THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
205/2003/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2003
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 205/2003/QĐ-TTG NGÀY 02 THÁNG 10 NĂM 2003 VỀ VIỆC PHÊ
DUYỆT ĐỀ ÁN "TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
SAU CAI NGHIỆN" TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Phòng, chống ma tuý ngày 22 tháng 12 năm 2000;
Căn cứ Nghị quyết số 16/2003/QH11 ngày 17 tháng 6 năm 2003 của Quốc hội về
việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho
người sau cai nghiện ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố
khác trực thuộc Trung ương;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt đề án "Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết
việc làm cho người sau cai nghiện" của thành phố Hồ Chí Minh (kèm theo Quyết
định này).
Điều 2. Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm tổ chức
thực hiện thí điểm Đề án; hàng năm tổ chức sơ kết đánh giá tình hình thực hiện
Đề án và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Điều 3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ
Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm
chỉ đạo thực hiện Đề án theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đồng thời
có biện pháp giúp thành phố Hồ Chí Minh tháo gỡ các vướng mắc về pháp lý, chính
sách và các vấn đề liên quan; định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực
hiện Đề án của thành phố Hồ Chí Minh.
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng Công báo.
Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh,
thành phố có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
MỤC LỤC
I
|
|
Sự cần thiết phải
tiếp tục tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai
nghiện
|
3
|
|
1
|
Khái quát thực
trạng tệ nạn nghiện ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh
|
3
|
|
2
|
Một số kết quả bước
đầu trong công tác phòng, chống ma tuý và cai nghiện, phục hồi của thành phố
thời gian qua
|
3
|
|
3
|
Những khó khăn,
tồn tại trong công tác phòng, chống ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh
|
5
|
|
4
|
Từ thực tiễn hoạt
động cai nghiện phục hồi và phòng, chống tái nghiện, thành phố Hồ Chí Minh
rút ra một số nhận xét
|
6
|
II
|
|
Nội dung đề án
|
7
|
A
|
|
Mục tiêu của Đề
án
|
7
|
B
|
|
Tổng quan về
phương thức giải quyết, bố trí đối với người sau cai nghiện
|
7
|
|
1
|
Nguyên tắc chung
|
7
|
|
2
|
Đối tượng áp dụng
|
7
|
|
3
|
Thời gian áp dụng
|
8
|
|
4
|
Các phương thức
bố trí người sau cai nghiên
|
8
|
|
5
|
Những trường hợp
xem xét cho về gia đình
|
8
|
C
|
|
Các phương thức giải
quyết việc làm cho người sau cai nghiện
|
9
|
|
1
|
Làm việc tại các
cụm công nghiệp đặc biệt
|
9
|
|
2
|
Làm việc và định
cư cơ sở cai nghiện
|
11
|
|
3
|
Làm việc tại các
Đội, Tổng đội lao động tình nguyện có tính cơ động
|
13
|
|
4
|
Làm việc tại các
Hợp tác xã, các cơ sở sản xuất do gia đình người sau cai nghiện và các tổ chức
hoặc cá nhân thuộc các thành phần kinh tế thành lập.
|
13
|
D
|
|
Tổ chức dạy văn
hoá, dạy nghề cho người sau cai nghiện
|
15
|
|
1
|
Dạy văn hoá
|
15
|
|
2
|
Dạy nghề
|
15
|
E
|
|
Các chế độ,
chính sách đối với người sau cai nghiện
|
16
|
|
1
|
Chế độ quản lý
người sau cai nghiện
|
16
|
|
2
|
Chính sách đối với
người sau cai nghiện
|
17
|
|
3
|
Khen thưởng và kỷ
luật
|
17
|
III
|
|
Giải pháp và tổ
chức thực hiện
|
18
|
A
|
|
Các giải pháp
|
18
|
|
1
|
Vốn đầu tư
|
18
|
|
2
|
Chính sách ưu
đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất
|
19
|
|
3
|
Về công tác cán
bộ
|
20
|
|
4
|
Về quản lý trật tự
trị an tại các cơ sở giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện
|
21
|
|
5
|
Về kiểm tra các
cơ sở quản lý người sau cai nghiện
|
22
|
|
6
|
Về những vấn đề
khác
|
22
|
B
|
|
Về tổ chức thực
hiện Đề án
|
22
|
IV
|
|
Thời gian và tiến
độ thực hiện
|
23
|
V
|
|
Kết luận và kiến
nghị
|
23
|
|
1
|
Dự báo thuận lợi
và khó khăn phát sinh
|
23
|
|
2
|
Kết luận và kiến
nghị
|
25
|
ĐỀ ÁN
TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN
(Ban hành kèm theo Quyết định số 205/2003/QĐ-TTg ngày 02 tháng 10 năm 2003 của
Thủ tướng Chính phủ)
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾP TỤC TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN
1. Khái quát thực trạng tệ nạn nghiện ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh:
Trong những năm gần
đây, tệ nạn nghiện ma túy ở Việt Nam, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh có
xu hướng gia tăng nhanh. Theo số liệu của các cơ quan chức năng của thành phố,
đầu năm 1996, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 5.300 người nghiện ma tuý. Đến 15
tháng 6 năm 2002, kết quả điều tra từ thực tiễn cho thấy số người nghiện tăng
lên hơn 24.000 người và hiện nay lên đến khoảng 30.000 người. Đáng lo ngại hơn
là ma tuý tổng hợp có tính gây nghiện nhanh và độc hại cao đã xuất hiện tại
thành phố trong vài năm gần đây cùng với việc sử dụng ma tuý qua đường tiêm
chích đã tăng sự lây nhiễm HIV/AIDS. Tệ nạn nghiện ma tuý gia tăng tạo ra sự bất
an trong đời sống xã hội, nhân dân lo lắng, ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng và
phát triển thành phố; đồng thời ma tuý còn gây tác hại xấu cho sức khoẻ, đặc biệt
là trong thanh thiếu niên nghiện hút, chích, ảnh hưởng tới giống nòi dân tộc, để
lại hậu quả nghiêm trọng cho các thế hệ mai sau.
2. Một số kết quả bước đầu trong công tác phòng, chống ma tuý và cai
nghiện, phục hồi của thành phố thời gian qua:
Ý thức được hiểm
hoạ ma tuý, Đảng bộ và chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã khẩn trương thực
thi hàng loạt biện pháp mang tính chất cấp bách và lâu dài để phòng, chống tệ nạn
ma tuý. Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ VII đã đề ra Chương trình mục
tiêu 3 giảm: giảm ma tuý, giảm mại dâm và giảm tội phạm. Ngày 23 tháng 7 năm
2001, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ra Quyết định số 62/2001/QĐ-UB ban hành Kế
hoạch thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm giai đoạn 2001 - 2005; trong đó có
mục tiêu tập trung quản lý 17.000 người nghiện để chữa trị, phục hồi sức khoẻ,
nhân cách...
Sau hơn 01 năm rưỡi
thực hiện, với sự chỉ đạo kiên quyết của Thành uỷ và ủy ban nhân dân thành phố,
sự nỗ lực của các sở - ngành, quận - huyện, các trường và trung tâm cai nghiện,
thành phố đã kiềm chế, chuyển hoá được nhiều địa bàn, tụ điểm phức tạp về ma
tuý. Hiện nay, thành phố có 5.004/13.778 tổ dân phố (36,32%), 200 khu phố không
có người nghiện ma tuý. Trong 2 năm 2001 - 2002, thành phố đã đầu tư trên 300 tỷ
đồng để sửa chữa, nâng cấp, mở rộng và xây mới 16 trường, trung tâm giáo dục để
tập trung chữa trị, giáo dục, phục hồi nhân cách cho hơn 20.000 người nghiện ma
tuý; đang thi công xây dựng mới Trung tâm cai nghiện trọng điểm của thành phố,
Trung tâm giáo dục, dạy nghề Phụ nữ 2, Trung tâm giáo dục dạy nghề Bình Triệu 2
tại huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước... để nâng sức chứa lên 30.000 học viên
cai nghiện vào cuối năm 2003 với tổng diện tích 2.896,36 ha. Hiện nay, thành phố
đang tập trung quản lý gần 25.000 người nghiện tại các trường, trung tâm. Việc
đưa một số lượng lớn người vào cai nghiện tập trung trong thời gian qua đã đem
lại hiệu quả to lớn trên nhiều lĩnh vực: kéo giảm gần 10% số vụ phạm pháp hình
sự, triệt phá được nhiều tổ chức vận chuyển, mua bán ma tuý với số lượng lớn,
ngăn chặn sự lây lan trong cộng đồng xã hội, góp phần xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh; thúc đẩy phát triển kinh tế thành phố; đồng thời đem lại niềm
tin cho hàng chục ngàn gia đình có con em nghiện ma tuý, tạo được sự đồng thuận
cả trong cán bộ và nhân dân thành phố.
