HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
56-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 5 năm 1989
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 56-HĐBT NGÀY 30-5-1989
QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH PHÁP LỆNH NGHĨA VỤ LAO ĐỘNG CÔNG ÍCH
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật tổ
chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Căn cứ điều 25 của Pháp lệnh nghĩa vụ lao động công ích
ngày 10 tháng 11 năm 1988;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và xã hội,
NGHỊ ĐỊNH:
I-
ĐỐI TƯỢNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ LAO ĐỘNG CÔNG ÍCH HÀNG NĂM
Điều 1.
- Những đối tượng được miễn, tạm miễn, giảm ngày công lao động nghĩa vụ công
ích hàng năm theo các điều 10, 11, 12, của Pháp lệnh được quy ước cụ thể như
sau:
1. Những người
giữ chức sắc tôn giáo sau đây được miễn thực hiện nghĩa vụ lao động công ích
hàng năm:
- Đại đức, Hoà thượng, Thượng toạ
(đối với đạo phật).
- Linh mục, giám mục, hoặc đứng
đầu các dòng tu (đối với thiên chúa
giáo).
- Giảng sư, mục sư (đối với đạo
tin lành).
2. Người đi
lao động, học tập, công tác ở nước ngoài từ một năm trở lên, được tạm miễn làm
nghĩa vụ lao động công ích trong thời gian lao động, học tập, công tác ở nước
ngoài.
3. Quân nhân
dự bị, dân quân tự vệ làm nhiệm vụ kiểm tra sẵn sàng chiến đấu, trực chiến hoặc
truy bắt biệt kích, thám báo, do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, gọi tắt là huyện (đối với vùng biên giới, hải đảo do Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân xã, hoặc đơn vị hành chính tương đương gọi tắt là xã) trở
lên điều động thì số ngày làm nhiệm vụ nói trên được trừ vào số ngày công lao động
công ích ghi trong lệnh huy động đối với bản thân quân nhân dự bị, dân quân tự
vệ đó.
Điều 2.
- Người được huy động làm nghĩa vụ lao động công ích hàng năm phải trực tiếp
làm là chính. Nếu vì hoàn cảnh nào đó không thể trực tiếp làm lao động công ích
được thì thuê người làm thay. Khi thuê người làm thay, người được huy động và
người làm thay phải có giao kèo quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của mỗi
bên, đồng thời phải báo cho cơ quan huy động biết, làm cơ sở pháp lý để giải
quyết khi có tranh chấp. Trường hợp không tự thuê người làm thay thì đề nghị với
Uỷ ban nhân dân xã hoặc cơ quan, xí nghiệp cho nộp một số tiền để thuê người
làm thay số ngày công lao động ghi trong lệnh huy động, theo giá tiền công ở địa
phương.
Điều 3.
- Việc quản lý và sử dụng tiền do người có nghĩa vụ lao động công ích hàng năm
đóng góp thay cho đi làm trực tiếp được tiến hành như sau:
1. Uỷ ban nhân dân xã, cơ quan,
xí nghiệp có trách nhiệm thu tiền của người có nghĩa vụ lao động công ích hàng
năm đóng góp thay cho đi làm trực tiếp, khi thu tiền phải cấp biên lai cho người
đã nộp tiền; số tiền thu được phải nộp đầy đủ, kịp thời cho Uỷ ban nhân dân huyện.
Cấm thu tiền trước khi có lệnh
huy động hoặc khi chưa được sự đồng ý của người được huy động.
2. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố, đặc khu trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh) căn cứ giá tiền công ở địa
phương, quy định mức tiền phải nộp của một ngày lao động nghĩa vụ công ích hàng
năm để thực hiện việc thu tiền đối với người nộp tiền thay cho trực tiếp làm
công ích hàng năm; trực tiếp quản lý số tiền thu được hàng năm để điều hoà
chung trong địa phương, đầu tư cho các công trình được sử dụng lao động công
ích hàng năm theo kế hoạch (sau khi đã trừ số ngày công lao động trực tiếp) để
công trường thuê người làm thay.
Uỷ ban nhân
dân tỉnh được trích 5% số tiền thu được để chi cho công tác tổ chức huy động
nghĩa vụ lao động công ích hàng năm theo hướng dẫn của liên Bộ Lao động -
Thương binh và xã hội - Tài chính. Biên lai thu tiền do Bộ Tài chính thống nhất
quản lý và phát hành.
Điều 4.
