CHỦ
TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
392-CT
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 12 năm 1985
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC QUÁN TRIỆT VÀ RA SỨC PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ 8 CỦA
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG (KHOÁ V) VÀ NGHỊ QUYẾT 28 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ GIÁ
- LƯƠNG - TIỀN TRONG CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
Nghị quyết Trung ương 8 giải
quyết vấn đề giá - lương - tiền, khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn
sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hoá, đã
tạo điều kiện hoàn thiện và thực hiện cơ chế quản lý mới trong nền kinh tế quốc
dân nói chung và trong công nghiệp quốc doanh nói riêng được xây dựng theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 6 (khoá V).
Tuy nhiên, qua thực hiện cơ chế
giá - lương - tiền mới, các cơ sở công nghiệp quốc doanh gặp một số khó khăn
như giá thành sản xuất tăng cao, một số loại hàng khó tiêu thụ, Nhà nước giảm
hoặc không còn tích luỹ, một số xí nghiệp bị lỗ.
Những khó khăn này bắt nguồn từ
nền kinh tế của ta còn ở trình độ thấp và còn mất cân đối nặng; sắp xếp và tổ
chức sản xuất - lưu thông, sự phân công giữa sản xuất lưu thông trong khâu tiêu
thụ sản phẩm còn nhiều bất hợp lý; công tác quản lý kinh tế còn yếu kém nhiều
cơ sở sản xuất mới sử dụng từ 40 đến 50% công suất thiết bị và lao động, hao
phí vật chất và lao động cao, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém,
lãng phí và các yếu tố tiêu cực còn nhiều; khả năng tiếp thu của xã hội còn
thấp, giá thị trường cũng còn chịu ảnh hưởng của chế độ bao cấp; trong khi đó
yêu cầu cấp bách là phải xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong giá -
lương - tiền.
Điều đáng chú ý là những khó
khăn trên đây vẫn xảy ra mặc dù theo Nghị quyết 28-NQ-TW của Bộ Chính trị, việc
xoá bỏ bao cấp, xoá bỏ bù lỗ trong nền kinh tế quốc dân, tính đủ chi phí vào
giá thành mới chỉ làm một bước, Nhà nước vẫn phải bù lỗ khá lớn trong giá tư
liệu sản xuất (nhất là tư liệu sản xuất nhập khẩu), cước vận tải và giá một số
hàng tiêu dùng thiết yếu.
Hướng giải quyết những khó khăn
trước mắt chủ yếu là bản thân các cơ sở sản xuất phải phấn đấu kiên cường, phát
huy cao độ tinh thần làm chủ tập thể, chủ động sáng tạo đẩy mạnh sản xuất, cải
tiến quản lý để hạ giá thành, chuyển dần từ lỗ sang hoà vốn rồi tiến lên có
lãi; các ngành, các cấp ra sức phấn đấu khôi phục lại trật tự kinh tế, ổn định
thị trường và giá cả để tạo điều kiện cho các cơ sở thực hiện được kế hoạch cả
về sản lượng và về giá trị, thực hiện được hạch toán kinh tế thực sự và nâng
đần hiệu quả kinh tế.
Theo hướng giải quyết này, Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng đề ra một số chủ trương, biện pháp mà các cơ sở sản
xuất công nghiệp, các tổ chức phục vụ cho sản xuất và các cơ quan quản lý phải
thực hiện như sau:
I. ĐỐI VỚI BẢN THÂN
CÁC CƠ SỞ CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
1. Cơ bản nhất là phải đẩy mạnh
sản xuất phát triển bằng cách chủ động và triệt để khai thác các nguồn khả năng
về năng lượng, nguyên vật liệu để tận dụng năng lực sản xuất hiện có như tận
dụng vật tư tồn kho, phế liệu, liên kết với các tổ chức kinh tế khác để sản
xuất thêm nguyên vật liệu; đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu để tự tạo khả năng
nhập khẩu thêm các loại vật tư mà Nhà nước chưa cân đối đủ; tận dụng vốn có khả
năng vay của nước ngoài để nhập vật tư nguyên liệu cho sản xuất và cố gắng quay
vòng nhiều lần để làm ra nhiều sản phẩm, tăng nhanh doanh số và đạt hiệu quả
cao.
