏng thiết bị
dụng cụ, vật liệu v.v… làm đình trệ công việc sản xuất thì ngoài việc phải chịu
kỷ luật, chính quyền và công đoàn cùng cấp có thể tùy tình hình để quyết định bồi
thường một phần hay toàn bộ số tiền thiệt hại theo quy định của Nhà nước.
Số tiền này sẽ trừ dần vào tiền
lương nhưng hàng tháng không quá 15% tiền lương tháng của họ; nếu có thái độ tốt
và sửa chữa tốt thì có thể được xét giảm hoặc miễn số tiền bồi thường.
Điều 19.
- Định kỳ trả lương đối với công nhân làm việc theo chế độ tiền lương trả theo
sản phẩm cũng theo đúng thời gian quy định đối với công nhân hưởng lương thời
gian. Nếu gặp trường hợp đến ngày phát lương nhưng sản phẩm chưa nghiệm thu được
thì tạm ứng theo tiền lương tiêu chuẩn trong những ngày làm ra sản phẩm đó và
phải thanh toán số tiền thừa hoặc thiếu này vào kỳ phát lương sau.
Điều 20.
– Trên nguyên tắc tiền lương sản phẩm phải trả trực tiếp cho từng công nhân. Trường
hợp định mức và giao việc cho cá nhân thì căn cứ vào phiếu công tác cá nhân đã
được cán bộ nghiệm thu xác nhận để tính trả lương cho từng công nhân.
Trường hợp giao việc và tính trả
lương theo sản phẩm cho tập thể thì các cơ sở có trách nhiệm hướng dẫn việc
chia tiền lương cho công nhân theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động và đảm
bảo việc trả lương đến tận tay người công nhân. Việc chia tiền lương có thể tiến
hành theo những phương pháp sau đây:
1. Những công việc thủ công đơn
giản , cùng một cấp bậc công việc, năng suất lao động ở đây chủ yếu là do tinh
thần, thái độ lao động và tình trạng thể lực quyết định, sẽ do công nhân xét,
bình điểm hàng ngày và có thể chia tiền lương cho công nhân theo điểm.
2. Những công việc cần phải có
nhiều bậc thợ phối hợp cùng làm mới tiến hành sản xuất được (như công việc khai
thác gỗ chẳng hạn) năng suất lao động của tập thể công nhân chủ yếu là do hai yếu
tố: trình độ kỹ thuật và tinh thần, thái độ lao động quyết định. Việc chia tiền
lương phải chiếu cố thỏa đáng hai yếu tố đó có thể dung phương pháp chia tiền
lương bằng cách bình điểm để đánh giá tinh thần, thái độ lao động rồi lấy điểm ấy
nhân với hệ số cấp bậc công việc (biểu hiện trình độ kỹ thuật), tích số ấy được
gọi là điểm hệ số và chia tiền lương cho công nhân theo điểm hệ số ấy.
3. Những công việc cần bố trí
nhiều bậc thợ cùng làm đã cố định được phần việc cho từng người thợ với trình độ
nghề nghiệp nhất định và trong quá trình sản xuất đòi hỏi phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các loại thợ với nhau khiến mọi người phải có sự cố gắng để bảo đảm
phần việc của mình và bảo đảm cho dây chuyền sản xuất được liên tục, trường hợp
này năng suất lao động của tập thể chủ yếu là do trình độ kỹ thuật quyết định,
có thể dùng phương pháp của tiền lương theo hệ số cấp bậc công việc và số ngày
làm việc của mỗi người phụ trách công việc đó.
Việc áp dụng phương pháp chia tiền lương nào điều do công nhân trong từng tổ lựa
chọn, đồng thời phải hướng dẫn cho công nhân thông suốt yêu cầu, nội dung của từng
phương pháp để thực hiện cho tốt.
Điều 21.
- Mỗi kỳ phát lương, tiền lương của công nhân được lĩnh gồm: tiền lương tính
theo đơn giá của số sản phẩm đã sản xuất ra; tiền lương thời gian trong những
trường họp không làm việc theo chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, tiền lương
trong những ngày ngừng việc, nghỉ việc do Nhà nước quy định được trả lương và
các khoản phụ cấp không được tính vào đơn giá sản phẩm .
Điều 22.
