QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Nghị quyết số: 104/2020/QH14
|
Hà Nội, ngày 08 tháng 6 năm 2020
|
NGHỊ QUYẾT
GIA
NHẬP CÔNG ƯỚC SỐ 105 CỦA TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC
QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Điều ước
quốc tế số 108/2016/QH13;
Theo đề nghị của Chủ tịch nước tại Tờ trình số
03/TTr-CTN ngày 20 tháng 4 năm 2020 về việc gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế về
Xóa bỏ lao động cưỡng bức;
Sau khi xem xét Báo cáo thuyết minh số 170/BC-CP
ngày 27 tháng 04 năm 2020 của Chính phủ; Báo cáo thẩm tra số 4683/BC-UBĐN14
ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội và ý kiến của các vị
đại biểu Quốc hội,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Gia nhập điều ước quốc
tế
Gia nhập Công ước số
105 của Tổ chức Lao động quốc tế về Xóa bỏ lao động cưỡng bức (sau đây gọi
tắt là Công ước số 105) được Hội nghị
toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế thông qua ngày 25 tháng 6 năm 1957 tại
Geneva, Thụy Sỹ. Toàn văn bản tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt của Công ước số 105 tại Phụ lục kèm theo Nghị quyết
này.
Điều 2. Áp dụng điều ước quốc tế
Áp dụng trực tiếp toàn bộ nội dung của Công ước số 105.
Điều 3. Tổ chức thực hiện điều
ước quốc tế
1. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực
hiện Công ước số 105; phê duyệt, chỉ đạo
các cơ quan, tổ chức có liên quan ở trung ương và địa phương triển khai kế hoạch
thực hiện Công ước số 105; hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tuyên truyền, phổ biến kịp thời, đầy đủ nội dung Công ước số 105 và những nội dung liên quan để
tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động của hệ thống chính trị, doanh nghiệp
và người dân.
2. Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan
hoàn thành thủ tục đối ngoại về việc gia nhập Công
ước số 105 và thông báo thời điểm Công ước
số 105 có hiệu lực đối với Việt Nam.
Điều 4. Giám sát việc thực hiện
Nghị quyết
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện Nghị quyết
này.
Nghị quyết này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 08 tháng 6 năm 2020.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Thị Kim Ngân
|
Epas: 40419
PHỤ LỤC
CÔNG ƯỚC SỐ 105 VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC (1957)
(Kèm theo Nghị quyết số 104/2020/QH14 của Quốc hội ngày 08 tháng 6 năm 2020)
Lời nói đầu
Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động Quốc tế,
Được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động Quốc
tế triệu tập tại Geneva ngày 05 tháng 6 năm 1957, trong kỳ họp thứ bốn mươi, và
Sau khi đã xem xét vấn đề lao động cưỡng bức là vấn
đề thứ tư trong Chương trình nghị sự kỳ họp, và
Sau khi đã ghi nhận những quy định của Công ước về
Lao động cưỡng bức, năm 1930, và
Sau khi đã ghi nhận rằng Công ước năm 1926 về chế độ
nô lệ đã quy định phải có những biện pháp hữu ích để ngăn chặn lao động cưỡng bức
hoặc bắt buộc trở thành những điều kiện tương tự như chế độ nô lệ và Công ước bổ
sung năm 1956 về việc xóa bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ và các hình thức
tương tự như chế độ nô lệ quy định việc xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô dịch do nợ nần
và chế độ nông nô, và
Sau khi đã ghi nhận rằng Công ước về Bảo vệ tiền lương (1949) quy định phải
trả lương đều đặn và cấm các cách trả lương mà khiến cho người lao động thực tế
không sao rời bỏ được công việc đang làm, và
Sau khi đã quyết định chấp thuận một số đề nghị về
việc xóa bỏ một số hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc vi phạm quyền con
người như đã được ghi trong Hiến chương Liên Hợp quốc và nêu trong Tuyên ngôn
chung về nhân quyền, và
Sau khi đã quyết định rằng những đề nghị đó sẽ mang
hình thức một Công ước quốc tế,
thông qua ngày 25 tháng 6 năm 1957, Công ước dưới
đây gọi là Công ước về Xóa bỏ lao động cưỡng bức (1957)
Điều
1
Mọi Thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế phê chuẩn
Công ước này cam kết cấm lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc và không sử dụng bất
kỳ hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc nào:
a) như là một biện pháp cưỡng chế hay giáo dục
chính trị hoặc như một sự trừng phạt đối với những ai đang có hoặc đang phát biểu
chính kiến, hay ý kiến chống đối về tư tưởng đối với trật tự chính trị, xã hội,
hoặc kinh tế đã được thiết lập;
b) như là một biện pháp huy động và sử dụng nhân
công vào mục đích phát triển kinh tế;
c) như là một biện pháp kỷ luật lao động;
d) như một sự trừng phạt đối với việc đã tham gia
đình công;
e) như một biện pháp phân biệt đối xử về chủng tộc,
xã hội, dân tộc hoặc tôn giáo.