Xí nghiệp phải gắn sản xuất với
nguồn cung ứng vật tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm, xuất phát từ nhu cầu của
xã hội để đặt kế hoạch sản xuất và điều chỉnh kế hoạch; xuất phát từ chính sách
giá mới và theo nguyên tắc kinh doanh xã hội chủ nghĩa để xây dựng phương án
sản xuất, cơ cấu mặt hàng có hiệu quả nhất trong một thời kỳ. Những hàng tuy cần
thiết nhưng nhu cầu thị trường đã được thoả mãn thì chuyển sang sản xuất những
mặt hàng khác mà thị trường đòi hỏi. Những hàng bị lỗ, nếu không phải là những
hàng thiết yếu phải bảo đảm chính sách thì chuyển sang sản suất những mặt hàng
có lãi. Giám đốc xí nghiệp được quyền điều hành sản xuất linh hoạt kịp thời
miễn là phát triển được sản xuất, đáp ứng đúng nhu cầu xã hội, bảo đảm được
nghĩa vụ Nhà nước giao và kinh doanh có hiệu quả.
2. Phấn đấu hạ giá thành sản
xuất đến mức hợp lý hơn, nâng cao hiệu quả kinh tế là nhiệm vụ cấp bách hiện
nay của các xí nghiệp.
Nếu khắc phục được những bất hợp
lý và những yếu kém trong tổ chức sản xuất, trong quản lý và nếu lập lại được
trật tự kinh tế, ổn định được thị trường và giá cả thì khả năng giảm giá thành
rất lớn.
a) Trước hết phải khẩn trương
sắp xếp và tổ chức lại sản suất. Những nguyên tắc, chủ trương, biện pháp được
đề ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Nghị quyết số 156-HĐBT ngày 30-11-1984, Chỉ thị số 120-HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng và Thông tư số 34-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về vấn đề này vẫn
phù hợp và phải được tiếp tục thực hiện
Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ
Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ, các địa phương, các cơ sở phải chủ động tiến hành
việc sắp xếp tổ chức lại sản xuất.
Liên hiệp các xí nghiệp căn cứ
vào nguồn vật tư, phương án sản xuất và cơ cấu mặt hàng của toàn ngành, vào
trang bị kỹ thuật của từng xí nghiệp thành viên để phân bố kế hoạch giữa các xí
nghiệp trong liên hiệp, giữa xí nghiệp trung ương và xí nghiệp địa phương, giữa
xí nghiệp quốc doanh và tiểu thủ công nghiệp, tổ chức hợp lý sự hiệp tác giữa các
xí nghiệp thành viên trong việc xử lý các công đoạn sản xuất nhằm phát huy thế
mạnh của mỗi cơ sở, làm ra sản phẩm có chất lượng cao nhất, giá thành thấp nhất.
Các xí nghiệp xuất phát từ
phương án sản xuất và cơ cấu mặt hàng đã được lựa chọn để chủ động tổ chức lại
sản xuất cho thích ứng và có hiệu quả cao nhất.
Trong kế hoạch 1986 của các xí
nghiệp phải đề ra nhiệm vụ cụ thể về sắp xếp và tổ chức lại sản xuất; đồng thời
căn cứ vào kết quả có thể đạt được, mà xây dựng các chỉ tiêu sản xuất kinh
doanh phù hợp.
b) Tăng cường và cải tiến quản
lý, ra sức phấn đấu để đạt những chi phí sản xuất hợp lý và hiệu quả kinh tế
cao.