- Để sử dụng hợp lý, tiết kiệm lực lượng lao động xã hội và quỹ ngày công lao động
công ích hàng năm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện tốt nghĩa vụ lao động
công ích, hạn chế những ảnh hưởng không tốt đến sản xuất, công tác, học tập của
công dân, cơ quan, xí nghiệp; khi huy động sử dụng lao động theo nghĩa vụ lao động
công ích hàng năm, cơ quan huy động phải chú ý:
1. Tổ chức các đội lao động công
ích chuyên trách hoặc bán chuyên trách của địa phương, đơn vị để làm thay cho
những người có nghĩa vụ lao động công ích mà không trực tiếp đi làm được.
2. Tránh điều động những người
làm nông nghiệp, lâm nghiệp, nghề cá, nghề muối trực tiếp tham gia lao động
công ích vào lúc thời vụ sản xuất khẩn trương.
3. Đối với giáo viên, công nhân
viên và học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề thì huy động trực tiếp đi làm vào thời gian nghỉ hè hoặc thời gian nghỉ giữa
hai kỳ học.
4. Đối với những người đang làm
việc trong các cơ quan, xí nghiệp, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp thì thủ
trưởng và người đại diện cơ quan, đơn vị thoả thuận trước với cơ quan huy động
sở tại để thống nhất hình thức, thời điểm huy động lao động theo nghĩa vụ lao động
công ích hàng năm, tránh ảnh hưởng đến sản xuất, công tác và hoạt động của cơ
quan, đơn vị.
5. Đối với những người có nghề
chuyên môn kỹ thuật như kỹ sư, bác sĩ, thợ kỹ thuật... cần xét bố trí làm những
công việc có thể sử dụng được chuyên môn kỹ thuật của họ.
Điều 5. -
Chỉ được huy động sử dụng lao động theo nghĩa vụ lao động công ích hàng năm làm
những công việc quy định tại điều 6 của Pháp lệnh, cụ thể là:
1. Xây dựng mới, tu bổ đê, kè, cống
bao gồm đê sông, đê biển, đê bảo vệ thành phố, khu công nghiệp.
Xây dựng công trình thuỷ lợi đầu
mối từ kênh cấp 1 trở lên thuộc các công trình đại, trung thuỷ nông.
2. Xây dựng nền đường giao thông
liên huyện, liên tỉnh, gồm cả nền đường bộ và nền đường sắt.
3. Xây dựng một số công trình quốc
phòng gồm nền sân bay, quân cảng, khu căn cứ, đường giao thông quân sự làm gấp
và phục vụ chiến đấu ở nơi có chiến sự xảy ra.
II- HUY ĐỘNG
NGHĨA VỤ LAO ĐỘNG CÔNG ÍCH TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP
Điều 6.-
Thẩm quyền ra lệnh huy động nghĩa vụ lao động công ích trong các trường hợp khẩn
cấp:
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện có quyền ra lệnh huy động lao động cùng với công
cụ lao động, phương tiện vận tải, máy móc, nguyên liệu, vật liệu... của các cơ
quan, xí nghiệp nhà nước, các cơ sở kinh tế tư nhân, tập thể và nhân dân; của
các lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn tỉnh, huyện hoặc có mặt ở địa phương
trong thời gian xảy ra trường hợp khẩn cấp.
Thời gian huy động mỗi đợt không
quá 5 ngày.
2. Trong trường hợp cần phải ngăn
chặn hoặc khắc phục ngay hậu quả thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã được ra lệnh
huy động lao động cùng với công cụ lao động, phương tiện vận tải, vật tư cần
thiết của các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, cơ sở kinh tế tư nhân, tập thể và
nhân dân, của các lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn xã.
Thời gian huy động mỗi đợt không
quá 3 ngày.
Điều 7.
- Khi hết thời hạn huy động khẩn cấp mà công việc chưa hoàn thành cần sử dụng
thêm lao động, thì phải sử dụng các lực lượng lao động khác, không được kéo dài
thời gian huy động khẩn cấp.
Đối với phương tiện vận tải, máy
móc đơn vị sử dụng phải hoàn trả cho chủ phương tiện chậm nhất không quá 1
ngày, kể từ khi hết thời hạn huy động khẩn cấp. Nếu sau thời gian đó chưa hoàn
trả thì những ngày quá hạn đơn vị sử dụng phải đền bù thiệt hại cho chủ phương
tiện. Mức tiền đền bù mỗi ngày bằng 2 lần mức giá trị trung bình mà phương tiện
máy móc đó tạo ra trước lúc huy động.
Điều 8.