Điều
2
Mọi Thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế phê chuẩn
Công ước này cam kết sử dụng các biện pháp có hiệu quả nhằm xóa bỏ ngay và toàn
bộ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, như đã quy định tại Điều 1 Công ước này.
Điều
3
Việc phê chuẩn chính thức Công ước này phải được
đăng ký với Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động Quốc tế.
Điều
4
1. Công ước này chỉ ràng buộc những Thành viên của
Tổ chức Lao động Quốc tế đã đăng ký việc phê chuẩn của mình với Tổng Giám đốc
Văn phòng Lao động Quốc tế.
2. Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực sau 12 tháng
kể từ ngày hai Thành viên đã đăng ký việc phê chuẩn của mình với Tổng Giám đốc.
3. Sau đó, Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực đối
với bất kỳ Thành viên nào sau 12 tháng kể từ ngày việc phê chuẩn của Thành viên
đó đã đăng ký với Tổng Giám đốc.
Điều
5
1. Thành viên đã phê chuẩn Công ước này có thể bãi
ước sau khi kết thúc thời hạn 10 năm kể từ ngày Công ước bắt đầu có hiệu lực, bằng
một văn bản đăng ký việc bãi ước này cho Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động Quốc
tế. Việc bãi ước này chỉ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày đã đăng ký với Tổng
Giám đốc.
2. Mỗi Thành viên đã phê chuẩn Công ước này và
Thành viên chưa phê chuẩn Công ước, trong vòng 01 năm sau khi kết thúc thời hạn
10 năm nói trong khoản trên mà không thực hiện quyền bãi ước quy định tại Điều
này, thì sẽ bị ràng buộc trong một thời hạn 10 năm nữa rồi sau đó mới có thể
bãi ước Công ước này mỗi khi kết thúc thời hạn 10 năm theo những điều kiện quy
định tại Điều này.
Điều
6
1. Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động Quốc tế sẽ
thông báo cho mọi Thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế biết mọi trường hợp
đăng ký phê chuẩn và bãi ước mà các Thành viên đã truyền đạt cho Tổng Giám đốc.
2. Khi thông báo cho các Thành viên của Tổ chức Lao
động Quốc tế về việc đăng ký phê chuẩn của Thành viên thứ hai, Tổng Giám đốc sẽ
lưu ý các Thành viên về thời điểm mà Công ước bắt đầu có hiệu lực.
Điều
7
Để đăng ký theo Điều 102 của Điều lệ Liên Hợp quốc,
Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động Quốc tế sẽ truyền đạt cho Tổng thư ký Liên Hợp
quốc đầy đủ mọi chi tiết về việc phê chuẩn và các văn bản về bãi ước đã được
đăng ký theo các quy định tại Điều trên.
Điều
8
Mỗi khi xét thấy cần thiết, Hội đồng Quản trị của
Văn phòng Lao động Quốc tế sẽ trình một bản báo cáo về tình hình hoạt động của Công
ước này lên Hội nghị toàn thể ILO và sẽ xem xét có cần đưa vào chương trình nghị
sự của Hội nghị toàn thể việc sửa đổi lại một phần hoặc toàn bộ Công ước này
hay không.
Điều
9
1. Nếu Hội nghị toàn thể thông qua một Công ước mới
sửa đổi lại một phần hoặc toàn bộ Công ước này và nếu Công ước mới không quy định
khác thì:
a) một Thành viên phê chuẩn một Công ước mới sửa đổi,
thì sẽ đương nhiên dẫn đến sự bãi ước ngay lập tức đối với Công ước này, bất kể
quy định trong Điều 5 bên trên, vào lúc Công ước mới sửa đổi đó bắt đầu có hiệu
lực.
b) kể từ ngày Công ước mới sửa đổi bắt đầu có hiệu
lực, các Thành viên sẽ không tiếp tục phê chuẩn Công ước này nữa.
2. Trong mọi trường hợp, Công ước này sễ giữ nguyên
hiệu lực về cả hình thức và nội dung đối với những Thành viên đã phê chuẩn Công
ước này mà chưa phê chuẩn Công ước mới sửa đổi.
Điều
10
Cả hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp của Công ước này
đều có giá trị như nhau.