- Trước hết phải soát lại các
mức tiêu hao vật chất và lao động, phân tích sâu sắc những nguyên nhân đã làm
tăng mức tiêu hao trong thời gian qua, phát động công nhân, viên chức xây dựng
những định mức tiêu hao hợp lý sát thực tế và ra sức phấn đấu thực hiện các
định mức đó.
- Tính đủ số thiết bị cần thiết
cho việc thực hiện kế hoạch sản xuất trong năm, số không cần dùng thì xin
chuyển nhượng cho cơ sở khác có nhu cầu, số chưa cần dùng đến ngay thì xin niêm
cất để khỏi phải chịu khấu hao, thiết bị phế thải phải thanh lý sớm.
Triệt để tận dụng công suất các
tài sản cố định được đưa vào sử dụng. Nếu vì thiếu nguyên liệu mà dôi công suất
thì xí nghiệp được phép làm gia công cho các tổ chức kinh tế khác.
Xí nghiệp phải thực hiện đúng
chế độ sửa chữa lớn để tăng số ngày giờ hoạt động của thiết bị và được tính vào
giá thành đủ chi phí sửa chữa lớn. Bằng lợi ích vật chất thích đáng, khuyến
khích công nhân, viên chức, xí nghiệp tự chế tạo phụ tùng thay thế, tự khôi
phục thiết bị hỏng, tự nghiên cứu cải tiến thiết bị như một số xí nghiệp đã làm
có kết quả tốt.
- Tính chi phí về nguyên vật
liệu, nhiên liệu, động lực trên cơ sở các định mức tiêu hao trung bình tiên
tiến; xác định rõ định mức phát sinh phế liệu và phải thu hồi phế liệu.
- Chi phí tiền lương phải tính
trên cơ sở sắp xếp lại lao động để có biên chế hợp lý, bảo đảm ngày công, giờ
công hữu ích và trên cơ sở chính sách lương mới và các khoản phụ cấp, trợ cấp,
bù giá được Nhà nước quy định.
Thực hiện rộng rãi chế độ làm
khoán và làm theo hợp đồng, gắn thu nhập thực tế với kết quả lao động hữu ích,
tăng thu nhập cho những người có tay nghề và năng suất cao, khắc phục những
hiên tượng làm giảm năng suất lao động như chuẩn bị sản xuất không chu đáo để
người chờ việc, giao ca kíp chiếm nhiều thời gian lao động, đến muộn về sớm,
vừa làm vừa chơi, làm việc tắc trách không có hiệu quả, không chấp hành đúng kỷ
luật lao động v.v... Những người chây lười đã được giáo dục mà vẫn không sửa
chữa thì kiên quyết cho thôi việc.
Sau khi đã triệt để khai thác
mọi khả năng tận dụng công suất thiết bị để tận dụng lao động, nếu vẫn còn số
lao động dôi ra thì xử lý như quy định trong Quyết định số 285-HĐBT ngày
23-12-1985 của Hội đồng Bộ trưởng.
- Tính các chi phí quản lý đúng
chế độ quy định, Bộ Tài chính sửa lại ngay các chế độ không phù hợp với chính
sách giá và lương mới. Kiên quyết chấm dứt việc chi tiêu về quà biếu, đăng cai
hội nghị và gánh những chi phí hành chính - sự nghiệp cho cấp trên, liên hoan,
chiêu đãi, và những chi tiêu xa hoa lãng phí khác.
Xí nghiệp phải sử dụng vốn triệt
để tiết kiệm và có hiệu quả, giải quyết hàng tồn kho quá mức, xử lý vật tư ứ
đọng, thu hồi vốn bị chiếm dụng, tăng vòng quay vốn để giảm bớt số vốn phải vay
và số lãi phải trả.
c) Các xí nghiệp phải đẩy mạnh
việc chu chuyển vốn trong sản xuất - kinh doanh để nâng cao hiệu quả.
