HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
176-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 10 năm 1989
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ SẮP XẾP LẠI LAO ĐỘNG TRONG CÁC ĐƠN VỊ KINH TẾ QUỐC DOANH
Để thực hiện kết luận
của Bộ Chính trị và nghị quyết kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá VIII về những biện
pháp tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị kinh tế quốc doanh, góp phần củng cố, tăng
cường và phát triển kinh tế quốc doanh, Hội đồng Bộ trưởng quyết định một số chủ
trương, biện pháp đặc biệt nhằm sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế
quốc doanh hai năm 1989 - 1990, như sau :
1. Về mục tiêu
sắp xếp lại lao động.
Việc sắp xếp lại lao động trong
các đơn vị kinh tế quốc doanh phải trên cơ sở tổ chức lại sản xuất, nhằm:
- Góp phần tạo điều kiện cho các
đơn vị kinh tế quốc doanh chuyển sang kinh doanh, phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Tận dụng tối đa lực lượng lao động
hiện có, tạo điều kiện từng bước chuyển số lao động không có nhu cầu sử dụng
trong các đơn vị kinh tế quốc doanh sang làm việc ở các thành phần kinh tế
khác.
2. Về một số nội
dung và biện pháp sắp xếp lại lao động.
a) Nhiệm vụ hàng đầu của các đơn
vị kinh tế quốc doanh trong việc sắp xếp lại lao động là phải trên cơ sở phân
tích năng lực sản xuất, các biện pháp xử lý vĩ mô của Nhà nước và nhu cầu thật
của thị trường, để chọn những sản phẩm, dịch vụ truyền thống, đặc thù, các sản
phẩm, dịch vụ có ưu thế hơn so với sản phẩm, dịch vụ cùng loại do các đơn vị
khác thực hiện, từ đó tiến hành việc tổ chức sản xuất kinh doanh, đầu tư khoa học
kỹ thuật, công nghệ mới, nâng câ mức sử dụng công suất máy móc thiết bị, nhà xưởng,
bố trí lao động có kỹ thuật cao, tay nghề giỏi, tạo ra một năng suất lao động,
chất lượng sản phẩm, hiệu quả cao, tăng tích luỹ, làm cơ sở để hoàn thành nghĩa
vụ nộp ngân sách Nhà nước, bảo đảm sự tồn tại phát triển của đơn vị.
b) Những khả năng tiềm tàng về
thiết bị, máy móc, nhà xưởng, vốn, lao động còn lại phải được khai thác triệt để,
tạo ra những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội theo hướng đa dạng
hoá sản phẩm, đa dạng hoá việc làm, phát triển kinh doanh tổng hợp, tạo được
thêm nhiều việc làm cho người lao động.
c) Đối với số lao động cần thiết
cho sản xuất nhưng trước mắt không sắp xếp được thì giải quyết theo phương hướng
sau
- Bố trí làm việc không trọn
tháng, trọn tuần, hoặc trọn ngày (nghỉluân phiên). Đối với số công nhân trẻ,
khoẻ, có tay nghề, nếu họ tự nguyện, thì sau nghỉ dài hạn không hưởng lương,
không tính thời gian công tác liên tục.
- Điều chỉnh từ nơi thừa sang
nơi thiếu, nhất là lao động kỹ thuật.
Thủ trưởng các ngành và Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân các địa phương chịu trách nhiệm điều chỉnh lao động trong phạm
vi ngành và địa phương mình. Việc điều chỉnh từ ngành này sang ngành khác, từ địa
phương này sang địa phương khác được thực hiện thông qua các trung tâm đào tạo
lại và giới thiệu việc làm thuộc địa bàn lãnh thổ.
- Tổ chức đào tạo và đào tạo lại.
Bộ Lao đông - Thương binh và xã hội chủ trì, cùng với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
và các ngành liên quan trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về cơ chế và chính
sách đối với hệ thống trung tâm đào tạo, đào tạo lại và giới thiệu việc làm.
Trước mắt, trong khi chờ đợi quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về vấn
đề này, cho phép trích một phần kinh phí từ nguồn ngân sách Nhà nước đã được
quyết định dành cho việc sắp xếp lại lao động để thực hiện yêu cầu này theo sự
hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội và Bộ Tài chính.
d) Đối với số lao động không có
nhu cầu sử dụng, thì từng bước chuyển sang làm việc ở các thành phần kinh tế
khác. Bộ Lao động - Thương bình và xã hội hướng dẫn tiêu chuẩn phân loại số lao
động này xác định đối tượng cần giải quyết trong năm 1989 - 1990 với cơ chế xem
xét giải quyết chính sách cho họ phù hợp với quyết định này.