Hưởng ứng Chương
trình mục tiêu 3 giảm, nhiều tổ chức và cá nhân trong thành phố còn tích cực
góp phần vào các hoạt động thăm hỏi, giao lưu, động viên, liên kết đầu tư tổ chức
dạy nghề, giải quyết việc làm cho các em học viên cai nghiện. Tổng giá trị đầu
tư trang thiết bị dạy nghề, sản xuất từ tất cả các nguồn lực mang tính xã hội
hoá nói trên là gần 3 tỷ đồng và tổng giá trị quà tặng trên 1 tỷ đồng. Tại các trường,
Trung tâm cai nghiện của thành phố, ngoài yếu tố cơ sở vật chất được thành phố
đầu tư xây dựng, nâng cấp trở nên khang trang, sạch đẹp, tương đối đầy đủ tiện
nghi, học viên còn được học tập văn hoá, học nghề, được tham gia nhiều loại
hình vui chơi giải trí mang tính giáo dục và thẩm mỹ, được tiếp xúc, gặp gỡ với
nhiều đoàn của các quận - huyện, sở - ngành, mặt trận, tôn giáo, đoàn thể các cấp,
qua đó, được động viên và cảm nhận được sự gần gũi chăm sóc của chính quyền và
của cộng đồng đối với mình, từ đó phần lớn tỏ ra yên tâm, cố gắng rèn luyện, học
tập, lao động sản xuất, chấp hành tốt quy định của cơ sở cai nghiện, số vi phạm
kỷ luật rất ít.
Học viên cai nghiện
được tổ chức tham gia lao động sản xuất bằng nhiều hình thức tuỳ theo tình trạng
sức khoẻ và khả năng. Lao động vừa được coi là liệu pháp điều trị cai nghiện vừa
giúp các em góp phần cải thiện bữa ăn, giảm được một phần chi phí từ ngân sách
và đóng góp từ gia đình.
Hiện nay, 16 trường,
trung tâm của thành phố đã tự túc được 100% rau xanh, 70 - 80% thực phẩm. Bước
đầu, thu nhập từ lao động của học viên còn thấp, chỉ bằng 1/4 - 1/2 người lao động
bình thường nhưng đang có xu hướng ngày càng tăng (bình quân là 100.000 đồng -
150.000 đồng/tháng) do nỗ lực tìm kiếm việc làm phù hợp với học viên của các
trường, trung tâm cai nghiện. Các trường, trung tâm cũng đã hình thành 9 Đội học
viên tình nguyện với tổng số 1.772 học viên được bố trí tham gia lao động sản
xuất ở nhiều loại hình: thêu, may, đan mây tre lá; sản xuất hàng gia dụng, thủ
công mỹ nghệ; chế biến cà phê, hạt điều, đậu nành, bột mỳ...; trồng cây công
nghiệp, cây ăn trái, trồng rừng; chăn nuôi gia súc, gia cầm; sản xuất vật liệu
xây dựng (đá, gạch); tham gia một số công trình xây dựng cấp thành phố như nâng
cấp mở rộng tuyến đường rừng Sác - Cần Giờ, ĐT 750 trên 30 km từ thuỷ điện Thác
Mơ vào Trung tâm cai nghiện trọng điểm của thành phố ở tỉnh Bình Phước.
3. Những khó
khăn, tồn tại trong công tác phòng, chống ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh:
Qua thống kê, phân loại số người
nghiện đang được chữa trị, giáo dục tại các trường, trung tâm cai nghiện cho thấy
đa số còn rất trẻ: dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 7,22%; từ 18 - 25 tuổi chiếm
50,65%; từ 26 - 30 tuổi chiếm 29,58%; từ 31 - 40 chiếm 10,45%; trên 40 tuổi chiếm
2,10%; trình độ học vấn thấp (11,52% bị mù chữ, 30,16% cấp I, 41,93% cấp II); số
có nghề nghiệp chuyên môn rất ít (khoảng 9%), trong đó chủ yếu là đào tạo theo
lối kèm cặp, số đã được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ công nhân kỹ thuật tới
đại học rất thấp, chỉ chiếm 1,58%. Trong số người đang cai nghiện, chỉ có 4,91%
là công nhân, viên chức, số còn lại không có nghề nghiệp, việc làm trước khi
vào cai nghiện (52,55%) hoặc đang đi học (3,11%) hay tuy có việc làm nhưng là
lao động phổ thông, không ổn định (39,39%). Đây là nhóm có nguy cơ tái nghiện
cao do hầu hết không có nghề nghiệp, không có việc làm, dễ bị lôi kéo vào việc
sử dụng ma tuý, buôn bán ma tuý khi trở về địa bàn dân cư còn nhiều phức tạp,
vì tệ nạn mua bán ma tuý tại thành phố tuy đã giảm nhưng chưa dứt hẳn.
Trong những năm qua, các trường,
Trung tâm cai nghiện của thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều biện pháp để tổ chức
dạy văn hóa, dạy nghề cho người vào cai nghiện nhưng do hầu hết các cơ sở này
trú đóng tại các địa bàn xa thành phố, không có điều kiện về cơ sở vật chất,
giáo viên, kinh phí để tổ chức cho tất cả học viên được tham gia học văn hóa, học
nghề nên số người có nhu cầu học văn hóa và học nghề để có khả năng tự kiếm sống
bằng lao động nghề nghiệp của mình sau khi cai nghiện vẫn còn rất lớn.
Căn cứ kết quả phân loại sức khỏe
số học viên cai nghiện tại các trường, trung tâm do bác sĩ các bệnh viện thuộc
Sở Y tế thành phố khám vào cuối năm 2002 cho thấy đa số học viên bị mắc từ 01 bệnh
trở lên như suy dinh dưỡng, bệnh đường hô hấp, bệnh đường tiêu hóa và bệnh da
liễu... một bộ phận bị nhiễm HIV/AIDS.
4. Từ thực tiễn
hoạt động cai nghiện phục hồi và phòng, chống tái nghiện, thành phố Hồ Chí Minh
rút ra một số nhận xét sau:
- Tại các đô thị lớn, dân cư
đông và phức tạp, việc kiểm soát ngăn chặn hoàn toàn tệ nạn ma tuý còn nhiều
khó khăn, phức tạp; việc mua bán, vận chuyển và sử dụng ma tuý vừa tinh vi, vừa
phổ biến, thì việc cai nghiện ma tuý tập trung là mô hình phù hợp nhất để giúp
người nghiện cách ly khỏi cơ hội tiếp xúc với ma tuý. Mô hình này còn giúp người
nghiện được chữa trị, phục hồi sức khoẻ, học tập nâng cao nhận thức, học nghề,
giải trí lành mạnh và lao động tạo ra của cải vật chất. Mô hình cai nghiện tại
cộng đồng chỉ có hiệu quả đối với một số ít trường hợp cá biệt.
- Phần lớn người nghiện vào cai
nghiện tập trung trong thời gian ngắn trở về gia đình đều tái nghiện (trên
90%). Nguyên nhân khách quan chính là do thời gian cai nghiện tập trung chưa đủ
để người nghiện rèn luyện, phục hồi nhân cách, hình thành thói quen và lối sống
tích cực, thực sự thoát khỏi sự lệ thuộc về tâm lý đối với ma tuý; đặc biệt là
do môi trường xã hội còn nhiều phức tạp. Tệ nạn mua bán ma tuý tại các thành phố
tuy đã giảm trước sự tấn công quyết liệt của các cơ quan chức năng song cuộc đấu
tranh chống bọn tội phạm này chưa chấm dứt, ít nhất là trong vài năm tới. Ngoài
ra, trong xã hội còn một bộ phận dân cư có lối sống thiếu lành mạnh và tồn tại
các tệ nạn xã hội khác sẽ có tác động không nhỏ đến môi trường sống của người
cai nghiện trở về.
- Đa số người nghiện có trình độ
học vấn thấp, không có nghề nghiệp, không có việc làm hoặc việc làm không ổn định,
sống phụ thuộc vào gia đình. Do vậy, sau khi cai nghiện một thời gian ngắn trở
về gia đình vẫn rất khó khăn tìm kiếm việc làm nên dễ bị bạn bè xấu lôi kéo đi
đến sa ngã, dùng ma tuý trở lại.
Tất cả những vấn đề trên đều dẫn
đến hệ quả là nguy cơ tái nghiện cao, hiệu quả hoạt động phòng, chống tệ nạn
nghiện bị hạn chế, nguy cơ bùng phát đại dịch HIV/AIDS từ số đông người sử dụng
ma túy càng tăng lên. Do vậy, cần phải có biện pháp quyết liệt, có hiệu quả hơn
để giải quyết triệt để tệ nghiện ma túy và tái nghiện. Kinh nghiệm từ các nước
trên thế giới cho thấy người nghiện ma túy không tái sử dụng các chất gây nghiện
ít nhất là 10 năm sau khi cai nghiện mới được xem là bình phục. Vì thế, người
sau cai nghiện ma tuý cần được tập trung quản lý thêm một thời gian nhất định
trong môi trường lành mạnh, không có ma tuý, được đào tạo nghề và giải quyết việc
làm để tiếp tục rèn luyện, chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng một cách vững chắc.