Đối với một số mặt hàng nếu do
ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, cải tiến quản lý hoặc do những điều kiện
sản xuất ở từng địa phương mà hạ được giá thành thì có thể bán sản phẩm thấp
hơn giá chỉ đạo chung của Nhà nước để đẩy mạnh tiêu thụ, luân chuyển vốn nhanh,
mở rộng sản xuất, nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan vật giá có thẩm quyền.
Đối với những trường hợp sản
xuất ngoài chỉ tiêu pháp lệnh mà giá thành còn cao nhưng có khách hàng chấp
nhận tiêu thụ thì xí nghiệp được bán theo giá thoả thuận cao hơn giá chỉ đạo
chung của Nhà nước, nhưng phải phấn đấu hạ giá thành để sớm thực hiện giá chỉ
đạo. Trường hợp giá cao khó tiêu thụ thì điều chỉnh giá bán xuống - chịu lỗ để
chu chuyển vốn nhanh, không nên để khê đọng vốn quá lâu.
Trường hợp chưa có giá chỉ đạo
của Nhà nước thì giữa bên sản xuất và bên tiêu thụ được phép giao nhận hàng và
thanh toán theo giá thoả thuận.
d) Đảng uỷ, công đoàn, các tổ
chức thanh niên, phụ nữ của xí nghiệp phải cùng với Giám đốc xí nghiệp bám sát
các tổ đội sản xuất, động viên, hướng dẫn, giúp đỡ, kịp thời giải quyết khó
khăn vướng mắc trên các mặt sản suất, đời sống để toàn thể công nhân, viên chức
xí nghiệp phấn đấu bảo đảm các yêu cầu kể trên trong toàn bộ quá trình sản xuất
của xí nghiệp.
II. CHẤN CHỈNH LƯU THÔNG Ở CẢ
HAI KHÂU CUNG ỨNG VẬT TƯ CHO SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM, XOÁ BỎ NHỮNG KHÂU
TRUNG GIAN KHÔNG CẦN THIẾT
1. Đối với tư liệu sản xuất.
Những hộ tiêu thụ lớn (như các
nhà máy điện, các nhà máy xi-măng đối với than...) có thể nhận thẳng từ cơ sở
sản xuất.
Những xí nghiệp có nhu cầu nhỏ
thì được cung ứng qua các tổ chức cung ứng vật tư, được ký hợp đồng mua và nhận
vật tư trực tiếp từ các tổ chức này theo nguyên tắc chỉ qua một khâu trung
gian. Những tổ chức cung tiêu của Bộ mà thực chất chỉ là những khâu trung gian
không cần thiết thì bỏ.
Đối với nguyên liệu do kinh tế
tập thể, kinh tế cá thể và kinh tế gia đình sản xuất thì mua qua hợp đồng ký
trực tiếp với các cơ sở sản xuất, không mua qua tư thương trung gian.
Xoá bỏ các khoản thu do các ngành,
các địa phương tự đặt ra không đúng luật lệ, chế độ của Nhà nước làm tăng bất
hợp lý giá nguyên vật liệu đưa vào sản xuất.
2. Đối với hàng tiêu dùng.
Chuyển dần sang phương thức các
công ty bán lẻ, các cửa hàng bán lẻ lớn được nhận hàng trực tiếp từ các xí
nghiệp sản xuất theo kế hoạch phân phối của ngành nội thương, không phải qua
khâu thương nghiệp bán buôn cấp I hoặc cấp II. áp dụng trước tiên cho các cơ sở
bán lẻ lớn ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà
Nẵng...
Trường hợp còn phải qua thương
nghiệp bán buôn thì hệ thống thương nghiệp (bao gồm bán buôn và bán lẻ) chỉ
được hưởng một khoản chiết khấu (hoặc thặng số) định mức cho toàn ngành, ngành
thương nghiệp sẽ phân bổ chiết khấu (hoặc thặng số) đó cho mỗi khâu trong
ngành, không được vượt định mức đã duyệt.