– Khi giao việc cho công nhân, các cơ sở có trách nhiệm đảm bảo cấp bậc kỹ thuật
của công nhân luôn luôn phù hợp với cấp bậc công việc.Trường hợp đặc biệt không
thể giao việc phù hợp được thì giải quyết như sau:
1. Công nhân có cấp bậc cao làm
công việc ở cấp bậc thấp hơn từ hai bậc trở lên thì ngoài tiền lương tính theo
đơn giá của số sản phẩm sản xuất ra, còn được hưởng thêm khoản tiền chênh lệch
giữa hai mức lương cấp bậc công nhân và cấp bậc công việc với điều kiện là phải
hoàn thành định mức: Nếu không hoàn thành được định mức thì chỉ trả lương theo
đơn giá số sản phẩm đã xuất ra. Trường hợp cấp bậc kỹ thuật của công nhân cao
hơn một bậc so với cấp bậc công việc thì chỉ hưởng lương theo đơn giá số sản phẩm
đã xuất ra, không tính tiền chênh lệch giữa hai mức lương cấp bậc công nhân và
cấp bậc công việc.
2. Công nhân bậc thấp đảm bảo được
yêu cầu và chất lượng công việc bậc cao, được bố trí làm công việc bậc cao thì
được hưởng lương theo đơn giá sản phẩm quy định cho công việc bậc cao; không được
vì cấp bậc công nhân thấp mà hạ thấp đơn giá hoặc tăng định mức đã quy định cho
công việc ấy.
3. Riêng đối với công nhân làm
những công việc đơn giản không cần dùng đến kỹ thuật, hoặc hưởng mức lương theo
điều kiện lao động nặng nhẹ khác nhau đã ghi rõ trong các bảng lương nghề nghiệp,
khi làm công việc nào thì trả lương theo đơn giá sản phẩm quy định cho công việc
ấy; không được tính trả chênh lệch.
Điều 23.
- Lần đầu tiên thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, khi thay đổi mặt
hàng sản xuất, khi điều chỉnh nâng định mức sản lượng và những công việc còn định
mức tạm thời, nếu có trường hợp công nhân không đạt mức thì tiền lương sẽ được
đảm bảo như sau:
1. Nếu trên một phần ba (1/3) số
công nhân trong bộ phận được giao việc bị hụt mức thì được bảo đảm trả đủ lương
cấp bậc và phụ cấp khu vực (nếu có) từ một đến ba tháng, do thủ trưởng lâm trường
quyết định, sau khi thống nhất ý kiến với Ban chấp hành Công đoàn cùng cấp.
2. Nếu dưới một phần ba (1/3) số
công nhân trong bộ phận được giao việc bị hụt mức thì trả lương theo đơn giá số
sản phẩm sản xuất ra, nhưng được bảo đảm không thấp quá 80% lương cấp bậc và phụ
cấp khu vực (nếu có) trong thời gian ba tháng; đơn vị có trách nhiệm tích cực
giúp đỡ để những công nhân ấy đạt được định mức.
Riêng những công nhân được giao
việc theo khối lượng thì việc so sánh chung toàn bộ khối lượng được giao.
Điều 24.
– Khi công nhân phải ngừng việc vì máy móc, thiết bị, vì thời tiết, thiên tai
hoặc vì nguyên nhân khác, thủ trưởng đơn vị phải kịp thời bố trí làm việc khác
và tiền lương được trả như sau:
1. Nếu tạm thời đều động làm
công việc khác nghề đang áp dụng chế độ lương sản phẩm, sẽ được trả lương tính
theo đơn giá số sản phẩm sản xuất ra.
2. Nếu tạm thời điều động làm
công việc khác nghề đang áp dụng chế độ trả lương theo thời gian thì sẽ trả
lương theo thời gian của công việc được giao.
Trong cả hai trường hợp trên đều
được đảm bảo trả lương không thấp quá 80% lương cấp bậc và phụ cấp khu vực (nếu
có) của bản thân công nhân trước khi ngừng việc.
3. Nếu công nhân ngừng việc mà
không bố trí được công việc khác thì tùy từng trường hợp mà áp dụng theo “chế độ
trả lương khi ngừng việc ” hiện hành.
Điều 25.
– Những ngày được cử đi công tác đi họp hay làm công việc nào khác được cấp
trên giao cho, những ngày nghỉ lễ, nghỉ phép hàng năm và nghỉ phép có chế độ do
Nhà nước quy định được trả lương thì áp dụng theo chế độ trả lương hiện hành.
