ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------
|
Số:
1463/QĐ-UB
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 03 năm 2006
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2010, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2015”
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và
UBND;
Căn cứ Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội số 29/2000/PL-UBTVQH10;
Căn cứ Quyết định số 1689/QĐ-UB ngày 07/4/2005 của UBND Thành phố về việc thành
lập Ban Chủ nhiệm Đề án “Phát triển thị trường lao động Thành phố Hà Nội”;
Xét đề nghị của Sở Lao động Thương binh và Xã hội và các sở, ngành liên quan;
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt Đề án “Phát triển thị trường lao động Thành
phố Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến năm 2015”.
Điều 2.
Ban Chủ nhiệm Đề án “Phát triển thị trường lao động Thành
phố Hà Nội” có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Đề án được phê duyệt, đảm
bảo chất lượng, hiệu quả và tiến độ.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Chánh Văn phòng UBND Thành phố;
Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể, đơn vị liên quan, Chủ tịch UBND các quận
huyện, các thành viên Ban Chủ nhiệm Đề án “Phát triển thị trường lao động Thành
phố Hà Nội” chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- VP Chính phủ (để báo cáo);
- Bộ LĐTBXH (để báo cáo);
- TT Thành ủy; (để báo cáo);
- TT HĐND TP; (để báo cáo);
- UBMTTQ TP (để báo cáo);
- Các đ/c PCT UBND TP
- Như Điều 3;
- CPVP, các tổ CV, TH;
- Lưu.
|
TM/
ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHỦ TỊCH
Nguyễn Quốc Triệu
|
ĐỀ ÁN
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2010,
ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2015
(Ban hành theo Quyết định số 1463/QĐ-UB ngày 24/3/2006 của UBND Thành phố Hà
Nội)
Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW
ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà
Nội trong thời kỳ 2001 – 2010, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần
thứ XIV, để thị trường lao động phát triển một cách lành mạnh, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thủ đô, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Đề án phát triển thị trường lao động
giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến năm 2015 như sau:
Phần 1.
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG HÀ NỘI HIỆN NAY
I. KHÁI QUÁT
CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
Theo nghĩa rộng, thị trường lao
động là nơi cung và cầu lao động tác động qua lại với nhau, hay là nơi mua bán
sức lao động diễn ra giữa người lao động (cung lao động) và người sử dụng lao động
(cầu lao động). Theo nghĩa hẹp, thị trường lao động được hiểu là nơi diễn ra sự
trao đổi theo nguyên tắc thỏa thuận về quan hệ lao động (việc làm, tiền công và
các điều kiện làm việc khác) giữa người lao động và người sử dụng lao động bằng
hình thức hợp đồng lao động.
Thị trường lao động xã hội chủ
nghĩa hoạt động theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường (như quy luật
giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh), đồng thời chịu sự quản lý,
điều tiết theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước. Hàng hóa trao đổi trên
thị trường lao động là sức lao động (loại hàng hóa đặc biệt) có tiềm năng về thể
lực, trí lực và tâm lực gắn liền, không thể tách rời với con người.
Các yếu tố chủ yếu của thị trường
lao động gồm: cung, cầu lao động, các hình thức giao dịch, kênh giao dịch, giá
cả sức lao động, thể chế chính sách về quan hệ lao động…
II. THỰC TRẠNG
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HÀ NỘI HIỆN NAY
1. Tình hình cung lao động
a) Về số lượng
- Hà Nội có quy mô dân số lớn thứ
3 toàn quốc (sau thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Thanh Hóa). Tốc độ tăng dân số của
Hà Nội cao, bình quân 2,86%/năm, đạt quy mô 3.088 nghìn người (năm 2004), trong
đó tỷ lệ tăng cơ học 1,71%, tỷ lệ tăng tự nhiên: 1,15%.