Nghị quyết số 16/2003/QH11 của Quốc hội đã cho phép thành phố Hồ Chí Minh và một
số tỉnh, thành phố khác thực hiện thí điểm việc tổ chức quản lý, dạy nghề và giải
quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý. Đề án của thành phố Hồ Chí Minh
về "Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai
nghiện ma tuý" được lập và thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 16/2003/QH11
sẽ góp phần giải quyết tình trạng bức xúc hiện nay trong công tác phòng, chống
tái nghiện và tái hoà nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện.
II. NỘI
DUNG ĐỀ ÁN
A. Mục tiêu của
đề án:
Thí điểm tổ chức quản lý, dạy
nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý, đảm bảo để họ được
tiếp tục rèn luyện nhân cách, được học văn hoá, học nghề, lao động sản xuất
trong môi trường thích hợp và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tái hội nhập
cộng đồng vì lợi ích của chính họ, gia đình họ và lợi ích của cộng đồng, góp phần
lành mạnh hoá môi trường xã hội, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn ma tuý trên địa
bàn thành phố; tạo môi trường tích cực để phát triển kinh tế, đem lại hạnh
phúc, yên bình cho từng gia đình và cộng đồng, xã hội.
B. Tổng quan
về phương thức giải quyết, bố trí đối với người sau cai nghiện:
1. Nguyên tắc
chung:
1.1. Việc đưa người vào cơ sở dạy
nghề, giải quyết việc làm sau cai nghiện được thực hiện theo phương thức vận động,
thuyết phục người sau cai nghiện tự nguyện tham gia; đối với những người sau
cai nghiện không tự nguyện tham gia nhưng có nguy cơ tái nghiện cao sẽ được cơ
quan có thẩm quyền chỉ định vào các nơi để học nghề, lao động sản xuất nhằm
giúp người sau cai nghiện có thời gian và môi trường thích hợp để phòng, chống
tái nghiện có hiệu quả.
1.2 Người sau cai nghiện được
cách ly khỏi môi trường ma túy nhưng không hoàn toàn tách rời với cộng đồng xã
hội.
1.3 Thực hiện phương thức xã hội
hóa và đa dạng hoá đối với các hoạt động giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc
làm cho người sau cai nghiện.
2. Đối tượng áp dụng:
Đối tượng áp dụng
biện pháp tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai
nghiện ma tuý của Đề án gồm:
2.1 Người đã kết
thúc thời gian cai nghiện tập trung tại Cơ sở chữa bệnh bắt buộc theo quy định
tại Điều 28 của Luật Phòng, chống ma tuý mà tự nguyện đề nghị
áp dụng biện pháp này đối với mình.
2.2 Người đã kết thúc thời gian
cai nghiện tập trung tại Cơ sở chữa bệnh bắt buộc theo quy định tại Điều 28 của Luật Phòng, chống ma tuý tuy không tự nguyện đề nghị
áp dụng biện pháp này đối với mình nhưng có khả năng tái nghiện cao nếu được
đưa trở lại cộng đồng.
Người chưa đủ 18 tuổi được đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc tự nguyện xin vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
quy định tại Điều 29 Luật Phòng, chống ma tuý không thuộc đối
tượng áp dụng biện pháp tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm sau
cai nghiện, trừ trường hợp khi kết thúc thời gian cai nghiện tập trung, đã đủ
18 tuổi mà tự nguyện đề nghị áp dụng biện pháp này đối với mình.
3. Thời gian
áp dụng:
Thời gian áp dụng biện pháp tổ
chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện từ 1 đến
2 năm, trường hợp cần thiết có thể kéo dài nhưng không quá 3 năm. Nếu người sau
cai nghiện có nguyện vọng định cư, việc làm ổn định lâu dài tại Cơ sở thì được
xem xét giải quyết.
4. Các phương
thức bố trí người sau cai nghiện:
4.1. Làm việc tại các Cụm công
nghiệp đặc biệt do thành phố thành lập.
4.2. Làm việc và định cư ngay tại
các trường, Trung tâm cai nghiện.
4.3. Làm việc trên những công
trình lớn cần nhiều lao động thủ công của thành phố và quốc gia trong đội hình
các Đội, Tổng đội lao động tình nguyện có tính cơ động.
4.4. Làm việc tại các Hợp tác
xã, các cơ sở sản xuất do gia đình người sau cai nghiện và các tổ chức hoặc cá
nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư.
5. Đối tượng
xem xét cho về gia đình:
5.1. Đối với người nghiện đã kết
thúc thời gian cai nghiện tập trung tại Cơ sở chữa bệnh theo Luật Phòng, chống
ma tuý:
a) Người cai nghiện lần đầu, có
nhân thân tốt, có nghề nghiệp ổn định hoặc là học sinh, sinh viên, công nhân,
viên chức, có nhiều cố gắng phấn đấu học tập rèn luyện phục hồi nhân cách, thể
lực mạnh khoẻ, có tiến bộ trong suốt quá trình cai nghiện, được gia đình cam kết
bảo lãnh không để tái phạm, tái nghiện và chính quyền địa phương (phường, xã)
cam kết cộng đồng trách nhiệm quản lý ở địa phương, doanh nghiệp có cam kết bảo
lãnh tiếp nhận về để tiếp tục làm việc, học tập.
b) Người có tình trạng sức khoẻ
kém, người bị mắc bệnh hiểm nghèo, người bị bệnh AIDS đã chuyển sang giai đoạn
cuối, có sự xác nhận của cơ quan y tế quận, huyện, cần có sự chăm sóc trực tiếp,
thường xuyên của gia đình, gia đình có đơn xin bảo lãnh về điều trị, chăm sóc tại
nhà có xác nhận của ủy ban nhân dân xã, phường.
5.2. Đối với người đã đưa vào Cơ
sở giải quyết việc làm sau cai nghiện:
a) Người đã tham gia đội lao động
tình nguyện ít nhất 12 tháng trở lên; có nhiều cố gắng trong lao động, học tập
và rèn luyện, thể hiện được sự tiến bộ nhiều mặt, có khả năng lao động tốt; có
giấy đồng ý tiếp nhận của trường học hoặc cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh
và đơn bảo lãnh của gia đình xin cho con em trở về gia đình để tiếp tục đi học
hoặc đi làm, được Uỷ ban nhân dân phường, xã xác nhận.
b) Các trường hợp được quy định
tại tiết b, mục 5.1, điểm 5 nói trên.
C. Các phương
thức giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện:
Việc sắp xếp, bố trí người sau cai
nghiện vào các cơ sở giải quyết việc làm theo các phương thức nêu dưới đây căn
cứ vào kết quả phân loại tình trạng sức khoẻ, lứa tuổi, giới tính, trình độ học
vấn, nghề nghiệp... và khả năng tiếp nhận, giải quyết việc làm của từng loại cơ
sở.
Dự kiến số người nghiện được đưa
vào cai nghiện tập trung tại các cơ sở cai nghiện tính đến cuối năm 2003 là
30.000 người và đến cuối năm 2005 phần lớn trong số này sẽ được giải quyết việc
làm theo các phương thức đã nêu trên. Trước mắt, số người kết thúc thời gian
cai nghiện trong năm 2003 là khoảng 4.500 người.
Việc sắp xếp theo các phương thức
giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện cụ thể như sau:
1. Làm việc tại
các cụm công nghiệp đặc biệt:
1.1. Nội dung:
Việc thành lập những cụm công
nghiệp đặc biệt để giải quyết việc làm lâu dài cho người sau cai nghiện là
phương thức cơ bản và khả thi hơn cả. Theo đó, thành phố đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật cho cụm công nghiệp và có chính sách ưu đãi để thu hút, vận động các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất không hoặc ít gây ô nhiễm, có khả năng giải
quyết việc làm cho nhiều lao động đến tổ chức sản xuất tại đây. Doanh nghiệp đầu
tư tại đây sẽ được hưởng đầy đủ thuận lợi như ở những khu công nghiệp khác và
còn được hưởng các chính sách ưu đãi đặc biệt khác (như sẽ đề nghị tiền thuê đất
chỉ bằng khoảng 50% các nơi khác và được trả chậm...). Tương ứng với chính sách
đặc biệt ấy, doanh nghiệp có trách nhiệm tạo việc làm ổn định cho người sau cai
nghiện. Trong thời gian lao động, người sau cai nghiện được tổ chức thành các
ca, kíp... tại nơi làm việc. Ngoài giờ làm việc, họ sẽ đuợc bố trí ăn, ở, sinh
hoạt trong chung cư đầy đủ tiện nghi do thành phố xây dựng. Ban Quản lý cụm
công nghiệp và Ban Điều hành chung cư sẽ tổ chức cho họ được học tập chính trị,
văn hoá, học nghề, sinh hoạt văn hoá - thể thao và được tiếp đón gia đình, thân
nhân và các cơ quan, đoàn thể đến thăm hỏi, giao lưu; đồng thời phối hợp với
chính quyền nơi xây dựng cụm công nghiệp thực hiện các biện pháp quản lý hành
chính và bảo đảm trật tự trị an, phòng, chống thẩm lậu ma tuý.