Bộ Nội thương hướng dẫn cụ thể
việc này.
III. CÁC NGÀNH, CÁC CẤP PHẢI
TÍCH CỰC HỖ TRỢ VÀ PHỤC VỤ CHO CÁC XÍ NGHIỆP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT, TĂNG CƯỜNG
HẠCH TOÁN KINH TẾ, PHẤN ĐẤU GIẢM GIÁ THÀNH
Cụ thể là:
1. Tăng cường quản lý thị trường
nội địa.
a) Loại trừ việc đầu cơ buôn bán
các loại vật tư (kể cả phế liệu) cần thiết cho công nghiệp, đẩy giá thị trường
lên cao.
Đối với nhu cầu của tiểu thủ
công nghiệp, phải có sự hướng dẫn về giá mua nguyên vật liệu và giá bán sản
phẩm kết hợp với việc thu thuế nhằm ngăn ngừa việc đẩy giá lên để tranh mua với
quốc doanh.
b) Thương nghiệp quốc doanh và
hợp tác xã mua bán mua hàng của công nghiệp quốc doanh và của các thành phần
kinh tế khác phải kiểm tra chặt chẽ chất lượng và giá cả, không chạy theo doanh
số và ham rẻ mà mua phải hàng xấu, hàng giả, tiếp tay cho những kẻ làm ăn gian
dối.
c) Tiếp tục đẩy mạnh cải tạo
thương nghiệp tư nhân theo hướng chính là chuyển sang sản xuất và dịch vụ.
2. Tăng cường quản lý xuất nhập
khẩu để bảo vệ sản xuất nội địa.
a) Quản lý chặt chẽ việc nhập
hàng tiêu dùng. Những hàng trong nước đã sản xuất được thì không cho nhập hoặc
hạn chế nhập, đánh thuế nhập khẩu. Bộ Ngoại thương trình Hội đồng Bộ trưởng quy
định bổ sung danh mục những mặt hàng này.
b) Đối với hàng được phép nhập
thì phải chịu thuế nhập khẩu. Bộ Tài chính cùng Bộ Ngoại thương sớm trình Hội
đồng Bộ trưởng chính sách thuế xuất nhập khẩu.
c) Chấm dứt việc các cơ sở sản
xuất kinh doanh tự định giá mua hàng xuất và giá bán hàng nhập rồi tự lấy lãi
hàng nhập bù lỗ hàng xuất, gây rối loạn giá cả thị trường trong nước, gây khó
khăn cho sản xuất và hạch toán kinh tế của công nghiệp.
d) Bộ Ngoại thương, Ngân hàng
Ngoại thương và các Bộ quản lý sản xuất thực hiện ngay quy định trong Nghị
quyết số 156-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng cho "các xí nghiệp sản xuất mặt
hàng xuất khẩu với số lượng lớn, có kế hoạch ổn định và được Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng cho phép, được giao dịch trực tiếp với thị trường ngoài nước...".
3. Tăng cường quản lý Nhà nước,
sớm ổn định tình hình và lập lại trật tự kinh tế theo chính sách giá - lương -
tiền mới.
a) Các ngành, các cấp phối hợp
nhanh chóng trấn áp những thủ đoạn phá hoại của địch, chống đầu cơ lũng đoạn
gây rối loạn thị trường và khó khăn cho sản xuất công nghiệp.
b) Các tổ chức có nhiệm vụ phục
vụ cho sản xuất công nghiệp, như điện, vật tư, vận tải, ngân hàng, thương
nghiệp... sắp xếp tổ chức lại, bỏ trung gian, sửa đổi phương thức kinh doanh,
vươn lên thực hiện đúng các hợp đồng kinh tế đã ký với các xí nghiệp công
nghiệp. Dựa trên chính sách giá - lương mới và những hình thức thưởng phạt đúng
đắn mà giúp đỡ các cơ sở khắc phục các hiện tượng tiêu cực.