- Các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị quân đội có nhu cầu sử dụng lao động theo
nghĩa vụ lao động công ích khẩn cấp phải trực tiếp đề nghị với Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân địa phương sở tại ra lệnh huy động.
Điều 9.
- Việc huy động lao động theo nghĩa vụ lao động công ích trong các trường hợp
khẩn cấp phải cân nhắc kỹ; trường hợp thật cần thiết mới huy động phương tiện,
máy móc, nguyên liệu của các cơ sở hoặc của nhân dân.
Khi huy động phương tiện vận tải,
máy móc, nguyên liệu, vật liệu của các cơ sở, hoặc của nhân dân, đơn vị sử dụng
hoặc cơ quan huy động phải lập biên bản ghi rõ tình trạng của phương tiện, vật
tư, thời gian hoàn trả. Nếu bị mất hoặc hư hỏng thì đơn vị sử dụng đền bù thoả
đáng cho chủ phương tiện, vật tư. Nếu đơn vị sử dụng không đền bù hoặc chủ
phương tiện, vật tư chưa đồng ý mức đền bù thì đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, huyện giải quyết, nếu không nhất trí với quyết định giải quyết của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân thì chủ phương tiện, vật tư có thể khiếu nại với Toà án.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp
có quyền ra lệnh huy động lao động khẩn cấp theo quy định tại điều 17 của Pháp
lệnh và điều 6 của Nghị định này, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết
định của mình.
III- NHIỆM VỤ
VÀ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TRỰC TIẾP THAM GIA LAO ĐỘNG CÔNG ÍCH
Điều 10.
- Người trực tiếp tham gia lao động công ích làm theo chế độ khoán theo định mức
lao động của Nhà nước. Trường hợp không thể định mức được thì làm theo thời
gian.
Điều 11.
- Người trực tiếp tham gia lao động công ích có nhiệm vụ:
1. Hoàn thành khối lượng và chất
lượng được giao.
2. Mang theo dụng cụ lao động
thông thường theo yêu cầu của đơn vị sử dụng và đồ dùng sinh hoạt cá nhân trong
thời gian lao động ở công trường.
3- Chấp hành nội quy, kỷ luật
lao động của công trường.
4. Bảo vệ tài sản của Nhà nước;
của tập thể và của nhân dân.
Điều 12.
- Người trực tiếp tham gia lao động công ích được hưởng quyền lợi như sau:
1. Được trợ cấp
sinh hoạt. Cứ đạt một định mức lao động, khối lượng công việc hoặc một ngày
công thời gian thì người làm lao động phổ thông được trợ cấp một số tiền tương
đương với giá 1 kilôgam gạo; người lao động làm theo nghề chuyên môn kỹ thuật
(mộc, nề, sắt... ) được trợ cấp một số tiền tương đương với giá 1,250 kilôgam đến
1,500 kilôgam gạo. Giá gạo tính theo giá kinh doanh lương thực của Nhà nước ở địa
phương tại thời điểm thanh toán.
Nếu làm lao động công ích trong
các trường hợp khẩn cấp trong phạm vi một ngày thì không được hưởng trợ cấp, nếu
làm việc trên một ngày thì được hưởng trợ cấp sinh hoạt theo quy định đã nói
trên.
2. Những người đi làm lao động
công ích ở xa nhà từ 20 kilômét trở lên thì được cấp tiền cho một lượt đi và một
lượt về, mỗi ngày một số tiền bằng giá 1 kilôgam gạo theo giá kinh doanh lương
thực của Nhà nước ở địa phương, tại thời điểm thanh toán. Nếu phải đi và về bằng
tàu xe thì được thanh toán cả tiền tàu xe.
3. Người trực
tiếp tham gia lao động công ích được khám, chữa bệnh khi bị ốm đau, tai nạn lao
động ở các cơ sở chữa bệnh của Nhà nước. Trường hợp bị tai nạn thành thương tật
được xếp hạng thì được hưởng trợ cấp thương tật một lần hoặc trợ cấp thương tật
hàng tháng theo chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành (nếu người làm lao động nghĩa
vụ công ích không phải là cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước thì mức trợ cấp
một lần hoặc mức trợ cấp hàng tháng được tính trên cơ sở mức tiền lương tối thiểu
do Nhà nước quy định); được chính quyền địa phương hoặc cơ quan, xí nghiệp nơi
cư trú hoặc làm việc bố trí việc làm thích hợp bảo đảm đời sống. Trường hợp bị
chết thì được chi phí chôn cất và thân nhân được hưởng trợ cấp mất người nuôi
dưỡng theo quy định hiện hành của Nhà nước đối với công nhân viên chức.