Nhằm chuẩn bị thực hiện phương
thức này, thành phố đã giao lực lượng thanh niên xung phong thành phố lập dự án
xây dựng 2 cụm công nghiệp kết hợp khu dân cư đô thị mới ở Nhị Xuân - Hóc Môn
và ở An Nhơn Tây - Củ Chi, mỗi cụm công nghiệp có khả năng giải quyết việc làm
cho 5.000 - 8.000 công nhân là người sau cai nghiện. Hiện nay các ngành chức
năng đang xem xét thông qua quy hoạch và Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án
"Cụm công nghiệp - Khu dân cư đô thị mới Nhị Xuân" để trình ủy ban
nhân dân thành phố phê duyệt. Theo dự án này, trên quy mô diện tích 78 ha,
thành phố sẽ đầu tư đầy đủ hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội với tổng giá trị
395 tỷ đồng để hình thành 2 khu vực:
- Khu vực cụm công nghiệp diện
tích 52 ha, thu hút 40-60 doanh nghiệp đến đầu tư sản xuất, giải quyết việc làm
cho khoảng 12.000 lao động, trong đó có 5.000 - 6.000 người sau cai nghiện làm
việc trong các ngành nghề chủ yếu sau:
. May mặc, dệt (không nhuộm).
. Da, giày (không thuộc da)
. Nhựa, cao su (sản xuất vật dụng,
không chế biến mủ)
. Điện máy, điện công nghiệp, điện
gia dụng (không đúc).
. Điện tử, tin học, phương tiện
thông tin, viễn thông.
. Sản xuất đồ gỗ, đồ mỹ nghệ,
trang trí nội thất....
. Bao bì, chế bản, in ấn, giấy
(không chế biến bột).
. Dược phẩm, mỹ phẩm, chế biến
lương thực, thực phẩm.
. Các ngành nghề ít gây ô nhiễm
khác...
- Khu vực dân cư đô thị mới trên
diện tích 26 ha là khu đô thị có quy mô dân số 7.000 - 8.000 người, gồm: chung
cư dành cho công nhân, chung cư dành cho người sau cai nghiện, trường dạy nghề,
trung tâm y tế, bưu cục, khu hành chính, trường học, khu thương mại - dịch vụ,
công viên cây xanh, Trung tâm thể dục thể thao...
Sau khi được tuyển chọn và đào tạo
nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu sản xuất của các nhà đầu tư, người sau cai nghiện
sẽ được thu nhận vào làm việc và hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách như công
nhân bình thường.
Cụm công nghiệp Nhị Xuân là mô
hình chưa có tiền lệ, đang được tích cực chuẩn bị triển khai và dự kiến bắt đầu
hoạt động vào đầu năm 2004. Thực hiện tốt mô hình này, thành phố sẽ có điều kiện
giành lại cho xã hội hàng chục ngàn công dân hữu ích cho đất nước; an ninh trật
tự xã hội được bảo đảm; góp phần làm giảm tội phạm và các tệ nạn xã hội, tạo điều
kiện cho kinh tế của thành phố phát triển nhanh và bền vững. Ngoài ra việc đầu
tư hoàn chỉnh và đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp kết hợp khu dân
cư còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện chủ trương của thành phố về
di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nội thành ra ngoại thành, góp phần
chỉnh trang đô thị và cải thiện đời sống của nhân dân trên địa bàn.
1.2. Đối tượng tiếp
nhận:
a) Học viên đã
hoàn thành giai đoạn cai nghiện đủ 24 tháng hoặc tuy chưa đủ 24 tháng nhưng có nhân
thân tốt, có nhiều tiến bộ hoặc là người đã có thời gian học tập, lao động, rèn
luyện trong Đội học viên tình nguyện của cơ sở cai nghiện ít nhất 12 tháng.
b) Có đủ sức khoẻ.
c) Có trình độ học
vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công việc mà doanh nghiệp cần.
1.3. Đánh giá khả
năng giải quyết việc làm:
Trong giai đoạn
2003 - 2005, thành phố sẽ đưa 13.500 đến 16.000 người sau cai nghiện vào làm việc
tại các cụm công nghiệp đặc biệt. Ngay trong quý III năm 2003, thành phố Hồ Chí
Minh có thể đưa 400 - 500 người sau cai nghiện đến tham gia xây dựng và
thực hiện các công việc dịch vụ khác tại công trình Cụm công nghiệp - khu dân
cư đô thị mới Nhị Xuân.
2. Làm việc và định cư tại cơ sở cai nghiện:
2.1. Nội dung:
Người sau cai nghiện
tiếp tục ở lại làm việc lâu dài trong các cơ sở sản xuất tại các trường, Trung
tâm cai nghiện đã quản lý họ trước đây theo dạng hợp đồng lao động hoặc làm việc
có thời hạn từ 01 đến 02 năm, trường hợp cần thiết có thể kéo dài đến 03 năm
trong đội hình lao động tình nguyện... Trong thời gian đó, người sau cai nghiện
được giúp đỡ để định cư luôn tại các đơn vị này nếu có nguyện vọng. Một số người
có thể được tiếp nhận làm nhân viên các trường, trung tâm.
Phương thức này
không gây xáo trộn nhiều về hoàn cảnh sống, sinh hoạt và làm việc của học viên
cai nghiện ở thời điểm chuyển giai đoạn; rất phù hợp để giải quyết việc làm cho
số người sau cai nghiện không đủ sức khỏe đi lao động trên các công trường cơ động
hoặc không đủ điều kiện về học vấn, tay nghề để được tuyển vào làm việc tại các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất. Do vậy cần thiết phải tổ chức xây dựng khu xưởng
trường nhiều ngành nghề tại mỗi cơ sở cai nghiện đế thu hút đầu tư. Khu xưởng
trường là một khu vực cần thiết phải có của từng cơ sở cai nghiện, là khu vực
riêng có đầy đủ các yếu tố đảm bảo về giao thông, điện, nước, sân bãi, nhà kho,
nhà xưởng sản xuất. Khi các trường, Trung tâm cai nghiện có nhà xưởng thì các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mới sẵn sàng hỗ trợ, đầu tư, hợp tác
sản xuất với đơn vị bằng nhiều hình thức với nhiều ngành nghề: cho mượn máy
móc, cung ứng nguyên liệu gia công các mặt hàng tiểu - thủ công nghiệp, đảm bảo
thị trường, tạo việc làm cho học viên và người sau cai nghiện. Kết hợp với công
tác dạy nghề, các đối tượng được tuyển chọn sẽ làm việc tại đây trong thời gian
ở tại trường, tạo ra sản phẩm và có thu nhập.
Ngoài ra, thành phố
sẽ thành lập một số trang trại sản xuất nông - lâm nghiệp, cơ sở sản xuất tiểu -
thủ công nghiệp gần khu vực trú đóng của các trường, Trung tâm cai nghiện và có
thể giao cho các trường, trung tâm này quản lý để tạo việc làm cho người sau
cai nghiện.
Từ năm 2006 trở
đi, khi thành phố cơ bản giải quyết tệ nạn nghiện ma túy thì các cơ sở cai nghiện
hiện nay sẽ từng bước chuyển thành các trang trại, nông - lâm trường, cơ sở sản
xuất hoặc có thể chuyển nhượng một phần cho gia đình học viên để có điều kiện
sinh sống, định cư lâu dài.
2.2. Đối tượng tiếp
nhận:
2.2.1. Làm việc tại
các trường, Trung tâm cai nghiện theo hình thức hợp đồng lao động làm nhân viên
chuyên môn, nghiệp vụ:
Nếu tuyển dụng làm
nhân viên chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ sở cai nghiện phải là người có thời
gian cai nghiện tập trung đủ 24 tháng hoặc tuy chưa đủ 24 tháng nhưng là người
có nhân thân tốt, thực sự tiến bộ và trưởng thành về nhân cách, mới nghiện lần
đầu và phải có đủ sức khoẻ, có trình độ học vấn, chuyên môn phù hợp với tiêu
chuẩn của chức danh, công việc được giao.
2.2.2. Số được bố
trí sản xuất nông nghiệp hoặc tiểu - thủ công nghiệp tại xưởng trường của các
Trung tâm, trường bao gồm những người không đủ sức khoẻ, trình độ học vấn và
chuyên môn hạn chế, không thể đưa vào làm việc ở các cụm công nghiệp hoặc bố
trí làm việc ở các Đội lao động tình nguyện có tính cơ động.
2.3. Đánh giá khả năng giải quyết
việc làm:
Phương thức này có khả năng giải
quyết việc làm cho 6.500 đến 8.000 người, tức là khoảng 400 - 500 người tại mỗi
đơn vị.