- Đặc điểm của cung lao động Hà
Nội:
+ Cung lao động tăng nhanh qua
các năm. Năm 2004, Hà Nội có 1.995 nghìn người trong độ tuổi lao động, tăng
7%/năm so với năm 2000, trong đó số người có nhu cầu việc làm 1.670 nghìn người,
tăng 5%/năm. Như vậy, tốc độ tăng cung lao động lớn hơn tốc độ tăng dân số và lớn
hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á như: Trung Quốc (tăng
1,5%/năm), Thái Lan (tăng 2,1%/năm).
+ Số người bước vào tuổi lao động
hàng năm cao, khoảng 60 nghìn người/năm, nhưng số người trúng tuyển vào các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề khá lớn với trên 50 nghìn
người (năm 2004), trong đó: số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao
đẳng: 12,875 nghìn người, vào các trường trung học chuyên nghiệp: 19,421 nghìn
người, vào các trường dạy nghề 17,990 nghìn người. Số lao động dôi dư, mất việc
làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp lớn với 26 nghìn người/năm.
- Nguồn lao động trẻ, phân bố
không đều, tập trung chủ yếu ở các khu vực thành thị với 61,8%, nông thôn chiếm
38,2%.
b) Về chất lượng.
- Chất lượng lao động Hà Nội
ngày càng được nâng cao và là một trong những thành phố có lao động qua đào tạo
cao nhất cả nước, với 55,11% lực lượng lao động đã tốt nghiệp phổ thông trung học,
46,5% lao động đã qua đào tạo (năm 2005), bình quân tỷ lệ lao động qua đào tạo
tăng 2,9%/năm. Hà Nội có lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên gia và công
nhân lành nghề đông đảo (số cán bộ có trình độ đại học trở lên của Hà Nội chiếm
68,6% so với cả nước và chiếm 90,1% so với vùng đồng bằng Sông Hồng). Lao động
Hà Nội có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn kiến thức và kinh nghiệm, tiếp thu
nhanh nhạy cái mới, ứng dụng nhanh thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Đây
là lợi thế của lao động Hà Nội.
- Chất lượng lao động giữa hai
khu vực (thành thị - nông thôn), giữa các ngành có sự chênh lệch: Khu vực thành
thị: 68,2% lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, khu vực nông thôn chỉ có
27,2% lao động có chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở ngành công
nghiệp là 70,14%, ngành dịch vụ là 39,78%, ngành nông nghiệp chỉ có 3,77%.
c) Hạn chế
- Cung lao động lớn và tăng cao.
Tuy có chất lượng cao nhất cả nước nhưng cơ cấu lao động qua đào tạo chưa hợp
lý, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thủ đô, thiếu lao động chất lượng cao của các ngành mũi nhọn (công nghệ phần mềm,
tự động hóa …).
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
thấp (17,6%). Một bộ phận lao động kỹ thuật có kỹ năng yếu, thiếu thích nghi,
thể lực yếu, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp cơ bản chưa tốt
nên khả năng cạnh tranh yếu.
2. Tình hình cầu lao động
a) Quy mô của cầu
- Quy mô cầu về lao động có xu
hướng tăng do chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và tốc độ tăng trưởng
kinh tế của thành phố cao, ổn định. Quy mô của cầu về lao động năm 2004 là
1.536 nghìn người. Trong giai đoạn 2000-2004, cầu lao động tăng 64 nghìn người/năm
tương ứng với 4,6%/năm.
- Tốc độ tăng cầu lao động thấp
hơn so với tốc độ tăng cung lao động (Giai đoạn 2000 – 2004, cung lao động tăng
5,0% năm, trong khi cầu lao động tăng 4,6%/năm), dẫn đến tình trạng thất nghiệp
(năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp của Hà Nội đứng thứ 3 toàn quốc với 6,5%).
b) Cầu lao động theo ngành, theo
hình thức sở hữu
* Theo ngành
- Cơ cấu cầu lao động trong các
ngành kinh tế quốc dân có sự chuyển dịch đúng hướng phù hợp với sự chuyển dịch
của cơ cấu kinh tế. Nhưng quá trình này diễn ra chậm. Năm 2000, cơ cấu lao động
trong ngành công nghiệp – dịch vụ - nông lâm nghiệp là: 24,46% - 45,37% -
30,17%, năm 2005 cơ cấu này là 29,35% - 51,47% - 19,18%.