C105
- Abolition of Forced Labour Convention, 1957 (No. 105)
Convention
concerning the Abolition of Forced Labour
Preamble
The General Conference of the International Labour
Organisation,
Having been convened at Geneva by the Governing
Body of the International Labour Office, and having met in its Fortieth Session
on 5 June 1957, and
Having considered the question of forced labour,
which is the fourth item on the agenda of the session, and
Having noted the provisions of the Forced Labour
Convention, 1930, and
Having noted that the Slavery Convention, 1926,
provides that all necessary measures shall be taken to prevent compulsory or
forced labour from developing into conditions analogous to slavery and that the
Supplementary Convention on the Abolition of Slavery, the Slave Trade and
Institutions and Practices Similar to Slavery, 1956, provides for the complete
abolition of debt bondage and serfdom, and
Having noted that the Protection of Wages
Convention, 1949, provides that wages shall be paid regularly and prohibits
methods of payment which deprive the worker of a genuine possibility of terminating
his employment, and
Having decided upon the adoption of further
proposals with regard to the abolition of certain forms of forced or compulsory
labour constituting a violation of the rights of man referred to in the Charter
of the United Nations and enunciated by the Universal Declaration of Human
Rights, and
Having determined that these proposals shall take
the form of an international Convention,
adopts this twenty-fifth day of June of the year
one thousand nine hundred and fifty-seven the following Convention, which may
be cited as the Abolition of Forced Labour Convention, 1957:
Article
1
Each Member of the International Labour
Organisation which ratifies this Convention undertakes to suppress and not to
make use of any form of forced or compulsory labour--
(a) as a means of political coercion or education
or as a punishment for holding or expressing political views or views
ideologically opposed to the established political, social or economic system;
(b) as a method of mobilising and using labour for
purposes of economic development;
(c) as a means of labour discipline;
(d) as a punishment for having participated in
strikes;
(e) as a means of racial, social, national or
religious discrimination.
Article
2
Each Member of the International Labour
Organisation which ratifies this Convention undertakes to take effective
measures to secure the immediate and complete abolition of forced or compulsory
labour as specified in Article 1 of this Convention.
Article
3
The formal ratifications of this Convention shall
be communicated to the Director-General of the International Labour Office for
registration.
Article
4
1. This Convention shall be binding only upon those
Members of the International Labour Organisation whose ratifications have been
registered with the Director-General.
2. It shall come into force twelve months after the
date on which the ratifications of two Members have been registered with the
Director-General.
3. Thereafter, this Convention shall come into
force for any Member twelve months after the date on which its ratification has
been registered.
Article
5
1. A Member which has ratified this Convention may
denounce it after the expiration of ten years from the date on which the
Convention first comes into force, by an act communicated to the
Director-General of the International Labour Office for registration. Such
denunciation shall not take effect until one year after the date on which it is
registered.
2. Each Member which has ratified this Convention
and which does not, within the year following the expiration of the period of
ten years mentioned in the preceding paragraph, exercise the right of
denunciation provided for in this Article, will be bound for another period of
ten years and, thereafter, may denounce this Convention at the expiration of
each period of ten years under the terms provided for in this Article.
Article
6
1. The Director-General of the International Labour
Office shall notify all Members of the International Labour Organisation of the
registration of all ratifications and denunciations communicated to him by the
Members of the Organisation.
2. When notifying the Members of the Organisation
of the registration of the second ratification communicated to him, the
Director-General shall draw the attention of the Members of the Organisation to
the date upon which the Convention will come into force.
Article
7
The Director-General of the International Labour
Office shall communicate to the Secretary-General of the United Nations for
registration in accordance with Article 102 of the Charter of the United
Nations full particulars of all ratifications and acts of denunciation
registered by him in accordance with the provisions of the preceding Articles.
Article
8
At such times as it may consider necessary the
Governing Body of the International Labour Office shall present to the General
Conference a report on the working of this Convention and shall examine the
desirability of placing on the agenda of the Conference the question of its
revision in whole or in part.
Article
9
1. Should the Conference adopt a new Convention
revising this Convention in whole or in part, then, unless the new Convention
otherwise provides:
(a) the ratification by a Member of the new
revising Convention shall ipso jure involve the immediate denunciation of this
Convention, notwithstanding the provisions of Article 5 above, if and when the
new revising Convention shall have come into force;
(b) as from the date when the new revising
Convention comes into force this Convention shall cease to be open to
ratification by the Members.
2. This Convention shall in any case remain in
force in its actual form and content for those Members which have ratified it
but have not ratified the revising Convention.
Article
10
The English and French versions of the text of this
Convention are equally authoritative.