3. Làm việc tại
các Đội, Tổng đội lao động tình nguyện có tính cơ động:
3.1 Nội dung:
Người sau cai nghiện được làm việc
tại các Đội, Tổng đội có tính cơ động trực thuộc các trường, trung tâm, Tổng đội
thanh niên xung phong hoặc các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích để lao
động tại các công trình của thành phố, các công trình quốc gia cần nhiều lao động
thủ công do Nhà nước giao theo phương thức chỉ định thầu; được trả công theo khối
lượng sản phẩm làm ra.
Tùy theo quy mô của công trình
được giao, có thể tổ chức những Đội riêng lẻ (100 - 150 người) hoặc Tổng đội gồm
nhiều đội. Phương thức quản lý các Đội, Tổng đội này cơ bản tương tự như phương
thức quản lý các Đội, Tổng đội thanh niên xung phong hiện nay, đồng thời có bổ
sung một số quy định trong nội quy sinh hoạt nhằm ngăn chặn thẩm lậu ma tuý và
đào ngũ. Thời gian đầu sẽ tăng cường cán bộ để hướng dẫn kỹ thuật và quản lý tốt
lao động trên hiện trường. Đảm bảo tốt việc ăn, ở, sinh hoạt của những người
lao động như: xây dựng nhà ở dạng lắp ghép phù hợp với tính cơ động của công
trình được giao; có phương tiện vận chuyển từ nơi ở đến nơi hiện trường xa. Sau
khi hoàn thành nhiệm vụ trên các công trình, nếu có nguyện vọng, các đội viên
lao động tình nguyện sẽ được tạo điều kiện về vật chất để định cư và ổn định cuộc
sống lâu dài trên vùng đất mới.
3.2 Đối tượng tiếp
nhận:
Những đối tượng
sau cai nghiện xung phong đến những công trường xa, có đủ sức khoẻ, khả năng
lao động phù hợp với công việc ở các công trường.
3.3. Đánh giá khả năng giải quyết
việc làm:
Phương thức này phù hợp với tính
xung kích của thanh niên. Năm 2002, thành phố đã thử nghiệm đưa hai Đội học
viên tình nguyện đi tham gia xây dựng tuyến đường Rừng Sác - Cần Giờ, bước đầu
đạt được hiệu quả khả quan về tổ chức quản lý, về tinh thần thái độ lao động và
về thu nhập từ lao động của học viên. Dự kiến phương thức này giải quyết được
việc làm cho 4.000 - 4.500 người sau cai nghiện.
4. Làm việc tại
các Hợp tác xã, các cơ sở sản xuất do gia đình người sau cai nghiện và các tổ
chức hoặc cá nhân thuộc các thành phần kinh tế thành lập:
4.1 Nội dung:
Gia đình những người sau cai
nghiện có điều kiện về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh có thể hợp
tác với nhau để thành lập các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản) hoặc các Hợp tác xã, cơ sở sản xuất tiểu - thủ công
nghiệp hoạt động trên các địa bàn không có hoặc không còn tệ nạn ma túy để giúp
đỡ, tạo điều kiện cho con em mình và những học viên khác có công ăn việc làm, tạo
ra thu nhập, nuôi sống bản thân, xa rời môi trường dễ gây tái nghiện. Thành phố
Hồ Chí Minh sẽ phối hợp với các tỉnh bạn tạo điều kiện cho các Hợp tác xã, cơ sở
sản xuất này về đất để sản xuất, xây dựng nhà xưởng, nhà ở cho công nhân; cho
vay vốn; hỗ trợ kỹ thuật, bảo hộ quyền sản xuất, kinh doanh, chính sách thuế ưu
đãi... Đây là phương thức huy động tổ chức sản xuất giải quyết việc làm với nhiều
ngành nghề rất đa dạng, phong phú, với nhiều cấp độ khác nhau, gắn với tình cảm,
trách nhiệm của gia đình, của cộng đồng xã hội đối với người sau cai nghiện, do
vậy hoàn toàn có tính khả thi.
Mô hình này có ưu điểm là tạo ra
sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và bản thân học viên với xã hội để giải quyết
việc làm cho người sau cai nghiện, giúp cho gia đình người sau cai nghiện chủ động
phát huy khả năng và sở trường vốn có của họ và con em họ; đồng thời huy động
được nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong xã hội tham gia giải quyết việc
làm cho người sau cai nghiện. Hoạt động sản xuất, kinh doanh càng hiệu quả sẽ
càng có tác dụng thúc đẩy ý chí vươn lên của người sau cai nghiện, giúp họ tự
tin, phấn khởi trong lao động, làm giàu, hình thành lối sống tích cực, tự giác
xa lánh những phần tử xấu trong xã hội. Trong thời gian qua, có một số gia đình
học viên có nguyện vọng, có điều kiện và đã tham gia đầu tư giải quyết việc làm
cho học viên ngay trong giai đoạn cai nghiện. Nhiều trường hợp học viên có tay
nghề do gia đình truyền lại, trong đó có một số ngành nghề thủ công, mỹ nghệ,
chế biến lâm - nông sản, đã nhiệt tình truyền nghề cho những học viên khác để
tham gia lao động sản xuất tạo ra sản phẩm ngay trong giai đoạn cai nghiện.
Ngoài ra, người sau cai nghiện có
thể được bố trí việc làm theo các chương trình giải quyết việc làm của các quận
- huyện nhằm thực hiện việc quản lý sau cai đối với người nghiện. Chính quyền địa
phương cần vận động một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trú đóng trên địa bàn
hoặc do địa phương quản lý thu nhận người sau cai nghiện là cư dân địa phương
vào làm việc với sự theo dõi hỗ trợ, giám sát thường xuyên của các cấp chính
quyền, đoàn thể địa phương và gia đình họ cho đến khi họ thực sự không còn nguy
cơ tái nghiện. Phương thức này đang được triển khai thực hiện ở một số quận,
huyện, thành phố (huyện Củ Chi và quận 5). Đây là phương thức có khả năng huy động
nhiều nguồn lực trong xã hội để tổ chức sản xuất cho người sau cai nghiện với
nhiều hình thức quy mô và cấp độ khác nhau.
4.2. Đối tượng tiếp
nhận:
Học viên đã hoàn
thành giai đoạn cai nghiện đủ 24 tháng hoặc tuy chưa đủ 24 tháng nhưng có nhiều
tiến bộ, có ý chí, có nghề nghiệp phù hợp với các loại hình công việc mà các Hợp
tác xã, cơ sở sản xuất nói trên có nhu cầu hoặc được các quận, huyện tiếp nhận
theo các chương trình, dự án giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện của
quận - huyện mình.
4.3. Đánh giá khả năng giải quyết
việc làm:
Do có sự gắn kết chặt chẽ và dựa
trên các mối quan hệ gia đình, thân nhân của người sau cai nghiện, sự quan tâm
của cộng đồng mà cụ thể là địa phương nơi cư trú của họ nên dự kiến phương thức
này có thể giải quyết việc làm cho khoảng 2.500 - 3.000 người sau cai nghiện.
D. Tổ chức dạy
văn hoá, dạy nghề cho người sau cai nghiện
1. Dạy văn hoá:
Tiếp tục tổ chức
các lớp bổ túc văn hoá để nâng cao trình độ học vấn cho người sau cai nghiện
theo nội dung và chương trình phổ cập của quốc gia.
2. Dạy nghề:
Trên cơ sở kết quả
học nghề của học viên trong giai đoạn cai nghiện tập trung, công tác dạy nghề
được tiếp tục tổ chức để vừa bồi dưỡng cho số đã qua đào tạo ngắn hạn, vừa tổ
chức đào tạo nghề dài hạn đạt tay nghề tương đương bậc 3/7 trở lên cho người
sau cai nghiện để họ có đủ trình độ vào làm việc lại các cụm công nghiệp đặc biệt,
tại khu xưởng trường và chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng. Căn cứ vào các số liệu
thống kê về trình độ học vấn, nghề nghiệp chuyên môn người nghiện hiện nay và dự
kiến khả năng tiếp nhận, giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện của thành
phố Hồ Chí Minh, việc dạy nghề cho người sau cai nghiện như sau:
STT
|
Tên nghề đào tạo
|
Quy mô đào tạo (người)
|
Tổng
cộng
|
|
|
Năm
2003
|
Năm
2004
|
Năm
2005
|
|
A. Nghề dài hạn
|
|
|
|
|
1
|
Tiện hàn
|
50
|
350
|
500
|
900
|
2
|
Điện máy
|
50
|
350
|
500
|
900
|
3
|
Điện lạnh
|
50
|
350
|
500
|
900
|
4
|
Điện tử
|
150
|
550
|
700
|
1.400
|
5
|
Điện công nghiệp
|
150
|
550
|
700
|
1.400
|
6
|
KTV tin học
|
150
|
550
|
700
|
1.400
|
7
|
Công nghệ thông tin
|
0
|
100
|
200
|
300
|
B. Nghề ngắn hạn
|
|
|
|
|
1
|
May công nghiệp
|
600
|
1.500
|
2.000
|
4.100
|
2
|
Mộc
|
200
|
500
|
700
|
1.400
|
3
|
Nghề khác
|
600
|
1.200
|
1.500
|
3.300
|
Tổng cộng
|
2.000
|
6.000
|
8.000
|
16.000
|
Để giải quyết việc nâng cao trình
độ học vấn và đào tạo nghề cho người sau cai nghiện, hai Trung tâm Giáo dục thường
xuyên của lực lượng thanh niên xung phong và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
sẽ tích cực triển khai các chương trình liên tịch với các quận, huyện; liên kết
với các Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm dạy nghề của thành phố và
các địa phương để tiếp tục tổ chức các lớp dạy nghề dài hạn hoặc các lớp bồi dưỡng
kiến thức nghề nghiệp, bồi dưỡng tay nghề, nâng bậc thợ....