- Cầu lao động tăng mạnh ở ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm mạnh ở ngành nông nghiệp. Dịch vụ là ngành có quy
mô cầu lao động cao nhất, chiếm 76,8% tổng cầu với mức tăng 7,6%/năm. Ngành
công nghiệp tăng 9,5%/năm. Lao động trong nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh (giảm
5,5%/năm), phù hợp với xu thế đô thị hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Hà Nội.
* Theo khu vực, hình thức sở hữu
- Do tác động mạnh của quá trình
cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần đã hạn chế việc thu hút lao động vào khu vực Nhà nước, tốc độ
thu hút lao động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài Nhà nước
ngày càng tăng:
+ Trong khu vực kinh tế nhà nước,
cầu lao động tăng từ 412 nghìn người (năm 2000) lên 488 nghìn người (năm 2004),
tương ứng 4,35%/năm. Mỗi năm có khoảng 10 nghìn lao động dôi dư từ khu vực Nhà
nước chuyển ra các khu vực khác. Trong khu vực kinh tế nhà nước, lao động ở khu
vực hành chính sự nghiệp hầu hết là cán bộ, viên chức Nhà nước được tuyển dụng
theo chế độ biên chế suốt đời nên ít tham gia thị trường lao động.
+ Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước
tạo ra số việc làm đáng kể, thu hút trên 856 nghìn lao động, nhưng tốc độ tăng
lao động ở khu vực này còn chậm (tăng 1%/năm), quy mô sử dụng lao động còn nhỏ,
mặc dù số lượng doanh nghiệp được thành lập tăng nhanh.
+ Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài thu hút ngày càng nhiều lao động vào làm việc. Năm 2004 số lao động ở khu
vực này lên đến 48,7 nghìn người, tăng 37,4%/năm so với năm 2000.
- Đặc điểm nổi bật của Hà Nội là
lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý chỉ chiếm
dưới 50% số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản
lý. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý vẫn là nguồn giải
quyết việc làm quan trọng của Thủ đô.
c) Cầu lao động ngoài nước
- Việc khai thác thị trường việc
làm ở nước ngoài chưa tốt nên cầu lao động Hà Nội ở thị trường nước ngoài chiếm
tỷ trọng nhỏ. Đây là hạn chế lớn của thị trường lao động Hà Nội.
- Trong 4 năm (2000-2004), bình
quân mỗi năm có 1,7 nghìn người Hà Nội đi xuất khẩu lao động, chiếm 6% tổng lao
động các Công ty trên địa bàn đưa ra nước ngoài. Trong số lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài, số lao động có nghề chiếm khoảng 60%, lao động phổ
thông gần 40%. Các thị trường chính lao động Hà Nội đi trong 3 năm qua là: Đài
Loan 34,6%, Hàn Quốc 21,4%, Nhật Bản 12,3%, Lào 9,7%, Malayxia.
d) Cầu lao động theo các loại thị
trường
- Thị trường lao động chính thức
chủ yếu là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, làm việc trong các ngành
kinh tế kỹ thuật quan trọng, được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, các điều kiện
lao động tốt hơn khu vực phi chính thức (chiếm tới 94%), khoảng 6% làm việc ở
khu vực phi chính thức tập trung ở khu vực kinh tế dịch vụ, khu vực nông thôn,
kinh tế hỗn hợp.
- Thị trường lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, diễn ra khá sôi động
trong những năm gần đây do dòng di chuyển chất xám từ khu vực kinh tế Nhà nước
sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Ở thị
trường này, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý cao, có tay nghề
giỏi thì hầu hết xảy ra hiện tượng cầu vượt cung (thị trường thiếu lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật giỏi). Ngược lại thị trường lao động giản đơn chủ
yếu tập trung ở khu vực nông thôn – nơi có tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp thì
cung lớn hơn cầu.