đ) Sau khi sắp xếp lại lao động
theo các biện pháp trên đây, các cơ quan quản lý tổng hợp của Nhà nước cần tiếp
tục nghiên cứu việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong nội bộ các đơn vị
kinh tế quốc doanh; xác lập và hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới ở tầm vĩ mô, nhất
là chính sách, cơ chế kiểm soát và điều tiết về tài chính, tiền lương, thu nhập,
hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội... trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc
liên Bộ ban hành để các đơn vị kinh tế quốc doanh thực sự đi vào hệ thống mới
và không ngừng phát triển.
Trong hai năm 1989 - 1990 phải tập
trung chỉ đạo để sắp xếp lại lao động ở các thành phố lớn, khu công nghiệp tập
trung và các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch hướng dẫn triển khai của Bộ Lao động
- thương binh và xã hội.
3. Các chính
sách.
a) Chế độ thôi việc.
Đối với số lao động ra làm việc ở
khu vực ngoài kinh tế quốc doanh được thực hiện chế độ trợ cấp thôi việc thì cứ
mỗi năm công tác liên tục được trợ cấp một tháng lương cơ bản cộng phụ cấp (nếu
có), tối thiểu là 3 tháng, do đơn vị trả, Nhà nước trợ giúp một phần đối với
đơn vị có nhiều khó khăn nhưng tối đa không quá 1/2 số trợ cấp, phần trợ giúp
này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
Trợ cấp theo chế độ này được chi
trả trực tiếp một lần cho người lao động. Nếu nguồn chi trả và số tiền mặt có
khó khăn thì bàn với người lao động trả rải ra một số lần.
b) Chế độ trợ cấp tạm ngừng việc.
Trong trường hợp công nhân tạm
thời nghỉ việc trọn tháng trở lên đến 3 tháng được hưởng trợ cấp tạm ngừng việc
từ nguồn của xí nghiệp. Nếu kéo dài trên 3 tháng, thì xem xét chuyển sang chế độ
thôi việc trợ cấp 1 lần. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội hướng dẫn mức trợ
cấp tối thiểu tạm thời ngừng việc để các xí nghiệp vận dụng phù hợp với khả
năng của mình.
c) Chế độ hưu trí và trợ cấp mất
sức lao động.
- Cho phép các đơn vị kinh tế quốc
doanh áp dụng điều kiện giảm tuổi về hưu theo Quyết định số 227-HĐBT ngày
29-12-1987 của Hội đồng Bộ trưởng đối với số công nhân sản xuất mà đơn vị không
có nhu cầu sử dụng.
- Chế độ trợ cấp mất sức lao động
hiện hành (quy định tại Nghị định số 236-HĐBT ngày 18-9-1985 của Hội đồng Bộ
trưởng) được sửa đổi để áp dụng thống nhất cho số cán bộ, công nhân viên chức về
nghỉ từ khi có Quyết định này như sau.
Công nhân viên chức về nghỉ mất
sức lao động được hưởng trợ cấp hàng tháng, thời hạn trợ cấp hàng tháng bằng
1/2 thời gian công tác đã quy đổi (trừ một số đối tượng đặc biệt do Nhà nước
quy định).
Đối với số công nhân viên chức
đang nghỉ hưởng chế độ mất sức lâu nay, Bộ Lao đông - Thương binh và xã hội
cùng Bộ Tài chính và các ngành Liên quan nghiên cứu sửa đổi chế độ mất sức lao
động hiện hành và phương án triển khai, trình Hội đồng Bộ trưởng xem xét và quyết
định để thực hiện từ ngày 1-1-1990.
4. Tổ chức thực
hiện.
a) Sắp xếp lại lao động trong
các đơn vị kinh tế quốc doanh là một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Vì vậy,
các cấp, các ngành, trung ương và địa phương phải quán triệt sâu sắc quyết định
này và làm tốt công tác tư tưởng đến từng cán bộ, công nhân viên chức. Phải chuẩn
bị thật chu đáo, tiến hành thận trọng, vững chắc, không làm ào ạt. Trong quá
trình chỉ đạo thực hiện cần có sự phối hợp với các tổ chức Đảng, toàn thể, quần
chúng, phát huy sáng kiến của quần chúng lao động và vai trò của tổ chức công
đoàn cơ sở.
b) Bộ trưởng các Bộ, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương phải trực tiếp
chỉ đạo công tác sắp xếp lao động ở các đơn vị kinh tế thuộc ngành, địa phương
mình.
c) Bộ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và xã hộ hướng dẫn và chỉ đạo việc thực hiện Quyết định này.
d) Bộ Lao động - Thương binh và
xã hội phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn lập dự toán, xét duyệt và cấp phát
kinh phí hỗ trợ trợ cho các đơn vị kinh tế cơ sở phù hợp với nguồn tài chính đã
được Nhà nước cho phép bố trí trong ngân sách Nhà nước, kiểm ra việc thực hiện
và thanh quyết toán kinh phí đảm bảo có hiệu quả nguồn vốn này.
5. Quyết định
này có hiệu lực thi hành từ ngày ký. Các quyết định khác trái với quy định tại
Quyết định này không có giá trị thi hành.