Xây dựng mới một Trường dạy nghề
trong cụm công nghiệp - khu dân cư đô thị mới Nhị Xuân tại Hóc Môn để làm nhiệm
vụ đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho công nhân các doanh nghiệp trong cụm và
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp chung quanh.
Ngoài số giáo viên tuyển mới từ
các trường đại học, cao đẳng sư phạm kỹ thuật và điều động, tiếp nhận từ các
trường, Trung tâm dạy nghề khác, còn có khả năng sử dụng số nhân viên, học
viên, người sau cai nghiện có tay nghề ở các đơn vị để hướng dẫn thực hành nghề.
E. Các chế độ,
chính sách đối với người sau cai nghiện:
1. Chế độ quản
lý người sau cai nghiện:
Ngoại trừ những người được trực
tiếp tuyển dụng làm nhân viên chuyên môn, nghiệp vụ tại các cơ sở trường và
trung tâm, số người sau cai nghiện còn lại được vận động và sắp xếp vào làm việc
tại các cụm công nghiệp, các xưởng trường, các hợp tác xã, các công trường lao
động thủ công từ 01 năm đến 02 năm, trường hợp cần thiết có thể kéo dài đến 3
năm với các quyền và nghĩa vụ như sau:
1.1. Quyền lợi của người sau cai
nghiện:
- Được trả lương, trả thưởng
tương xứng với kết quả lao động của mình; được ưu tiên tiếp tục làm việc nếu có
nguyện vọng sau khi hết hạn hợp đồng. Quyền lao động của người sau cai nghiện
được thừa nhận bằng một hợp đồng lao động với cơ sở giải quyết việc làm cho người
sau cai nghiện trên cơ sở vận dụng Bộ luật Lao động có bổ sung một số nội dung
theo Quy chế quản lý người sau cai nghiện do ủy ban nhân dân thành phố ban hành
trên cơ sở các văn bản của Chính phủ cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết số 16/2003/QH11
của Quốc hội.
- Được bố trí chỗ ở phù hợp, đảm
bảo các tiện nghi cần thiết.
- Được đăng ký tạm trú tại địa
phương nơi làm việc.
- Được học tập, đào tạo nghề
nghiệp theo nguyện vọng và phù hợp với nhu cầu của người sử dụng lao động.
- Được tham gia sinh hoạt trong
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp theo quy định.
- Được khen thưởng khi có thành
tích xuất sắc trong lao động sản xuất, trong học tập, rèn luyện trong các hoạt
động, tham gia bảo đảm an ninh trật tự, bảo đảm an toàn của đơn vị và địa
phương.
- Được tiếp thân nhân tại khu vực
dành riêng ngoài giờ lao động, sinh hoạt và học tập theo quy định cụ thể của cơ
quan quản lý.
- Được giải quyết cho về phép
khi gia đình có việc hiếu, hỷ.
- Được xem xét đề bạt, bổ nhiệm
vào các chức vụ quản lý của đơn vị.
1.2. Nghĩa vụ của người sau cai
nghiện:
- Thực hiện đầy đủ quy định của
pháp luật, nội quy lao động và sinh hoạt của đơn vị.
- Tích cực tham gia lao động sản
xuất, hoàn thành định mức lao động, khối lượng, chất lượng công việc được giao.
- Tích cực học tập, thi đua lao
động, tham gia các phong trào văn thể mỹ và các hoạt động xã hội của đoàn thể.
- Tích cực tham gia công tác
tuyên truyền, vận động bài trừ ma tuý, tệ nạn xã hội; phản ánh, tố cáo với người
có trách nhiệm để kịp thời ngăn chặn mọi biểu hiện và hành vi tiêu cực, nhất là
hành vi sử dụng, mua bán, tàng trữ ma tuý... tại nơi làm việc và nơi cư trú góp
phần xây dựng môi trường sinh hoạt và làm việc lành mạnh.
2. Chính sách
đối với người sau cai nghiện:
2.1. Được hưởng các chế độ,
chính sách về tiền lương, tiền thưởng, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi
trong ngày, tuần làm việc và các chế độ bảo hiểm theo quy định của Bộ luật Lao
động. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của các cơ sở giải quyết việc làm, người sau
cai nghiện sẽ được ngân sách trợ cấp tiền ăn từ 3 đến 6 tháng đầu với mức
150.000 đồng/tháng.
2.2. Được hỗ trợ một phần chi
phí học văn hóa, học nghề và đào tạo chuyên môn nghiệp vụ theo chủ trương đào tạo
nguồn nhân lực của thành phố.
3. Khen thưởng
và kỷ luật:
3.1. Người sau cai nghiện chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước, quy chế và nội quy của cơ sở, lập thành
tích xuất sắc trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc
thì tùy theo thành tích được thủ trưởng đơn vị xét khen thưởng bằng các hình thức
sau:
- Tặng các hình thức khen thưởng
hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng theo quy định của Nhà nước.
ư- Thưởng tiền hoặc hiện vật.
- Thưởng phép về thăm gia đình.
3.2. Người sau cai nghiện nếu vi
phạm các quy định quản lý của đơn vị, tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ thi hành kỷ luật
bằng một trong các hình thức sau :
ư- Khiển trách.
- Cảnh cáo.
- Chuyển làm công việc khác có mức
lương thấp hơn hoặc cách chức (nếu là Tổ trưởng, Tổ phó).
- Trường hợp người sau cai nghiện
tự ý rời bỏ đơn vị thì đơn vị thông báo về chính quyền địa phương để vận động,
phối hợp đưa lên đơn vị. Nếu sau khi vận động, thuyết phục mà đương sự không tự
nguyện trở lại hoặc bỏ trốn thì đề nghị cơ quan Công an áp dụng biện pháp truy
tìm và cưỡng chế đưa về đơn vị.
- Trường hợp người sau cai nghiện
có hành vi tàng trữ, sử dụng, mua bán các chất ma tuý thì sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
III. GIẢI
PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
A. Các giải
pháp:
1. Vốn đầu tư:
1.1 Vốn đầu tư cho
hoạt động dạy văn hoá, dạy nghề:
- Ngân sách thành phố
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với quy mô đào tạo các lớp, các
ngành nghề có tính đến khả năng liên kết giữa các cơ sở giáo dục, dạy nghề.
- Học phí được
thành phố cấp một phần, phần khác từ các nguồn tài trợ, phần còn lại do bản
thân người sau cai nghiện và gia đình họ đóng góp. Các đơn vị sử dụng lao động
người sau cai nghiện hỗ trợ kinh phí (dưới hình thức học bổng) đối với số người
sau cai nghiện có hoàn cảnh khó khăn và đạt thành tích tốt trong quá trình học
văn hóa và học nghề.
1.2 Vốn đầu tư cho
việc tổ chức sản xuất nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các cơ sở cai
nghiện:
- Cho sản xuất tiểu
- thủ công nghiệp: thành phố đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khu xưởng trường
nhiều ngành nghề ở mỗi cơ sở cai nghiện từ nguồn vốn ngân sách tập trung gồm
các hạng mục thiết yếu nhà xưởng, nhà kho, sân bãi... để có thể nhanh chóng tiến
hành xây dựng và thu hút đầu tư. Trên cơ sở khu xưởng trường đã được xây đựng,
các cơ sở cai nghiện sẽ có điều kiện tổ chức hợp tác, thu hút các thành phần
kinh tế đến hợp tác đầu tư sản xuất. Ngoài ra các cơ sở cai nghiện còn có thể lập
dự án sản xuất tiểu - thủ công nghiệp vay vốn tổ chức thực hiện.
- Cho sản xuất
nông, lâm nghiệp, chăn nuôi: thành phố đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở cai
nghiện (xây dựng đồng ruộng, xây dựng chuồng, trại....) từ nguồn vốn ngân sách
tập trung. Các cơ sở cai nghiện lập dự án sản xuất trồng trọt, chăn nuôi và thu
hút các thành phần kinh tế đầu tư hoặc xin thành phố cho vay vốn ưu đãi tổ chức
thực hiện; mục tiêu trước hết là tự sản xuất cung ứng cho nhu cầu thực phẩm
(rau, thịt...) của cơ sở tiến đến sản xuất và cung ứng sản phẩm hàng hóa cho
nhu cầu thị trường mang lại hiệu quả kinh tế, nâng cao đời sống cho người lao động
tại cơ sở.