- Thị trường lao động thành thị
- nông thôn: Cầu lao động khu vực thành thị ngày càng tăng, cầu lao động khu vực
nông thôn giảm. Tỷ trọng lực lượng lao động thành thị liên tục tăng từ 52,11%
(năm 2000) lên 57,46% (năm 2004), tỷ trọng lực lượng lao động nông thôn giảm từ
47,89% (năm 2000) xuống 42,54% (năm 2004). Điều này phản ánh xu thế đô thị hóa
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Nội theo hướng tiến bộ.
e) Tình hình di chuyển lao động
Do sức hút về sự phát triển kinh
tế và vị thế Thủ đô nên các luồng di chuyển lao động tự do vào thành phố ngày
càng tăng. Năm 2004, số lao động ngoại tỉnh trên địa bàn Hà Nội chiếm 7% dân số
với 106,408 nghìn người diện KT3; 106,196 nghìn người là lao động thời vụ, học
sinh, sinh viên các tỉnh về Hà Nội tạm trú để học tập. Dân cư và lao động nhập
cư tự do đến Hà Nội đa số là lao động phổ thông, không có tay nghề nên thường
làm các công việc giản đơn hoặc nặng nhọc trong các ngành dịch vụ, xây dựng, phục
vụ trong các gia đình. Ngoài ra, hàng năm có từ 4 -5 nghìn người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến Hà Nội tạm trú để làm việc. Dòng lao động
nước ngoài vào Hà Nội chủ yếu là lao động có chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, có
trình độ quản lý cao và đặc thù mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được.
Dòng di chuyển lao động trên đã
góp phần điều chỉnh quan hệ cung cầu lao động trên thị trường, làm cho thị trường
lao động Hà Nội đa dạng hơn. Bên cạnh những tác động tích cực, nó cũng gây ảnh
hưởng làm tăng sức ép về dân số và việc làm, căng thẳng thêm tình trạng thất
nghiệp, gây quá tải về nhà ở, khả năng phục vụ của hạ tầng kỹ thuật và môi trường
đô thị, xã hội…
f) Hạn chế
- Thị trường Hà Nội đang thiếu
lao động có trình dộ chuyên môn kỹ thuật cao và tay nghề giỏi, thiếu lao động kỹ
thuật trong một số ngành, nghề mũi nhọn, thừa lao động giản đơn.
- Chưa có biện pháp quản lý đồng
bộ đối với vấn đề di chuyển lao động và lao động tỉnh khác về thành phố tìm việc
và làm việc.
- Quy mô xuất khẩu lao động nhỏ.
3. Tiền lương, tiền công
a. Tiền lương, tiền công phản
ánh giá cả sức lao động trên thị trường lao động. Nhìn chung, tiền lương, tiền
công của người lao động có xu hướng tăng nhanh. Năm 2004, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài có thu nhập bình quân cao nhất: 3.000.000đ/người/tháng, thấp nhất là
khu vực hành chính sự nghiệp địa phương: 1.250.000đ/người/tháng. Tốc độ tăng
thu nhập cao, khoảng từ 10,4% - 16,6%/năm.
b. Sự chênh lệch thu nhập của
người lao động giữa các khu vực kinh tế, giữa các ngành kinh tế, đặc biệt là
thu nhập thấp của khu vực nông thôn đã làm tăng sự biến động của các dòng lao động
luân chuyển. Mức chênh lệch về thu nhập của người lao động giữa khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài – Doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp - Doanh nghiệp
Nhà nước giảm từ 3,47-2,42-1 (năm 2001) xuống còn 2,4-1,24-1 (năm 2004). Điều
này chứng tỏ mức độ cạnh tranh của thị trường lao động giữa các khu vực cao, sự
phân cực thị trường giữa các khu vực kinh tế có xu hướng giảm.
c. Hạn chế
- Tiền lương tối thiểu thấp. Khu
vực kinh tế nhà nước áp dụng hệ thống thang bảng lương mang tính bình quân và
chưa phản ánh rõ mối liên hệ giữa tiền lương với trình độ chuyên môn hoặc tay
nghề, với năng suất lao động và hiệu quả công việc.
