ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------
|
Số:
30/CT-UB
|
TP.Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 08 năm 1980
|
CHỈ THỊ
VỀ
QUẢN LÝ CHẶT CHẼ BIÊN CHẾ LAO ĐỘNG VÀ QUỸ TIỀN LƯƠNG THUỘC KHU VỰC NHÀ NƯỚC CỦA
THÀNH PHỐ
(Thi hành chỉ thị 184/TTg ngày 6-6-1980 của Thủ tướng Chính phủ)
Để chấp hành nghiêm chỉnh chỉ
thị số 184/TTg ngày 6-6-1980 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý chặt chẽ biên
chế các cơ quan Nhà nước, Ủy ban Nhân dân thành phố chỉ thị cho các ngành, các
cấp thực hiện những những nhiệm vụ cấp bách về quản lý lao động, tiền lương của
thành phố trong thời gian sắp tới như sau:
1) Đối với khu vực sản xuất
kinh doanh:
– Giảm tỷ lệ lao động gián tiếp
sản xuất, bảo đảm tỷ lệ này không vượt 12% (đối với các đơn vị sản xuất, xây
dựng, vận tải) và không vượt 8% đối với các đơn vị kinh doanh, (thương nghiệp,
vật tư, ngoại thương, du lịch, cung ứng tàu biển). Tổng số lao động gián tiếp
phải tính từ bộ máy (phòng, ban) của Liên hiệp các xí nghiệp, xí nghiệp liên
hợp, công ty đến các xí nghiệp, xưởng cửa hàng, trạm, trại trực thuộc.
– Thực hiện đúng chỉ tiêu kế
hoạch lao động và quỹ tiền lương năm 1980 do Ủy ban Nhân dân thành phố giao cho
các sở, ngành và quận, huyện.
– Các sở, ngành, Ủy ban Nhân dân
quận, huyện chỉ đạo các đơn vị kinh tế trực thuộc xây dựng kế hoạch mở rộng
thêm sản xuất kinh doanh ngoài kế hoạch pháp lệnh (sản xuất phụ, chuyển mặt
hàng phù hợp với khả nawg tự giải quyết vật tư, nguyên liệu và ký kết hợp đồng
gia công với các khách hàng, mở rộng thu mua và bán lại theo giá bỏa đảm kinh
doanh…). Nếu sản xuất, kinh doanh ngoài kế hoạch mà bảo đảm bù đắp lại được chi
phí sản xuất, chi phí lưu thông mà đơn vị sản xuất kinh doanh được phép sử dụng
quỹ tiền lương đã hạch toán vào giá thành hoặc phí lưu thông của phần sản xuất
kinh doanh ngoài kế hoạch pháp lệnh để trả lương hằng tháng cho người lao động
theo nguyên tắc kết hợp đúng đắn ba lợi ích (của Nhà nước, tập thể và cá nhân
người lao động). Số lao động tham gia sản xuất – kinh doanh ngoài kế hoạch pháp
lệnh được hưởng đầy đủ các quyền lợi vật chất (được cung cấp lương thực, thực
phẩm, nhu yếu phẩm, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động v.v..) và các quyền lợi về
chính trị, văn hóa theo chính sách, chế độ của Nhà nước.
Ngân hàng thành phố có nhiệm vụ
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở kinh tế được rút quỹ tiền lương thực chi
để đáp ứng yêu cầu sản xuất – kinh doanh ngoài kế hoạch pháp lệnh nêu trên.
2) Đối với khu vực sự nghiệp:
– Chỉ tiêu kế hoạch lao động
tiền lương năm 1980 không tăng và có giảm cho hợp lý với khối lượng công tác
thiết thực và giảm đúng theo mức chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1980 đối với
các ngành: phục vụ công cộng và phục vụ sinh hoạt (Công viên cây xanh, vỉa hè,
chiếu sáng, vệ sinh, cống rãnh thoát nước, phục vụ mai táng, quản lý nhà);
thương binh xã hội; thể dục thể thao; văn hóa nghệ thuật, thông tin, truyền
thanh; khoa học và phục vụ khoa học.