1.3 Vốn đầu tư cho
loại hình Cụm công nghiệp đặc biệt:
Ngân sách thành phố
đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật và một số hạ tầng xã hội; thu lại một phần từ tiền
cho thuê đất, phí bảo dưỡng hạ tầng, khai thác các dịch vụ. Các thành phần kinh
tế đến thuê đất và bỏ vốn đầu tư tổ chức sản xuất trong cụm công nghiệp. Vận động
vốn đóng góp từ nguồn gia đình người sau cai nghiện, từ nguồn các đơn vị tài trợ...
để tăng cường, cải thiện điều kiện sinh hoạt văn hóa, học tập cho người sau cai
nghiện.
2. Chính sách
ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất:
2.1. Thành phố ban
hành theo thẩm quyền và kiến nghị Trung ương ban hành các chính sách ưu đãi đặc
biệt nhằm thu hút, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất vào các
cụm công nghiệp đặc biệt như:
- Giá thuê đất tại
Cụm công nghiệp đặc biệt sẽ thấp và hấp dẫn hơn giá những nơi khác (theo tính
toán tại dự án Cụm công nghiệp - Khu dân cư đô thị mới Nhị Xuân thì giá này là
8.000 đ/m2/năm so với mức giá bình quân tại các khu công nghiệp khác là 16.000
đ - 20.000 đ/m2/năm). Bên cạnh đó, nhà đầu tư vào Cụm công nghiệp còn được ưu
đãi trả chậm tiền thuê đất trong vòng 7 - 9 năm với mức lãi suất thấp hơn lãi
suất ngân hàng hoặc không tính lãi.
- Cho phép thực hiện cơ chế giao
đất cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đầu tư vào cụm công nghiệp bên
cạnh cơ chế cho thuê đất hiện hành.
- Miễn tiền thuê đất (đối với
doanh nghiệp thuê đất) và tiền sử dụng đất (đối với các doanh nghiệp được giao
đất) nếu doanh nghiệp giải quyết việc làm ổn định cho người sau cai nghiện theo
tỷ lệ tương xứng.
- Hỗ trợ lãi suất cho nhà đầu tư
vay vốn để đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, phương tiện sản
xuất với thời gian từ 3 - 5 năm nếu giải quyết ổn định việc làm cho người sau
cai nghiện với tỷ lệ tương xứng.
- Bên cạnh các chính sách ưu đãi
cho các đơn vị kinh tế đầu tư vào Cụm công nghiệp đang áp dụng theo Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước, cho phép vận dụng các chế độ ưu đãi dành cho các doanh
nghiệp có sử dụng người tàn tật.
2.2. Thành phố ban hành và kiến
nghị Trung ương ban hành các chính sách ưu đãi để hỗ trợ các doanh nghiệp, các
thành phần kinh tế, tạo điều kiện thu hút họ mạnh dạn đến đầu tư và hỗ trợ sản
xuất cho các trường, Trung tâm cai nghiện như:
- Cho vay vốn lãi suất ưu đãi.
- Miễn hoặc giảm các loại thuế
cho hoạt động sản xuất, dạy nghề, dịch vụ... tại các cơ sở cai nghiện.
2.3. Chính sách khuyến khích tổ
chức, cá nhân tham gia thành lập Hợp tác xã, cơ sở sản xuất giải quyết việc làm
cho người sau cai nghiện:
- Được thuê hoặc mua đất; được
vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư sản xuất.
- Được bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ, thương hiệu sản phẩm, bảo hiểm tai nạn, rủi ro trong quá trình sản xuất
kinh doanh.
3. Về công tác cán bộ:
3.1. Nguồn cán bộ
quản lý bố trí ở các cơ sở giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện:
- Tuyển chọn từ
trong đội ngũ cán bộ hiện có của lực lượng thanh niên xung phong và Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội thành phố;
- Thu hút trí thức
trẻ, sinh viên các trường Đại học mới tốt nghiệp, cán bộ Đoàn từ các quận - huyện
đoàn;
- Tiếp nhận bộ đội,
công an xuất ngũ, chuyển ngành.
3.2. Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ:
Lực lượng thanh
niên xung phong và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố phối hợp với
các trường Đại học ngành khoa học xã hội, Trường Cán bộ thành phố xây dựng nội
dung, chương trình và tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị,
kiến thức pháp luật, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng công tác xã hội cho đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý người sau cai nghiện; thường xuyên tổ chức trao
đổi kinh nghiệm để bồi dưỡng, nâng cao năng lực công tác thực tiễn nhằm hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
3.3. Các chính
sách về tổ chức bộ máy và cán bộ đối với các cơ sở giải quyết việc làm cho người
sau cai nghiện:
- Các cơ sở cai
nghiện được tính số người sau cai nghiện vào số đối tượng quản lý khi xét giao
chỉ tiêu biên chế khung và chỉ tiêu lao động hợp đồng theo Thông tư số 05/2002/TTLB-BLĐTBXH-BTCCBCP
ngày 06 tháng 02 năm 2002.
- Đối với cán bộ,
nhân viên quản lý người sau cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện, doanh nghiệp
công ích và Tổng đội lao động tình nguyện được hưởng các chế độ, chính sách trợ
cấp, phụ cấp (ngoài lương): xa thành phố, đặc thù nghề nghiệp, độc hại lây nhiễm
như cán bộ nhân viên quản lý người nghiện ma túy...
- Đối với cán bộ
nhân viên quản lý người sau cai nghiện tại các Cụm công nghiệp đặc biệt được hưởng
phụ cấp đặc thù nghề nghiệp (ngoài lương) theo Quyết định số 25/2002/QĐ-TTg
ngày 01 tháng 02 năm 2002; cán bộ, nhân viên y tế được hưởng thêm chế độ phụ cấp
trực y tế theo Thông tư số 12/2002/TT-BLĐTBXH-BTC ngày 12 tháng 7 năm 2002.
4. Về quản lý trật tự trị an tại các cơ sở giải quyết việc làm cho người
sau cai nghiện:
4.1. Các cơ sở giải
quyết việc làm đăng ký cho số người sau cai nghiện tạm trú có thời hạn tại địa
phương nơi trú đóng. Các vấn đề liên quan đến hộ tịch của người sau cai nghiện
do ủy ban nhân dân xã phường, thị trấn nơi đăng ký tạm trú giải quyết.
4.2. Công an thành
phố giúp đỡ những cơ sở giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện mới được
thành lập theo Đề án này xây dựng phương án bảo vệ, đặc biệt tập trung vào công
tác phòng, chống ma tuý thẩm lậu, hướng dẫn các cơ sở cai nghiện sửa đổi, bổ
sung phương án bảo vệ và tăng cường trang bị phương tiện phù hợp với điều kiện
có quản lý người sau cai nghiện. Tất cả những cơ sở này đều phải rà soát, củng
cố hoặc thiết lập mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an địa
phương nơi trú đóng.
4.3. Vừa thực hiện
chuyên nghiệp hoá lực lượng bảo vệ tại tất cả các cơ sở giải quyết việc làm cho
người sau cai nghiện, vừa định kỳ có sự luân chuyển cán bộ, nhân viên, thay đổi
địa bàn, khu vực phụ trách nhằm ngăn chặn việc tiêu cực có thể xẩy ra.
5. Về kiểm tra các cơ sở quản lý người sau cai nghiện:
Các cơ quan chức
năng có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra việc thực hiện của các cơ sở quản lý
người sau cai nghiện và giải quyết các khiếu nại, tố cáo (nếu có) theo các quy
định của Nhà nước. Nếu cán bộ, nhân viên, người sau cai nghiện và thân nhân có
vi phạm thì tuỳ theo trường hợp vi phạm mà tiến hành xử lý kịp thời, nghiêm
túc.
6.
Về những vấn đề khác:
6.1. Đẩy mạnh
phong trào quần chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm ma tuý và người nghiện
ma túy, qua đó đưa hết số người nghiện vào cai nghiện tập trung và tăng cường đấu
tranh, xử lý bọn tội phạm ma túy, giảm dần và triệt tiêu các nguồn cung cấp ma
túy làm cho môi trường sống của nhân dân thành phố được lành mạnh.
6.2. Vận động các
tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội tham gia
hỗ trợ việc học văn hoá, học nghề, chăm lo đời sống văn hoá, tinh thần và đầu
tư mở cơ sở sản xuất giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện.
6.3. Gắn việc xây
dựng xã, phường, thị trấn không có tội phạm ma tuý và người nghiện hoặc tái
nghiện ma tuý, thực hiện Chương trình 3 giảm của thành phố với cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Tổ chức giới thiệu và
nhân rộng các điển hình tiên tiến xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị không
có tội phạm ma tuý và người nghiện, tái nghiện ma tuý.