- Tiền lương, tiền công chưa thực
sự là đòn bẩy kích thích lao động sản xuất, chưa phản ánh đúng giá trị sức lao
động.
4. Hình thức giao dịch, kênh
giao dịch trên thị trường lao động
a) Hình thức giao dịch
Hiện nay trên thị trường lao động
Hà Nội đang tồn tại 5 hình thức giao dịch (tuyển dụng, hợp đồng lao động, thầu
khoán, tuyển mộ nhân công, thuê người giúp việc gia đình) qua 2 dạng: giao dịch
qua trung gian và giao dịch trực tiếp giữa người sử dụng lao động và người lao
động. Hình thức giao dịch trực tiếp đang chiếm tỷ trọng lớn đến 80%.
b) Các kênh giao dịch trên thị
trường lao động
* Tổ chức giới thiệu việc làm:
Bao gồm 11 trung tâm dịch vụ việc làm được thành lập và hoạt động theo Bộ Luật
Lao động, 524 doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Trong 4 năm qua,
các đơn vị dịch vụ việc làm đã tư vấn việc làm cho trên 21 vạn người, cung ứng
giới thiệu việc làm cho gần 9 vạn người, dạy nghề ngắn hạn cho trên 5,8 vạn người.
Tuy vậy, hệ thống dịch vụ việc làm chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường: cơ sở vật
chất thiếu, trang thiết bị lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả và phân bố không đều
(tập trung chủ yếu trong khu vực 4 quận nội thành cũ), chức năng nhiệm vụ chưa
hợp lý (bao gồm cả đào tạo nghề ngắn hạn).
* Tổ chức xuất nhập khẩu lao động:
Trên địa bàn Hà Nội có 64 đơn vị có chức năng xuất khẩu lao động (trong đó có 8
đơn vị thuộc thành phố quản lý). Mặc dù lĩnh vực này đã có chủ trương khuyến khích
của Nhà nước, song hoạt động của phần lớn các đơn vị này vẫn chưa có hiệu quả,
quy mô các đơn vị xuất khẩu lao động nhỏ, chưa khai thác được những thị trường
ngoài nước có ngành nghề phù hợp với nhu cầu của lao động Hà Nội.
Hình thức nhập khẩu lao động nước
ngoài vào Hà Nội chủ yếu được thực hiện do các Công ty có vốn nước ngoài, các
văn phòng nước ngoài và một số đơn vị khác có nhu cầu tuyển dụng lao động
chuyên môn kỹ thuật nước ngoài vào làm việc. Thị trường này hầu hết là lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhưng việc cung ứng, quản lý còn hạn chế, một
số lĩnh vực chưa được kiểm soát chặt chẽ.
* Hệ thống thông tin trên phương
tiện thông tin đại chúng như báo, đài, truyền hình, Internet đã có nhiều chuyên
mục đăng tải về nhu cầu tuyển dụng lao động, song còn chưa đồng bộ, đầy đủ.
* Chợ lao động: Hiện nay trên thị
trường đang tồn tại 2 loại chợ:
- Chợ có tổ chức: Thông qua các
hoạt động Hội chợ việc làm của thành phố (đã tổ chức 4 lần), Hội chợ lao động,
việc làm của một số trường đại học, trung tâm dịch vụ việc làm và một số doanh
nghiệp.
- Chợ tự phát (không có tổ chức)
thường diễn ra ở các làng nghề ngoại thành, các tụ điểm lao động chờ việc ở nội
thành, là nơi tập trung chủ yếu lao động nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc
làm. Hình thức thị trường lao động tự phát này còn nằm ngoài tầm kiểm soát,
giám sát của luật pháp và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, nó đã gây
nên nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội, quyền lợi của người lao động không
được đảm bảo.
c) Hạn chế
- Các kênh giao dịch là các
trung tâm dịch vụ việc làm chưa đáp ứng yêu cầu. Người lao động tiếp cận qua
các dịch vụ này còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng 20%.