c) Các cơ quan quản lý tổng hợp
của Nhà nước như tài chính, ngân hàng, vật giá, lao động... cố gắng trong quý I
năm 1986 giải quyết xong cho xí nghiệp các vấn đề sau đây:
- Xác định giá trị tài sản cố
định,
- Cho xí nghiệp vay vốn lưu động
đủ để bảo đảm hoạt động sản xuất - kinh doanh theo giá mới, lương mới. Giúp các
cơ sở thanh toán các khoản vốn bị chiếm dụng.
- Xử lý những mắc mứu trong việc
giao nhận sản phẩm và hàng tồn kho ứ đọng; trường hợp chưa có giá chính thức
thì giao nhận theo giá tạm tính.
- Công bố giá bán buôn các loại
vật tư, giá bán buôn các loại sản phẩm thiết yếu, giá giao hàng cho xuất khẩu
theo chính sách giá mới, để các cơ sở công nghiệp có đủ giá để tính giá thành
và xây dựng kế hoạch giá trị theo giá mới cho năm 1986.
- Xác định đơn giá tiền lương
mới cho một đơn vị sản phẩm, làm cơ sở cho việc thực hiện rộng rãi chế độ làm
khoán từ đầu 1986.
IV. XOÁ BỎ CƠ CHẾ TẬP TRUNG
QUAN LIÊU BAO CẤP, CHUYỂN SANG HẠCH TOÁN KINH TẾ, KINH DOANH XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRÊN CƠ SỞ KẾ HOẠCH HOÁ TRONG CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH TRONG TÌNH HÌNH PHỨC TẠP
HIỆN NAY LÀ MỘT CUỘC ĐẤU TRANH PHỨC TẠP
Để đạt được những chuyển biến
tích cực, trước hết phải có lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm các quan điểm
của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 8 được quán triệt sâu sắc đến từng xí
nghiệp, từng công nhân, viên chức, thể hiện thành quyết tâm và những chương
trình hành động cụ thể để xoá bỏ quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế mới; kiểm
tra việc chấp hành chính sách, phát hiện các vấn đề cần bổ sung sửa đổi chính
sách; chăm lo tổ chức và cán bộ.
Các tổ chức quần chúng, công
đoàn, thanh niên động viên giáo dục công nhân, viên chức phát huy cao độ ý thức
làm chủ tập thể, đặt lợi ích chung của sản xuất và của xí nghiệp lên trên lợi
ích riêng, ra sức phấn đấu khắc phục khó khăn để đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm.
Các cơ quan Nhà nước ban hành
kịp thời các quy định cụ thể, tăng cường công tác điều hành và thanh tra để bảo
đảm thực hiện chính sách giá - lương - tiền mới và cơ chế quản lý mới.
Giám đốc xí nghiệp và bộ máy
điều hành xí nghiệp phải nắm vững mục tiêu của kế hoạch và yêu cầu của chính
sách, phát huy mạnh mẽ tinh thần chủ động sáng tạo, đấu tranh kiên cường khắc
phục khó khăn để điều hành sản xuất đạt mục tiêu năng suất - chất lượng - hiệu
quả cao nhất. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương nghiên cứu trình Hội
đồng Bộ trưởng chế độ gắn trách nhiệm và quyền lợi của bộ máy điều hành xí
nghiệp với kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Chỉ thị này có hiệu lực kể từ
ngày ký. Những nội dung của Nghị quyết số 156-HĐBT không trái với Chỉ thị này
vẫn có hiệu lực thi hành.
Riêng đối với những xí nghiệp
được Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định chọn làm đơn vị thí điểm về mở rộng
quyền chủ động của cơ sở trong sản xuất kinh doanh thì được áp dụng những quy
định của tiểu ban chỉ đạo trong khi làm thí điểm.