Điều 26.
– Những nữ công nhân đang hưởng lương sản phẩm được rút bớt giờ làm việc theo
quy định của Nhà nước như trong các trường hợp cho con bú, có thai từ tháng thứ
bẩy trở đi trong một số nghề v.v… thì ngoài tiền lương tính theo đơn giá của số
sản phẩm sản xuất ra, những giờ nghỉ ngơi được trả lương theo chế độ hiện hành.
Những nữ công nhân có thai từ
tháng thứ bẩy trở đi đang làm công việc nặng nhọc được chuyển sang làm công việc
nhẹ được hưởng lương theo chế độ hiện hành.
Điều 27.
– Đối với những người học nghề theo lối kèm cặp và trong thời gian tập sự không
áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm. Đối với những công nhân tạm chuyển đang
hưởng 85% lương cấp bậc, nếu thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thì
vẫn trả lương theo chế độ hiện hành.
Điều 28.
- Trường hợp làm thêm giờ theo quy định của Nhà nước được trả mức lương hoặc phụ
cấp cao hơn lương giờ thường thì ngoài tiền lương tính theo đơn giá số sản phẩm
sản xuất ra, sẽ được trả thêm phần lương hoặc phụ cấp cao hơn mức lương giờ thường
tính theo số giờ thực tế đã làm thêm.
Điều 29.
– Những công nhân hưởng lương theo sản phẩm được giao nhiệm vụ dạy nghề theo lối
kèm cặp, nếu đảm bảo đúng yêu cầu của cấp trên giao cho được hưởng phụ cấp dậy
nghề theo chế độ hiện hành.
Điều 30.
– Ngoài những điều quy định cụ thể trên đây, công nhân hưởng chế độ tiền lương
trả theo sản phẩm được hưởng đầy đủ các chế độ lao động và các khoản đãi ngộ
khác do Nhà nước quy định như những công nhân hưởng chế độ trả lương theo thời
gian.
Chương 4:
TỔ
CHỨC THỰC HIỆN VÀ PHẠM VI TRÁCH NHIỆM CÙA CÁC BỘ MÔN CÓ LIÊN QUAN
Điều 31. - Chế độ tiền
lương trả theo sản phẩn là hình thức chính của chế độ tiền lương đồng thời cũng
là một chế độ quản lý quan trọng của các xí nghiệp xã hội chủ nghĩa nhằm phát
huy tác dụng của quy luật phân phối theo lao động, đẩy mạnh sản xuất phát triển.
Cán bộ lãnh đạo các cấp trong
ngành có trách nhiệm thực hiện một cách tích cực và nghiêm chỉnh chế độ này dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng ủy và sự phối hợp chặt chẽ với Công đoàn và
Đoàn Thanh niên lao động cùng cấp. Phải theo đúng tinh thần và những quy định của
bản điều lệ này để không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng công tác lương sản
phẩm trong đơn vị mình; phải nắm vững tình hình thực hiện chế độ tiền lương trả
theo sản phẩm, những vấn đề phát sinh và còn tồn tại để cùng các bộ môn có liên
quan giải quyết kịp thời.
Phó thủ trưởng phụ trách kinh
doanh ở các cấp trực tiếp phụ trách công tác này. Ở những đơn vị không có phó
thủ trưởng thì thủ trưởng đơn vị trực tiếp phụ trách.
Điều 32.
– Các cơ sở tiến hành thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm cần làm tốt
những việc sau đây:
1. Tăng cường công tác kế hoạch,
bảo đảm phân phối nhiệm vụ công tác đầy đủ, rõ ràng, kịp thời; cung cấp đầy đủ
nhân lực máy móc, dụng cụ, nguyên nhiên vật liệu v.v… theo yêu cầu sản xuất;
tránh hiện tượng chờ đợi và làm cho sản xuất bị gián đoạn.
2. Chỉ đạo chặt chẽ và xây dựng
tốt các định mức lao động cho từng khâu sản xuất và từng loại công việc, có biện
pháp quản lý chặt chẽ và sử dụng tốt lao động, đề cao kỷ luật lao động; coi trọng
công tác an toàn lao động và an toàn kỹ thuật.
3. Nghiên cứu quy định cụ thể và
chính xác cấp bậc công việc để tính đơn giá hợp lý.