- Chất lượng giao dịch chưa tốt.
Chưa có các trung tâm giao dịch lớn, đạt tiêu chuẩn khu vực.
- Công tác quản lý đối với các tổ
chức dịch vụ việc làm hoạt động theo Luật doanh nghiệp còn thiếu chặt chẽ nên
có nhiều tiêu cực ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và sự phát triển của
thị trường lao động.
5. Hệ thống thông tin thống
kê về thị trường lao động
Các cơ quan như: Cục thống kê, Sở
Lao động Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em Thành phố đã
tích cực xây dựng hệ thống thông tin thống kê về thị trường lao động. Các thông
tin về dân số, nguồn lao động, lao động hoạt động kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, hệ
số sử dụng lao động nông thôn, số lượng lao động qua đào tạo, số việc làm mới,
số lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm đã được thống kê hàng năm.
Hạn chế
- Mức độ chính xác của số liệu
còn hạn chế, đặc biệt các số liệu về cung lao động chưa nắm sát được thực tế, cầu
lao động hầu như chưa được thống kê đầy đủ và thường xuyên, chưa thiết lập được
hệ thống thông tin thị trường lao động.
- Chưa có bộ máy chuyên trách
làm công tác thông tin thống kê về lao động, phương tiện phục vụ hoạt động lạc
hậu. Đây là khó khăn rất lớn, ảnh hưởng đến việc quản lý thị trường lao động.
Các cơ quan thông tin, thống kê về thị trường lao động hầu như chưa có mối liên
hệ thường xuyên với chủ sử dụng lao động nên việc cập nhật thông tin chưa kịp
thời.
6. Vai trò quản lý Nhà nước
Trong những năm qua, Nhà nước đã
từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách để quản lý và điều tiết thị trường lao
động. Trên cơ sở chính sách của Nhà nước, thành phố đã cụ thể hóa, tổ chức thực
hiện, tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển.
- Vai trò điều tiết thị trường
lao động: Thành phố đã áp dụng các chính sách kinh tế, xã hội nhằm khuyến khích
các thành phần kinh tế, đặc biệt là các cơ sở kinh tế dân doanh đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải tiến thủ tục hành chính để kêu gọi đầu
tư nước ngoài, đầu tư vốn để giải quyết việc làm qua kênh vay vốn quỹ quốc gia
hỗ trợ việc làm, ban hành các chính sách ưu đãi trong đào tạo, thu hút nhân tài
… nhằm tăng cầu lao động, điều tiết quan hệ cung – cầu lao động, nâng cao chất
lượng cung cầu lao động cho thị trường, xử lý những khiếm khuyết của thị trường.
- Vai trò tổ chức, tạo điều kiện
cho thị trường phát triển: Trên cơ sở hệ thống văn bản của Nhà nước, Thành phố
đã tổ chức thực hiện, xây dựng và cụ thể hóa thành quy định, chính sách cụ thể
tạo hành lang pháp lý từng bước tạo lập môi trường bình đẳng, thuận lợi cho các
bên tham gia thị trường lao động, đồng thời thiết lập, sắp xếp lại hệ thống các
trung tâm dịch vụ việc làm, các công ty xuất khẩu lao động, các trường đào tạo
nghề, trung học chuyên nghiệp … tạo điều kiện cho thị trường phát triển.
Hạn chế
- Hệ thống pháp luật lao động
còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là các chính sách về quản lý dân số, lao động
nhập cư, quản lý hoạt động của các tổ chức giới thiệu việc làm.
- Các chính sách khuyến khích
phát triển kinh tế chưa thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thủ tục
hành chính còn rườm rà, cản trở sự phát triển; Nhiều chính sách mới tập trung
chủ yếu cho khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; các doanh
nghiệp lớn, các khu vực khác đã được đề cập nhưng chưa thỏa đáng đã hạn chế sự
phát triển của thị trường lao động.
- Vai trò điều tiết và quản lý của
các cấp, các ngành đối với thị trường lao động hiệu quả còn thấp.