B. Về tổ chức
thực hiện đề án
Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm tổ chức thực hiện Đề án
theo phê duyệt của Chính phủ:
1. Tiến hành công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong mọi tầng lớp
nhân dân về chủ trương nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với người sau cai nghiện
nhằm tạo sự đồng thuận và tích cực hưởng ứng, tham gia của nhân dân trong quá
trình tổ chức thực hiện.
2. Tổ chức quán triệt, giáo dục và vận động học viên cai nghiện và gia
đình họ để tạo sự đồng tình hưởng ứng thực hiện Đề án của bản thân người cai
nghiện và gia đình họ.
3. Hướng dẫn, chỉ đạo ban, ngành, các cấp, huy động lực lượng và tiềm
năng của thành phố để thực hiện có kết quả các phương thức giải quyết việc làm
cho người sau cai nghiện theo Đề án.
4. Thường xuyên theo dõi, tổng hợp, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời
các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện, rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu
quả hoạt động của Đề án.
IV. THỜI
GIAN VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN
Đề án này được thực
hiện thí điểm trong thời gian 05 năm, bắt đầu từ năm 2003. Hàng năm, Uỷ ban
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm tổng kết việc thực hiện Đề án,
làm báo cáo trình Chính phủ để Chính phủ báo cáo Quốc hội vào kỳ họp cuối năm.
V. KẾT LUẬN
1. Dự báo thuận lợi và khó khăn phát sinh:
Để đánh giá đúng
khả năng thực hiện Đề án, thành phố Hồ Chí Minh nhận định một số thuận lợi và
khó khăn trong quá trình thực hiện Đề án như sau:
1.1. Thuận lợi:
- Hiện nay, toàn
thế giới đều nhận thức được hiểm họa của tệ nạn nghiện ma túy đem lại cho từng
gia đình và trên phạm vi toàn xã hội. Tuy mỗi nước đang áp dụng những mô hình
chữa trị, quản lý, giúp đỡ người nghiện không giống nhau nhưng đều nỗ lực tìm
kiếm những biện pháp mới, mô hình mới có hiệu quả hơn những biện pháp, những mô
hình hiện tại. Mô hình cai nghiện tập trung 24 tháng của thành phố Hồ Chí Minh
đã được nhiều đoàn công tác của Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban phòng, chống AIDS
và tệ nạn ma tuý, mại dâm, một số tỉnh, thành phố khác trong nước như Hà Nội, Hải
Phòng, Bình Định, Nghệ An, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu... các tổ chức
quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới như các đoàn của Tổng Lãnh sự các nước
Pháp, Đức, Hà Lan, đoàn của Thống đốc bang New South Wales - úc, đoàn của Hiệp
hội các tổ chức phi Chính phủ - Nhật, tổ chức Daytop - Mỹ.v.v.. đến làm việc,
tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu và đều có nhận xét tốt.
- Kết quả thực hiện
Chương trình mục tiêu 3 giảm của thành phố mà trọng tâm là giảm ma túy trong
hơn 02 năm nay đã bước đầu tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức của
cán bộ, nhân dân thành phố, trong dư luận xã hội và thực sự đang góp phần làm
lành mạnh hóa môi trường xã hội tại thành phố. Những kết quả đó đã làm cho nhân
dân thành phố tin tưởng và ủng hộ các quyết tâm của thành phố trên lĩnh vực
phòng, chống ma túy kể cả chủ trương về tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết
việc làm giai đoạn sau cai nghiện trong thời gian tới của thành phố.
- Thành ủy, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, các cấp
của thành phố rất quan tâm và có sự thống nhất cao trong việc thực hiện các biện
pháp đấu tranh phòng, chống ma túy. Đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác xã hội
tại thành phố có tâm huyết, quyết tâm cao, chịu khó suy nghĩ, luôn năng động
sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Là một thành phố
lớn, có tiềm năng kinh tế và trên cơ sở cho phép của Chính phủ về phân cấp quản
lý trên một số lĩnh vực, thành phố Hồ Chí Minh có điều kiện và sẵn sàng đầu tư
kinh phí để thực hiện các chương trình, dự án mang lại lợi ích cho toàn xã hội,
bao gồm cả các dự án đã được đề cập trong Đề án.
- Thành phố Hồ Chí
Minh còn được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình của các tỉnh nơi có các cơ sở cai
nghiện, cơ sở sản xuất trú đóng như tạo điều kiện về đất đai cho sản xuất nông -
lâm nghiệp, xây dựng công trình phục vụ cho hoạt động cai nghiện cũng như quản
lý, giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện, về việc phối hợp giữ gìn an
ninh trật tự khu vực trú đóng của các cơ sở thuộc thành phố. Nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh có truyền thống đi đầu trong các cuộc vận động xã hội, có nhiều nhà
hảo tâm sẵn sàng góp sức với thành phố tham gia thực hiện chăm lo đời sống, giải
quyết việc làm cho người sau cai nghiện.
1.2. Khó khăn:
- Phòng, chống tái
nghiện là vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp, việc thực hiện Đề án này trong điều
kiện chưa có mô hình, chưa có kinh nghiệm, phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm bổ
sung cho hoàn thiện, do đó có thể phát sinh một số vấn đề chưa lường hết được.
- Điều kiện quản
lý người sau cai nghiện không thể chặt chẽ như quản lý người nghiện, đặc biệt là
quản lý các mối quan hệ tiếp xúc của họ, vì vậy bọn mua bán ma túy có thể lợi dụng
kẽ hở này để thẩm lậu ma túy nếu đội ngũ cán bộ, nhân viên quản lý, bảo vệ mất
cảnh giác, không thường xuyên củng cố, hoàn thiện các phương án bảo vệ.
- Một bộ phận thân
nhân học viên chưa nhận thức đúng mức về tác hại lâu dài của ma túy hoặc do
tình cảm gia đình, muốn con em hồi gia ngay sau khi cai nghiện trong khi gia
đình thiếu khả năng giải quyết việc làm cũng như khả năng đối phó nguy cơ tái
nghiện của con em mình trong tình hình xã hội còn nhiều kẻ xấu muốn trục lợi bằng
hành vi mua bán ma túy.
Từ quan điểm nhân
đạo "không xa lánh người bị nhiễm HIV/AIDS", "sống chung với người
bị nhiễm HIV" và do không có chủ trương, điều kiện để xét nghiệm HIV cho
toàn bộ người nghiện nên trong số người sau cai nghiện chắc chắn có người bị
nhiễm HIV dù không được tiết lộ tên tuổi. Điều này có thể gây tâm lý hoang mang
trong một số người sau cai nghiện; đối với nhiễm HIV chuyển sang AIDS phải giải
quyết chuyển sang chế độ chữa trị, chăm sóc khác.
- Việc thu hút các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư mở cơ sở sản xuất
trong các cụm công nghiệp đặc biệt sẽ có khó khăn vì tuy có các chính sách ưu
đãi hấp dẫn song với điều kiện sử dụng 40 - 50% lao động vốn là người nghiện,
là vấn đề ít nhà đầu tư nào nghĩ tới và dễ dàng gạt bỏ thành kiến để chấp nhận.
Mặt khác, ngoài yếu tố sử dụng lao động vốn là người nghiện, còn nhiều yếu tố
khác trong sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, có thể bị thay đổi bởi
các nguyên nhân khách quan năng suất lao động, thu nhập của lao động tình nguyện
và hiệu quả kinh doanh khiến cho một số nhà đầu tư lo ngại.
- Thời gian quản
lý tập trung đối với người vào cai nghiện tính cả 2 giai đoạn là 4 - 5 năm, khá
dài đối với nhiều người nghiện trẻ nên bên cạnh những mặt tích cực do được sống
và rèn luyện, làm việc trong môi trường lành mạnh, có thể phát sinh phản ứng
tiêu cực trong một số người sau cai nghiện đó các nhu cầu tâm, sinh lý, các
quan hệ xã hội, gia đình tác động. Ngoài ra, trong quá trình sàng lọc, phân loại
đối tượng cai nghiện và sau cai nghiện có thể có thiếu sót nên một vài phần tử
bất hảo, "cộm cán" chưa được chuyển hóa tiếp tục có những hành vi tác
động xấu đến những đội viên lao động tình nguyện khác, cần phải được các đơn vị
quản lý lao động tình nguyện thường xuyên kiểm tra, phát hiện, xử lý theo pháp
luật.
2. Kết luận:
Thực hiện quy
trình cai nghiện và tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm sau cai
nghiện của thành phố nhằm đạt được kết quả là sản phẩm con người, cụ thể đầu
vào là người nghiện, khiếm khuyết về nhân cách, trình độ văn hoá thấp, không có
nghề nghiệp, đầu ra là người lao động có nhân cách, có văn hoá, có tay nghề để
làm lại cuộc đời trở thành người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.