– Đối với ngành y tế (các bệnh
viện, phóng khám), ngành giáo dục (các trường mẫu giáo, phổ thông, trung cấp,
nghiệp vụ), giữ trẻ, điều chỉ tiêu kế hoạch 1980 tương ứng với điều kiện cho
phép về xây dựng thêm bệnh viện, phóng khám, trường học, nhà trẻ, tăng thêm
giường bệnh, lớp học, chỗ giữ trẻ, và có nguồn cán bộ nghiệp vụ đã thông qua
đào tạo (bác sĩ, y sĩ, y tá, giáo viên, cô nuôi dạy trẻ) và khớp với chỉ tiêu
kế hoạch Nhà nước năm 1980. Đối với kế hoạch đào tạo trnng cấp, sơ cấp và công
nhân kỹ thuật phải tính toán sát với yêu cầu thiết thực, ra trường được sử dụng
ngay đúng ngành nghề. Giao chỉ tiêu lao động cho các ngành này theo đúng tiêu
chuẩn định mức biên chế Nhà nước quy định.
3) Đối với khu vực quản lý
Nhà nước:
– Tạm hoãn việc thành lập mới
các phòng, ban ở cơ quan sở, ban, ngành thành phố và ở quận, huyện. Có yêu cầu
công tác thì giao thêm nhiệm vụ cho các phòng, ban sẵn có. Nếu xét thấy hết sức
cần thiết thì lập tổ hoặc bộ phận công tác chuyên trách trực thuộc với lãnh đạo
hoặc ghép vào phòng, ban nào có quan hệ công tác nhiều nhất.
– Từ nay đến cuối năm 1980, giảm
biên chế và quỹ tiền lương khu vực quản lý Nhà nước khớp với chỉ tiêu Hội đồng
Chính phủ giao cho thành phố. Đến kế hoạch năm 1981 phấn đấu giảm biên chế để
bảo đảm thực hiện đúng tiêu chuẩn định mức do Hội đồng Chính phủ quy định.
4) Đối với các tổ chức mà quỹ
lương do nguồn vốn và kinh phí khác đài thọ:
– Soát xét lại biên chế các cwo
quan làm công tác cải tạo công thương nghiệp và cải tạo nông nghiệp, điều chỉnh
chỉ tiêu kế hoạch 1980, theo hướng giảm biên chế cho thật tinh gọn, trọng chất
hơn lượng.
– Đối với biên chế lao động của
Ban Kinh tế mới thành phố, quận, huyện, trước mắt tạm giữ nguyên chỉ tiêu kế
hoạch 1980 về lao động và quỹ tiền lương Ủy ban Nhân dân thành phố đã giao. Kế
hoạch 1981 sẽ giảm chỉ tiêu biên chế hành chính 10 -15% từ cấp thành phố đến
quận, huyện; các loại biên chế khác cũng tính toán lại cho thích hợp theo tinh
thần tiếp tục tinh giản tổ chức, giảm nhẹ biên chế hành chính và gián tiếp.
– Đối với Lực lương Thanh niên
Xung phong, hướng sắp tới là phát triển lực lượng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
khai hoang xây dựng mới của thành phố và của các ngành Trung ương ở các tỉnh
miền Đông. Cần soát xét lại biên chế, bộ khung cán bộ cho hợp lý trên nguyên
tắc tinh giản. Lực lượng Thanh niên Xung phong hạch toán lấy thu bù chi, tiến
tới hạch toán kinh tế toàn diện vào năm 1981.
– Đối với các Hội quần chúng,
Công ty dịch vụ kỹ thuật, Trung tâm nghiên cứu dịch thuật và các đơn vị sự
nghiệp kiến thiết kinh tế khác đều phải tinh giản một cách thích hợp.
– Các tổ chức kinh tế tập thể do
kinh phí ngành đài thọ (trích % từ hợp tác xã, tổ hợp... lên) như Liên hiệp xã
tiểu thủ công nghiệp thành phố và quận, huyện. Ban quản lý Hợp tác xã tiêu thụ
- mua bán thành phố và quận, huyện v.v… Trường hợp mức trích % không đủ thì
ngân sách thành phố trợ cấp thêm. Ủy nhiệm cho Ban Tổ chức chánh quyền xét ấn
định mức biên chế tối đa và quỹ tiền lương hàng năm bảo đảm mức tương quan
chung của thành phố và trên nguyên tắc tinh giản tổ chức, giảm nhẹ biên chế
hành chính, gián tiếp. Ủy nhiệm cho Sở Tài chánh xét ấn định mức trợ cấp, nếu
xét cần.
5) Một số vấn đề áp dụng
chung cho tất cả các tổ chức thuộc thành phố:
– Tạm hoãn việc tuyển dụng người
mới ngoài xã hội vào các cơ quan hành chính và sự nghiệp (kể cả bộ máy hành
chính gián tiếp trong các đơn vị sản xuất kinh doanh). Nơi nào thiếu biên chế
hoặc đối với cơ quan mới thành lập sẽ điều chỉnh từ nơi thừa sang nơi thiếu.