III. ĐÁNH GIÁ
CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HÀ NỘI
- Thị trường lao động ở Việt Nam
nói chung và Hà Nội nói riêng mới hình thành và đang phát triển, do vậy còn
mang tính tự phát, thiếu ổn định và chưa được Nhà nước định hướng, quản lý có
hiệu quả.
- Cung lao động có cơ cấu trẻ với
quy mô lớn, tăng nhanh, có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu cơ bản của thị trường
lao động, tuy nhiên cơ cấu lao động còn bất cập. Cầu lao động có xu hướng tăng
về số lượng cũng như chất lượng, đa dạng hơn, cơ cấu chất lượng đòi hỏi khắt
khe hơn. Cung lao động lớn hơn cầu lao động. Thị trường lao động đang thiếu lao
động trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý cao, tay nghề cao, thừa lao động
giản đơn.
- Hệ thống chính sách quản lý và
điều tiết thị trường lao động đã xây dựng góp phần tạo hành lang pháp lý cho
công tác quản lý thị trường nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường mở,
đa dạng, luôn biến động như hiện nay. Vai trò điều tiết của Nhà nước, thành phố
có tác động đến sự hình thành và phát triển của thị trường lao động, đã từng bước
khắc phục, giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ cung-cầu và những khiếm khuyết của
thị trường nhưng còn hạn chế. Sự kiểm tra, giám sát thị trường lao động chưa chặt
chẽ.
- Các tổ chức tham gia vào thị
trường lao động với tư cách là cầu nối giữa cung và cầu lao động đã góp phần
thúc đẩy thị trường lao động phát triển, song mức độ đáp ứng còn thấp, hiệu quả
chưa cao. Các hoạt động giao dịch trên thị trường đáp ứng một phần yêu cầu của
thị trường song chất lượng giao dịch còn thấp.Hệ thống thông tin, thống kê về
thị trường lao động không đồng bộ, thiếu độ tin cậy.
Phần 2.
CHỦ TRƯƠNG, GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2010, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM
2015
I. MỘT SỐ
NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HÀ NỘI VÀ DỰ
BÁO CUNG, CẦU LAO ĐỘNG ĐẾN NĂM 2010
1. Một số nhân tố chủ yếu ảnh
hưởng đến sự phát triển của thị trường lao động Hà Nội trong giai đoạn tới.
- Xu thế hội nhập – toàn cầu hóa
kinh tế, kết hợp với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
đòi hỏi cầu lao động ngày càng cao về chất lượng, đa dạng về cơ cấu ngành nghề,
đồng thời cũng đòi hỏi thị trường lao động phải sôi động, thông thoáng, không bị
chia cắt, các giao dịch phải năng động, linh hoạt.
- Trong xu hướng quốc tế hóa sẽ
tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt về nguồn lao động chất lượng cao, tạo ra sự chảy
máu chất xám.
- Hà Nội có vị trí là trung tâm
văn hóa, chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật của cả nước, tạo điều kiện cho
Hà Nội đi trước cả nước trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nâng cao chất
lượng cung và cầu lao động. Là thành phố có nguồn lao động dồi dào với cơ cấu
trẻ, trình độ cao, tiềm lực khoa học kỹ thuật cao nhất cả nước. Đây là lợi thế
lớn của Hà Nội so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, cần phải khai
thác triệt để nhằm phát triển thị trường lao động.
- Hà Nội là trung tâm của vùng
kinh tế đồng bằng Bắc Bộ, là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của
cả khu vực phía Bắc, là điều kiện thuận lợi để cung ứng lao động trình độ cao,
góp phần phát triển thị trường lao động, đồng thời cũng tạo ra sức hút đối với
các dòng di chuyển lao động tự do vào Hà Nội làm tăng dân số cơ học, gây khó
khăn cho công tác quản lý.
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế
theo hướng dịch vụ - công nghiệp – nông (lâm) nghiệp sẽ làm tăng đáng kể cầu
lao động cho các ngành dịch vụ, công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ chất lượng
cao, đòi hỏi đào tạo nguồn nhân lực phải đáp ứng cầu của thị trường.