Người làm nghĩa vụ lao động công
ích có hành động dũng cảm tỏ rõ tinh thần khắc phục khó khăn, nguy hiểm, trong
khi thực hiện nhiệm vụ mà bị thương hoặc hy sinh, nếu được xếp hạng thương tật,
hoặc truy tặng liệt sĩ, thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chính sách đãi ngộ
như thương binh hoặc gia đình liệt sĩ.
4. Người làm
nghĩa vụ lao động công ích được đơn vị sử dụng trang bị bảo hộ lao động theo
quy định hiện hành của Nhà nước; Nếu phải ăn, ở tập trung trên một ngày tại
công trường thì được đơn vị sử dụng bố trí nơi ăn, ở, cung cấp dầu đèn thắp
sáng và nước uống trong thời gian đó.
5. Người làm
thay cho người có nghĩa vụ lao động công ích hàng năm, ngoài số tiền thuê mướn
do hai bên thoả thuận hoặc số tiền công do các đội chuyên trách, bán chuyên
trách trả, còn được hưởng các quyền lợi khác như đã quy định cho người trực tiếp
đi làm nghĩa vụ lao động công ích hàng năm ghi ở các tiết 1, 2, 3, 4 của điều
12 này.
Điều 13.
- Các chi phí trong việc sử dụng lao động công ích quy định tài điều 12 do đơn
vị sử dụng lao động công ích thanh toán và hạch toán vào giá thành công trình.
Riêng chi phí trợ cấp hàng tháng và trợ cấp mất người nuôi dưỡng thì tuỳ theo từng
loại đối tượng do quỹ bảo hiểm xã hội hoặc ngân sách địa phương chi.
Điều 14.
- Phụ nữ tham gia nghĩa vụ lao động công ích trong những ngày hành kinh được
đơn vị sử dụng bố trí làm những công việc phù hợp với sức khoẻ.
IV- TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC NGÀNH, CÁC CẤP
Điều
15. - Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước có trách nhiệm tổng hợp và cân đối kế hoạch
sử dụng lao động công ích hàng năm của các ngành, các địa phương trong phạm vi
cả nước.
Phân bổ chỉ tiêu sử dụng ngày
lao động công ích hàng năm cho các ngành ở trung ương và giao chỉ tiêu đó cho
các địa phương thực hiện.
Điều 16. -
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội có trách nhiệm:
- Chủ trì phối hợp với các Bộ,
ngành có liên quan hướng dẫn chế độ cụ thể đối với người tham gia lao động công
ích.
- Hướng dẫn kiểm tra, thanh tra
việc thực hiện chế độ nghĩa vụ lao động công ích đối với tất cả các ngành, các
cấp trong phạm vi cả nước.
- Tham gia với Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước trong việc xây dựng kế hoạch huy động, sử dụng lao động công ích hàng
năm.
Điều 17.
- Bộ Tài chính có trách nhiệm:
- Hướng dẫn và kiểm tra chế độ cấp
phát và quản lý kinh phí việc sử dụng lao động công ích cho các ngành ở trung
ương và địa phương.
- Hướng dẫn việc quản lý và sử dụng
tiền do người được huy động làm nghĩa vụ lao động công ích nộp thay cho đi làm
lao động trực tiếp; thống nhất quản lý và phát hành biên lai thu tiền.
- Cùng với Bộ Lao động - Thương
binh và xã hội hướng dẫn thi hành các chế độ cụ thể đối với người trực tiếp
tham gia lao động công ích.
Điều 18.
- Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn và chỉ đạo việc tổ chức khám, chữa bệnh, cấp
cứu tai nạn lao động trên các công trường sử dụng lao đọng công ích.
Điều 19.
- Tổng cục thống kê có trách nhiệm nghiên cứu ban hành các biểu mẫu thống kê và
hướng dẫn thực hiện để nắm khả năng ngày công lao động công ích hàng năm, tổng
hợp kết quả việc huy động, sử dụng của các ngành và các địa phương.
Điều 20.
- Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo và thực hiện chế độ nghĩa vụ
lao động công ích hàng năm và khẩn cấp theo đúng nguyên tắc, chính sách, thẩm
quyền đã được quy định; quản lý quỹ ngày công lao động công ích hàng năm của địa
phương mình.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách
nhiệm xét duyệt kế hoạch sử dụng lao động công ích hàng năm của các ngành trong
địa phương; xây dựng kế hoạch huy động, sử dụng lao động công ích hàng năm;
giao chỉ tiêu huy động ngày công lao động cho các huyện thực hiện; kiểm tra việc
huy động, sử dụng lao động công ích của các ngành, các cấp trong địa phương;
hàng năm báo cáo lên Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội.