4. Có nội quy cụ thể về thực hiện
chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thích hợp với từng cơ sở và từng khâu sản
xuất, quy định chặt chẽ chỉ tiêu chất lượng sản phẩm và quy trình kỹ thuật
trong sản xuất.
5. Hướng dẫn công nhân, tổ, đội
sản xuất lập và ghi phiếu công tác; bảo đảm thống kê, kiểm tra, nghiệm thu chặt
chẽ kịp thời về số lượng và chất lượng sản phẩm để trả lương cho công nhân được
chính xác. Có định kỳ ba hoặc sáu tháng tổ chức phân tích hiệu quả kinh tế của
chế độ tiền lương trả theo sản phẩm.
6. Thường xuyên nắm vững tình
hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình hoàn thành định mức lao động của
công nhân, tổ, đội sản xuất để kịp thời phân tích tình hình, có biện pháp giúp
đỡ công nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ.
7. Có kế hoạch đúc kết và phổ biến
kinh nghiệm tiên tiến nhằm khuyến khích cải tiến kỹ thuật và áp dụng kỹ thuật mới
một cách rộng rãi, đi sát giúp đỡ những cá nhân và đơn vị không đạt mức.
8. Luôn coi trọng công tác giáo
dục chính sách, lãnh đạo tư tưởng; quan tâm đến việc không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần, văn hoá của cán bộ, công nhân, giúp công nhân giải quyết những
khó khăn trong sản xuất, sinh hoạt và học tập để tiến hành sản xuất được tốt.
9. Tăng cường chỉ đạo bộ môn lao
động tiền lương là bộ môn có trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực hiện chế
đọ tiền lương trả theo sản phẩm, các chế độ tiền thưởng, công tác định mức lao
động và thực hiện các chính sách, chế độ về lao động tiền lương.
Điều 33. -
Bộ môn lao động tiền lương và định mức lao động chịu trách nhiệm chính trong việc
tổ chức thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, có nhiệm vụ chủ yếu như
sau:
1. Thường xuyên nắm vững tình
hình sử dụng thì giờ làm việc và thời gian lao động của công nhân; có biện pháp
giải quyết kịp thời những vấn đề tồn tại nhằm tận dụng thời gian làm việc, tận
dụng điều kiện mở rộng chế độ tiền lương trả theo sản phẩm.
2. Thường xuyên đi sát sản xuất,
dung phương pháp khảo sát thời gian lao động để cải tiến và nâng cao chất lượng
công tác định mức; phát hiện và đề nghị những biện pháp có hiệu quả để giải quyết
các vấn đề tồn tại về tổ chức sản xuất và tổ chức lao động nhằm sử dụng hợp lý
sức lao động và không ngừng nâng cao năng suất lao động.
3. Nắm vững tình hình vượt và hụt
mức tăng và giảm về tiền lương; tiến hành phân tích một cách có hệ thống, tích
lũy tài liệu và ý kiến giải quyết về những vấn đề này, đặc biệt vấn đề định mức
và đơn giá.
4. Nắm chắc những số liệu thống
kê về nghiệm thu sản phẩm và thời gian lao động của công nhân để giám sát việc
trả lương được chính xác, kịp thời.
5. Chú trọng sơ kết, tổng kết
tình hình thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm để đánh giá một cách
toàn diện kết quả chung, đề xuất ý kiến giải quyết những vấn đề tồn tại về
chính sách, về tổ chức thực hiện và biện pháp nghiệp vụ để không ngừng mở rộng
diện và nâng cao chất lượng công tác lương sản phẩm.
6. Phối hợp với các bộ môn kỹ
thuật, giáo dục để tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến trong sản
xuất.
Điều 34. -
Bộ môn kiểm tra nghiệm thu sản phẩm phải có chế độ công tác rõ ràng, phải nghiệm
thu kịp thời và chu đáo những sản phẩm của công nhân làm ra, có biên nhận về số
lượng và chất lượng sản phẩm ghi trong phiếu công tác của công nhân, tổ, đội sản
xuất, có sổ sách ghi chép, thống kê về số lượng và chất lượng sản phẩm để giúp
cho bộ phận kế toán trả lương được chính xác.