Đối với các đơn vị sản xuất kinh
doanh còn thiếu lao động thì trước hết cũng giải quyết bằng cách điều chỉnh từ
nơi thừa sang nơi thiếu; sau khi thực hiện điều chỉnh nhưng vẫn chưa đáp ứng
yêu cầu sản xuất – kinh doanh thì Sở lao động có trách nhiệm xem xét và cho
phép tuyển lao động. (Việc xét duyệt cho phép tuyển dụng phải làm thật chặt
chẽ).
Do yêu cầu cần thiết, các đơn vị
sản xuất kinh doanh, các cơ quan nghiên cứu thử nghiệm khoa học kỹ thuật, trong
phạm vi chỉ tiêu kế hoạch biên chế lao động và quỹ tiền lương, được tuyển trí
thức tại chỗ có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước vào các công tác thích
hợp với trình độ khả năng, nghề nghiệp, tuyển những kỹ thuật viên lành nghề,
công nhân kỹ thuật lành nghề mà đơn vị đó yêu cầu.
– Đối với số lao động dôi ra (đã
điều chỉnh sắp xếp từ nơi thừa sang nơi thiếu mà vẫn còn dôi ra) so với chỉ
tiêu điều chỉnh kế hoạch 1980, các ngành, các quận, huyện, các đơn vị tự tổ
chức đưa đi sản xuất nông lâm nghiệp hoặc sản xuất tự túc, hoặc tổ chức sản
xuất ngoài kế hoạch pháp lệnh và tiếp tục đài thọ lương từ 3 tháng đến 6 tháng
(theo 1 quỹ lương riêng) trong lúc công việc lao động sản xuất mới chưa thu nhập
được để lấy thu bù chi.
– Trong diện dôi ra có số người
còn đang hợp đồng, tạm tuyển thì giải quyết theo các hướng: số còn trẻ chưa
được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ gởi đi đào tạo dài hạn các ngành nghề thích
hợp mà thành phố có yêu cầu, theo chính sách chế độ đã đào tạo hiện hành của
Nhà nước; giáo dục động viên số còn đang tuổi đi nghĩa vụ quân sự, xung vào lực
lượng thanh niên xung phong, chuyển bổ sung lực lượng lao động cho các nông
trường quốc doanh, khai thác lâm sản, khai hoang xây dựng khu kinh tế mới; số
còn lại nghỉ việc để anh chị em này trở về địa phương tham gia lao động sản
xuất theo sự sắp xếp công ăn việc làm của chính quyền phường, xã, quận, huyện.
– Tạm hoãn việc xin hoặc tiếp
nhận số cán bộ công nhân viên ở các tỉnh, thành phố khác và ở cơ quan Trung
ương vào biên chế lao dộng của thành phố (loại trừ trường hợp cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật nghiệp vụ do Ban Bí thư Trung ương
Đảng, Hội đồng Chánh phủ, các Bộ, Tổng cục điều động tăng cường cho thành phố).
Hết sức hạn chế việc tiếp nhận bộ đội chuyển ngành, chỉ tiếp nhận trong những
trường hợp hết sức cần thiết cho yêu cầu công tác.
– Tạm hoãn chưa tiếp nhận học
sinh trung cấp và sơ cấp chuyên nghiệp từ các trường của các ngành Trung ương
về thành phố. Thành phố tự đào tạo lấy theo yêu cầu thiết thực của địa phương.
Chỉ tiếp nhận học sinh tốt nghiệp đại học do các ngành Trung ương phân phối về
theo yêu cầu thiết thực của thành phố.
– Về phân phối học sinh tốt
nghiệp ra trường: căn cứ vào yêu cầu sản xuất và công tác mà bố trí sử dụng
đúng ngành nghề đào tạo; tất cả học sinh tốt nghiệp đại học và trung học chuyên
nghiệp đều phải được phân phối về các cơ sở sản xuất kinh doanh, sự nghiệp của
Nhà nước và các hợp tác xã nông lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, không
được bố trí ngay về bộ máy cơ quan sở, ban, ngành thành phố. Đối với những
ngành có thừa lao động, không thể bố trí hết số học sinh trung cấp, sơ cấp do
ngành đào tạo thì báo cho Ban Tổ chức chánh quyền và Sở Lao động để điều phối
cho các ngành khác và quận, huyện. Trường hợp không sử dụng hết sẽ cho về tham
gia lao động ở các hợp tác xã, tổ hợp, tập đoàn sản xuất…
– Số cán bộ công nhân viên chức
đã đến tuổi hưu trí theo chính sách chế độ, thì tiến hành làm các thủ tục cho
các đồng chí được nghỉ hưu theo quy định hiện hành của Nhà nước.