2. Dự báo cung và cầu lao động
đến năm 2010
a) Về cung lao động
- Dự báo đến năm 2010, dân số Hà
Nội (có hộ khẩu thường trú) khoảng 3.700 nghìn người, số người trong độ tuổi
lao động là 2.405 nghìn người, lực lượng lao động là 1.876 nghìn người.
- Về lao động ngoại tỉnh, lao động
mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp:
+ Dự báo trong những năm tới,
dòng lao động ngoại tỉnh vào Hà Nội tiếp tục tăng với khoảng 12 – 13 vạn người/năm.
+ Lao động mất việc làm hoặc thiếu
việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất khoảng 7 vạn người.
- Lực lượng lao động qua đào tạo
tăng khoảng 4 – 5%/năm. Riêng lao động qua đào tạo nghề (công nhân kỹ thuật) sẽ
tăng khoảng 7 – 8%/năm (đạt khoảng 469 nghìn người – 562 nghìn người vào năm
2010).
Để đảm bảo chuyển dịch cơ cấu
lao động đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, dự báo sẽ tăng nhanh số lượng
công nhân kỹ thuật trong ngành dịch vụ và nông nghiệp. Trong thời kỳ 2006 –
2010 tốc độ tăng công nhân kỹ thuật trong dịch vụ là 10%/năm, công nghiệp đạt
khoảng 6%/năm và nông nghiệp là 9%/năm.
b) Về cầu lao động và khả năng
giải quyết việc làm
- Giai đoạn 2006 – 2010, hàng
năm cần bố trí việc làm cho 1.706,3 nghìn người và đến năm 2010 và 1.876 nghìn
người.
- Căn cứ vào tốc độ tăng GDP, mức
tăng năng suất lao động, hệ số co giãn lao động, dự báo giai đoạn 2006 – 2010 cầu
lao động bình quân hàng năm là 1.630 nghìn người. Năm 2010 cầu lao động là
1.800 nghìn người.
Dự báo từ năm 2006 đến năm 2010
khả năng giải quyết việc làm như sau:
+ Các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm sẽ thu hút 1.599 nghìn người/năm. Năm 2010 là 1.765
nghìn người, chiếm 98% tổng số việc làm.
+ Các chương trình mục tiêu khác
có tham gia giải quyết việc làm (trong đó có xuất khẩu lao động) sẽ giải quyết
việc làm cho từ 31 – 36 nghìn người/năm (chiếm 2%). Đồng thời lao động sẽ tăng
nhanh trong ngành dịch vụ và công nghiệp, xây dựng, giảm nhanh lao động nông
nghiệp để đạt cơ cấu (DV-CN-NN): 52% - 33% - 15%.
+ Trong dịch vụ: Tập trung phát
triển mạnh các loại hình dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao như tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, luật pháp, môi giới, tư vấn, du lịch,
y tế, giáo dục, hàng không … với yêu cầu tăng nhanh lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao. Ngành dịch vụ sẽ tạo chỗ làm việc cho khoảng 900 nghìn người.
+ Trong công nghiệp: Tăng nhanh
tỷ trọng lao động là công nhân kỹ thuật và cán bộ trung học chuyên nghiệp, giảm
mạnh tỷ trọng lao động không có CMKT, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp
chủ lực như cơ kim khí, điện tử, tự động hóa, công nghệ phần mềm, vật liệu xây
dựng cao cấp. Ngành công nghiệp tạo việc làm cho khoảng 600 nghìn người.
+ Trong khu vực nông thôn: Thực
hiện chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng vừa tăng lao động ngành nghề phi
nông nghiệp, vừa tăng tỷ trọng lao động qua đào tạo; riêng trong nông nghiệp,
tăng tỷ trọng lao động trong ngành chăn nuôi, chế biến và ngành nghề khác, hình
thành các vùng cây phi lương thực có giá trị hàng hóa cao. Ngành nông lâm nghiệp
sẽ tạo việc làm cho khoảng 265 nghìn người.