Trong công tác kiểm tra, cần chú
trọng đúng mức việc kiểm tra chất lượng sản phẩm và quy trình kỹ thuật; kiểm
tra và giúp đỡ công nhân giữ gìn, bảo quản tốt sản phẩm hàng hóa.
Điều 35. -
Bộ môn kế hoạch có trách nhiệm xây dựng và phân bố kế hoạch sản xuất được sít
sao, kịp thời, bảo đảm cho sản xuất được tiến hành thuận lợi và liên tục, xóa bỏ
dần tình trạng làm việc không có kế hoạch chu đáo, chấp vá, làm cho kế hoạch sản
xuất không ổn định, ảnh hưởng đế việc phân bổ, quản lý và sử dụng lực lượng lao
động và ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm.
Điều 36. -
Bộ môn thống kê có trách nhiệm thống kê kịp thời và chính xác tình hình thực hiện
kế hoạch sản xuất, tình hình sử dụng lao động, thực hiện định mức lao động, thực
hiện quỹ tiền lương và tình hình biến động của giá thành, cùng với bộ môn lao động
tiền lương phân tích các tình hình nói trên, phân tích hiệu quả kinh tế của việc
thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, đề xuất những biện pháp để nâng
cao chất lượng công tác lương sản phẩm và bảo đảm thực hiện tốt, cân đối các chỉ
tiêu trên.
Điều 37. -
Bộ môn kỹ thuật có trách nhiệm chủ yếu là tạo mọi điều kiện cần thiết và hết
lòng giúp đỡ công nhân hoàn thành các định mức lao động để không ngừng nâng cao
năng suất lao động, cụ thể là:
1. Nghiên cứu quy định chỉ tiêu
chất lượng sản phẩm, quy trình kỹ thuật trong sản xuất; hướng dẫn công nhân đảm
bảo tốt chất lượng sản phẩm và thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, sử dụng và bảo
quản tốt máy móc, thiết bị, dụng cụ sản xuất, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu
v.v…, nhằm sản xuất được nhiều sản phẩm chất lượng tốt, đồng thời bảo đảm được
an toàn kỹ thuật và an toàn lao động.
2. Thường xuyên tìm tòi, phát hiện,
tổng hợp, phân tích và phổ biến những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến của công
nhân trong việc cải tiến thiết bị, phương tiện và dụng cụ sản xuất; giúp công
nhân nắm vững và áp dụng tốt các công cụ cải tiến và những sáng kiến về hợp lý
hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật; đặt biệt quan tâm đến những người vượt mức và
hụt mức, phân tích nguyên nhân để kịp thời có kế hoạch và biện pháp giúp đỡ có
hiệu quả.
Điều 38. -
Bộ môn kế toán có trách nhiệm tính toán và trả lương cho công nhân được kịp thời,
chính xác theo chế độ đã quy định; theo dõi tình hình chi tiêu quỹ tiền lương,
phát hiện và đề xuất ý kiến giải quyết để giữ vững sự cân đối giữa việc chi
tiêu quỹ tiền lương và hoàn thành kế hoạch sản xuất; góp ý trong việc thực hiện
chế độ và phương pháp tính toán trả lương cho công nhân theo đúng chế độ đã quy
định.
Điều 39. –
Những công nhân thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm có nhiệm vụ phải
tôn trọng và thi hành đúng các nội quy của đơn vị, tôn trọng kỷ luật lao động,
phải cố gắng học tập, cải tiến kỹ thuật và phương pháp làm việc để không ngừng
nâng cao năng suất lao động, hoàn thành các định mức lao động, bảo đảm chất lượng
sản phẩm và quy trình kỹ thuật, sử dụng và bảo quản tốt máy móc, thiết bị, dụng
cụ sản xuất, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, bảo đảm an toàn thiết bị và an
toàn lao động, phát huy tích cực, chủ động và sáng tạo để thực hiện tốt chế độ
tiền lương trả theo sản phẩm.
Điều 40. –
Trong khi thực hiện, từng địa phương, cơ sở cần xây dựng nội quy cụ thể về chế
độ tiền lương trả theo sản phẩm cho thích hợp với địa phương cơ sở mình nhưng
không được trái với những nguyên tắc và quy định trong điều lệ này.
Điều 41. -
Điều lệ này thay thế những văn bản của Tổng cục từ trước đến nay quy định và hướng
dẫn về chế độ tiền lương trả theo sản phẩm trong ngành lâm nghiệp.