– Số cán bộ công nhân viên chức
đau bệnh, kém sức, mất sực thì giải quyết cho đi trị bệnh, dưỡng bệnh; sau khi
phục hồi sức khỏe, bố trí công tác phù hợp với sức khỏe hoặc cho nghỉ dài hạn
vì đau bệnh, mất sức theo quy đinh hiện hành của Nhà nước về chế độ bảo hiểm xã
hội.
– Đối với số cán bộ công nhân
viên lâu nay nghỉ chờ việc hoặc nghỉ việc nhưng vẫn lãnh lương hàng tháng, các
ngành các quận, huyện, các đơn vị kinh tế và sự nghiệp phải soát xét lại, giải
quyết cho dứt điểm hoặc bố trí công tác lại, hoặc cho nghỉ hưu, nghỉ mất sức
theo chế độ bảo hiểm xã hội.
6) Phân công việc tổ chức
thực hiện:
– Thủ trưởng các sở, ban, ngành,
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận, huyện chịu trách nhiệm vạch ra kế hoạch và tổ
chức thực hiện chỉ thị này của Ủy ban Nhân dân thành phố một cách nghiêm chỉnh
và khẩn trương theo nội dung chính sau đây:
– Soát xét lại các tổ chức thực
hiện có, đề xuất phương án tổ chức lại cho phù hợp với nhiệm vụ được giao, giảm
dần đầu mối trung gian. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ
trách nhiệm cho từng tổ chức, từng người.
– Vạch các phương án sản xuất
kinh doanh ngoài chỉ tiêu kế hoạch thành phố giao theo phương thức “lấy thu bù
chi” nhằm sử dụng cho hết số lao động dôi ra của các đơn vị trực thuộc.
– Điều chỉnh bố trí lại hợp lý
đội ngũ cán bộ phù hợp trình độ năng lực theo hướng ổn định lâu dài và xúc tiến
việc kiện toàn cơ sở, phường xã, ngành ở quận, huyện. Đồng thời điều phối và
giải quyết số lao động dôi ra theo tinh thần chỉ thị này, bảo đảm thực hiện
nghiêm túc chỉ tiêu lao động và quỹ tiền lương được Ủy ban Nhân dân thành phố
giao năm 1980.
– Báo cho Ban Tổ chức chánh
quyền và Sở Lao động biết số lao động trong biên chế chính thức dôi ra và số
học sinh sẽ ra trường trong năm 1980 mà ngành và địa phương không tự giải quyết
được để có kế hoạch điều động cho các nhu cầu khác.
– Ủy ban Kế hoạch thành phố tổng
hợp và cân đối trình Ủy ban Nhân dân thành phố xét duyệt điều chỉnh chỉ tiêu
lao động và quỹ tiền lương chính thức năm 1980 cho các ngành và quận, huyện;
trong đó có chỉ tiêu lao động tiền lương thuộc phần sản xuất – kinh doanh ngoài
kế hoạch pháp lệnh để làm căn cứ cho các ngành ngân hàng, lương thực, thương
nghiệp giải quyết việc cho vay vốn, rút tiền mặt trả lương, phân phối lương
thực và nhu yếu phẩm.
– Sở Lao động có trách nhiệm
quản lý chặt chẽ việc tuyển dụng lao động mới, hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc các
ngành, các cấp thực hiện đúng tỷ lệ lao động gián tiếp sản xuất đã quy định cho
các đơn vị sản xuất kinh doanh (phối hợp với Ban Tổ chức chánh quyền) và chấp
hành nghiêm túc chế độ trả lương cho lao động ngừng việc, nghỉ việc, chờ việc
theo quy định của Nhà nước; tổ chức tốt việc điều phối lao động dôi ra ở khu
vực sản xuất mà các ngành, các cấp không tự giải quyết được.