- Uỷ ban nhân dân huyện căn cứ
chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh để phân bổ chỉ tiêu huy động ngày công lao động cho
các xã, các cơ quan, xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện và chỉ đạo việc thực hiện.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã,
thủ trưởng các cơ quan, xí nghiệp trực tiếp điều động công dân có nghĩa vụ tham
gia lao động công ích hàng năm theo kế hoạch của huyện.
Điều 21.-
Các đơn vị sử dụng lao động công ích có trách nhiệm:
- Chuẩn bị tốt các điều kiện để
tiếp nhận và sử dụng lao động, thực hiện hợp đồng trách nhiệm với các đơn vị
tham gia lao động công ích.
- Tổ chức lao động hợp lý, bảo đảm
sử dụng lao động công ích đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; thực hiện
đúng chế độ bảo hộ lao động và kỹ thuật an toàn lao động; thanh toán đầy đủ, kịp
thời tiền trợ cấp và các chế độ khác theo quy định tại điều 12, 13 của Nghị định
này cho người trực tiếp tham gia lao động công ích.
V- KHEN THƯỞNG,
XỬ PHẠT
Điều
22. - Việc khen thưởng những đơn vị và cá nhân có thành tích trong việc huy
động, quản lý, sử dụng lao động công ích theo điều 21 của Pháp lệnh được thực
hiện theo Điều lệ khen thưởng thành tích thực hiện kế hoạch Nhà nước và các nhiệm
vụ công tác khác quy định tại Nghị định số 53- HĐBT ngày 25-2-1985 của Hội đồng
Bộ trưởng.
Điều 23.
- Tổ chức hoặc cá nhân không thi hành đúng theo Pháp lệnh nghĩa vụ lao động
công ích và Nghị định này thì tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ mà bị xử phạt như sau:
1. Công dân không chấp hành lệnh
huy động, hoặc cố ý trốn tránh thực hiện nghĩa vụ lao động công ích thì bị xử
phạt hành chính theo một trong các hình thức:
- Cảnh cáo và bắt buộc phải thi
hành nghĩa vụ lao động công ích.
- Phạt tiền ở mức gấp 3 lần tiền
công một ngày ở địa phương trên mỗi ngày không làm nghĩa vụ lao động công ích.
Nếu cố tình không thi hành các
quyết định xử phạt nói trên có thể bị truy tố theo điều 208 hoặc điều 209 của Bộ
luật hình sự.
2. Người đã nhận tiền làm thuê
cho người có nghĩa vụ lao động công ích mà không làm thì bị cảnh cáo, bị buộc
phải trả lại số tiền đã nhận. Nếu vi phạm nhiều lần hoặc người nào cố ý làm sai
hoặc cản trở việc thực hiện nghĩa vụ lao động công ích thì có thể bị truy tố
theo điều 157 hoặc điều 209 của Bộ luật hình sự.
3. Người có chức vụ có thẩm quyền
ra quyết định huy động, cán bộ làm công tác điều động, chỉ huy, quản lý và sử dụng
lao động công ích làm trái những quy định về chế độ nghĩa vụ lao động công ích
như huy động quá thời gian hoặc số ngày công quy định; sử dụng quỹ lao động
công ích (bao gồm quỹ ngày công lao động trực tiếp và quỹ bằng tiền) không đúng
mục đích; tham ô, thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra lãng phí sức lao động
và tài sản của Nhà nước, của nhân dân; để xảy ra tai nạn thì tuỳ mức độ mà bị xử
lý theo một trong các hình thức:
- Khiển trách.
- Cảnh cáo.
- Cách chức.
Nếu vi phạm nghiêm trọng thì có
thể bị truy tố theo điều 209 hoặc điều 220, 221 của Bộ luật hình sự.
Điều 24.
- Việc khiếu nại và tố giác của công dân quy định tại điều 23 của Pháp lệnh
nghĩa vụ lao động công ích, thực hiện theo quy định hiện hành về việc xét và giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
VI- ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
Điều 25.-
Các quy định về nghĩa vụ lao động công ích trái với Pháp lệnh nghĩa vụ lao động
công ích và Nghị định này đều bị bãi bỏ.
Nghị định này có hiệu lực thi
hành từ ngày ký.
Điều 26.
- Bộ Lao động - Thương binh và xã hội có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan hướng dẫn thi hành Nghị định này.