– Ban Tổ chức chánh quyền thành
phố chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các ngành, các cấp thực hiện
đúng chỉ tiêu biên chế lao động và quỹ tiền lương của khu vực không sản xuất
vật chất mà Ủy ban Nhân dân thành phố đã giao; cùng với các sở, ngành, Ủy ban
Nhân dân quận, huyện nghiên cứu trình Ủy ban Nhân dân thành phố quyết định cải
tiến tổ chức bộ máy của các ngành, các quận, huyện, giảm bớt đầu mối trung gian
và triển khai việc phân công phân cấp cho quận, huyện, phường, xã; nắm lại số
học sinh chuyên nghiệp của thành phố sẽ ra trường trong năm 1980 và 1981 để có
kế hoạch phân phối sử dụng một cách hợp lý; kiểm tra việc thực hiện chủ trương
giảm tỷ lệ lao động gián tiếp sản xuất ở các đon vị sản xuất, kinh doanh (phối
hợp với Sở Lao động) và giảm tỷ lệ biên chế hành chánh ở các cơ quan sự nghiệp;
tổ chức việc điều phối số lao động dôi ra giữa các cơ quan thuộc khu vực không
sản xuất vật chất, phối hợp với Sở Lao động điều phối lao động từ khu vực không
sản xuất vật chất sang khu vực sản xuất vật chất, Ban tổ chức chánh quyền cần
hướng dẫn các ngành, các cấp triển khai thực hiện nghị định số 217/CP ngày
8-6-1979 của Hội đồng Chính phủ quy định chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật,
chế độ bảo vệ của công, chế độ phục vụ nhân dân.
– Sở Công an, Ban Tổ chức chánh
quyền và Sở Lao động phối hợp chặt chẽ để chấp hành tốt chủ trương tạm hoãn
việc tiếp nhận cán bộ, công nhân viên các cơ quan, đơn vị, ngành Trung ương vào
biên chế của thành phố như đã nêu ở điểm 5 chỉ thị này. (Trong những trường hợp
đặc biệt phải có ý kiến của Thường trực Ủy ban Nhân dân thành phố mới được tiếp
nhận).
– Ban Tổ chức chánh quyền và Sở
Lao động xét công nhận số lao động dôi ra chờ điều phối công tác ở từng ngành,
địa phương để Sở Tài chánh và Ngân hàng thành phố tiếp tục cấp phát tiền lương
theo một quỹ lương riêng trong thời hạn không quá 6 tháng (Ban Tổ chức chánh
quyền phụ trách giải quyết cho các đơn vị hành chánh, sự nghiệp; Sở Lao động
phụ trách giải quyết cho các đơn vị sản xuất kinh doanh). Những cán bộ công
nhân viên chức không chấp hành sự điều động của tổ chức mà không có lý do chính
đáng phải được xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước.
– Các cơ quan Tài chánh, Ngân
hàng thành phố và quận, huyện chỉ xét cấp phát và cho rút tiền lương theo đúng
chỉ tiêu kế hoạch biên chế lao động và quỹ tiền lương chính thức năm 1980 do Ủy
ban Nhân dân thành phố quyết định và theo các thông báo bổ sung của Ủy ban Kế
hoạch và Ban Tổ chức chánh quyền thành phố về biên chế và quỹ tiền lương trong
phạm vi được Ủy ban Nhân dân thành phố ủy quyền.
- Chi cục thống kê có trách
nhiệm kiện toàn mạng lưới thống kê, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ
nhân viên thống kê, bảo đảm tổng hợp báo cáo thống kê đầy đủ, chính xác, đùng
hạn tình hình lao động – tiền lương toàn thành phố theo biểu mẫu và định kỳ gởi
về Ủy ban Nhân dân thành phố và đồng gởi cho các cơ quan chức năng tổng hợp của
thành phố (Ủy ban Kế hoạch, Ban Tổ chức chánh quyền, Sở Tài chánh, Ngân hàng,
Sỏ Lao động).
Tổ chức thực hiện tốt chỉ thị
này là một bước quan trọng nhằm khắc phục tình trạng tổ chức bộ máy cồng kềnh,
biên chế hành chánh và bộ máy gián tiếp sản xuất còn nặng nề, đồng thời chuẩn
bị thực hiện chủ trương của Nhà nước về cải tiến quản lý, tổ chức và biên chế
trong những năm tới.
Giám đốc, Thủ trưởng các sở,
ban, ngành. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận, huyện cần có kế hoạch, biện pháp cụ
thể triển khai thực hiện tốt chỉ thị này trong ngành, địa phương mình, và hàng
tháng báo cáo kết quả thực hiện cho Ủy ban Nhân dân thành phố.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/ THƯỜNG TRỰC
Phan Văn Khải
|