ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------
|
Số:
17/CT-UB
|
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 05 năm 1987
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TRỢ CẤP GIẢI QUYẾT KHÓ
KHĂN ĐỜI SỐNG CHO CBCNV, LỰC LƯỢNG VÕ TRANG VÀ NHỮNG NGƯỜI TRONG
DIỆN CHÁNH SÁCH TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chấp hành nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 2 (khóa 6) và nghị quyết của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
về việc giải quyết đời sống cho cán bộ công nhân viên, lực lượng võ trang và
những người trong diện chính sách tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Để một bước giảm bớt tình trạng quá khó khăn của
số người sống bằng đồng lương.
Ủy ban nhân dân thành phố quyết định trợ cấp cho
cán bộ công nhân viên chức, lực lượng võ trang, và những người trong diện chính
sách theo cách thức sau:
A. CÁC ĐỐI TƯỢNG TRỢ CẤP.
1) Đối với khu vực sản xuất kinh doanh:
a) Đối với công nhân viên chức trong khu vực sản
xuất quốc doanh và công tư hợp doanh thì tính lại ngay từ 1-5-1985. Sở Lao động
thành phố sẽ hướng dẫn các đơn vị sản xuất tính đúng, tính đủ phần lao động
sống vào giá thành sản phẩm theo cách tính thống nhất như quyết định số
62/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân thành phố
Sau khi áp dụng tính lương mới, Sở Lao động
thành phố cần giúp các đơn vị xem xét lại tổ chức lao động, tiến hành quyết
định mức lao động, tính đơn giá tiền lương, đảm bảo tiền lương của người công
nhân nhận được phù hợp với số lượng và chất lượng lao động đã bỏ ra.
b) Đối với cán bộ công nhân viên các ngành kinh
doanh, tiếp tục áp dụng các hình thức lương khoán và thưởng theo doanh số có
quy đổi theo giá kế hoạch giao đầu năm, mức khoán được tính khác nhau đối với
bán buôn, bán lẻ và đối với từng loại ngành hàng, đảm bảo số thu nhập của công
nhân viên các ngành này phù hợp với số lượng và chất lượng lao động bỏ ra, hạn
chế mức chênh lệch bất hợp lý về thu nhập giữa các ngành.
Riêng đối với ngành xuất nhập khẩu cần sửa lại
cách tính thưởng (có loại trừ yếu tố tăng giá).
2) Đối với công nhân viên chức của các ngành
trung ương đóng trên địa bàn thành phố thì thành phố sẽ thỏa thuận với Bộ Tài
chánh để giải quyết thống nhứt cho công nhân viên chức thuộc ngân sách trung
ương sống trên địa phương (nghị quyết Trung ương lần thứ 2), phần trợ cấp cho
khu vực nầy do ngân sách trung ương đài thọ.
3) Đối với lực lượng Thanh niên xung phong thì
chuyển toàn bộ hoạt động sản xuất sang hạch toán đầy đủ, các đơn vị Thanh niên
xung phong phải tự sản xuất để cải thiện đời sống.
4) Đối với lực lượng võ trang, công an, thành
phố sẽ cùng trung ương có biện pháp tích cực chăm lo đời sống. Với quỹ hàng hóa
được trung ương giao, thành phố dành ưu tiên đảm bảo đủ số lượng với chất lượng
và giao kịp thời cho các đơn vị.
Các cơ quan lao động quận, huyện, phường, xã có
trách nhiệm làm đúng chính sách hậu phương quân đội, phải tạo công việc làm cho
anh em bộ đội mãn ngũ.
5) Đối với cán bộ khoa học kỹ thuật: thành phố
khuyến khích và tạo điều kiện để cán bộ khoa học kỹ thuật thâm nhập vào thực
tiễn sản xuất kinh doanh ở thành phố bằng nhiều hình thức:
- Chuyển dần các cơ sở nghiên cứu ứng dụng và
triển khai kỹ thuật vào liên hiệp các xí nghiệp hoặc liên hiệp sản xuất, qua
thực tiễn năng dần hiệu quả các nghiên cứu và từ đó tạo điều kiện cải thiện đời
sống cán bộ khoa học kỹ thuật.
- Khuyến khích việc ký hợp đồng nghiên cứu ứng
dụng giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh với các viện nghiên cứu hoặc các trường
Đại học và trung học chuyên nghiệp, qua đó trích 1 tỷ lệ trong hiệu quả kinh tế
của các công trình nghiên cứu để thưởng cho cán bộ nghiên cứu tương xứng với
công lao đóng góp.
- Khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh mời
cán bộ khoa học kỹ thuật cộng tác nghiên cứu theo chế độ kiêm nhiệm.
- Chuyển các đơn vị sự nghiệp có thu sang hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, ngân sách thành phố chỉ còn trợ cấp cho những
đối tượng phải thực hiện các nhiệm vụ do thành phố giao nhưng chưa gắng được
với sản xuất kinh doanh.
Sở Tài chánh, Sở Lao động và Ủy ban Khoa học kỹ
thuật thành phố nghiên cứu giải quyết theo hướng trên.
6) Đối với cán bộ công nhân viên hành chánh sự
nghiệp do quận, huyện quản lý kể cả cán bộ phường, xã, ngân sách quận, huyện
giải quyết trợ cấp.
7) Đối với cán bộ, công nhân viên làm công tác
quản lý hành chánh ở các sở, ban, ngành thành phố có nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh thì sở, ban, ngành tự giải quyết phần trợ cấp hằng tháng bằng nguồn điều
hòa từ các đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc đóng góp (có thêm phần do xí
nghiệp đời sống của từng cơ quan đóng góp thêm).
8) Đối với học sinh ở các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng và đại học: thành phố đề nghị Bộ Tài chánh, Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp định lại mức học bổng, trường do cấp nào quản lý thì
học bổng cho học sinh sẽ do ngân sách cấp đó cấp phát. Trong tình hình khó khăn
hiện nay thành phố sẽ bàn bạc với các tỉnh để trợ cấp hàng tháng cho con em
tỉnh mình.
9) Ngân sách thành phố phải trợ cấp cho các đối
tượng còn lại.
B. CÁC TÍNH TRỢ CẤP.
Thành phố áp dụng phương thức bù giá và lương
như nghị quyết Trung ương 2 đã đề ra. Cách tính là lấy lương cơ bản nhân với hệ
số trượt giá. Đợt này chỉ nâng lên bình quân bằng 8 lần lương cơ bản, nhưng bảo
đảm mức tối thiểu là 3.000đ/tháng/người. Riêng đối với giáo viên ở các trường
và nhân viên y tế ở các bệnh viện bảo đảm mức tối thiểu 4.000đ/tháng. Những đơn
vị, quận, huyện nào có khả năng trợ cấp thêm bằng nguồn thu nhập chính đáng,
hợp pháp thì có thể định mức tối thiểu cao hơn.
Cách tính định mức thu nhập này được thực hiện
từ ngày 1-5-1987. Đến tháng 8-1987 tùy theo kết quả nguồn thu sẽ xem xét điều
chỉnh một bước nữa theo hướng thực hiện mức thu nhập thực tế của tháng 9-1985
và giảm bình quân để khuyến khích tăng năng suất và chất lượng lao động
C. NGUỒN THU
Giao chở Sở Tài chánh thành phố nghiên cứu đề
xuất với Ủy ban nhân dân thành phố ban hành văn bản về kế hoạch thu và tạo thêm
nguồn thu (chủ yếu từ phát triển sản xuất) để tăng ngân sách, Ủy ban nhân dân
thành phố sẽ phân chỉ tiêu thu cho các ngành, cơ sở thực hiện số thu thêm.
Từ nay, ngoài các khoản thu đã có quy định (như
tiền bảo trợ, học đường, phí ở các bệnh viện v.v…) các ngành các cấp không được
thu khoản nào khác.
D. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1) Với tinh thần trách nhiệm đầy đủ, quận ủy và
Ủy ban nhân dân các quận, huyện tìm mọi biện pháp để lo quỹ trợ cấp hàng tháng
cho cán bộ hành chánh sự nghiệp và các đối tượng trong diện chính sách với mức
tối thiểu như trên. Nếu quận, huyện nào mà đã cố gắng hết mức nhưng vẫn chưa đủ
mức tối thiểu thì ngân sách thành phố sẽ xem xét cụ thể để trợ cấp thêm.
2) Đối với các sở, ban, ngành có đơn vị sản xuất
kinh doanh (ở mục 7 phần A) thì cần định mức để cơ sở đóng góp quỹ trợ cấp cho
bộ phận hành chánh sự nghiệp của sở, ngành.
3) Khuyến khích các cơ quan, đơn vị tổ chức sản
xuất theo chỉ thị để cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên. Đây cũng là
biện pháp để giải quyết lao động cho số biên chế dôi ra nhưng phải hoạt động
đúng đắn, không được chạy theo mua bán. Những xí nghiệp đời sống (54) được miễn
thuế 1 năm đầu và về sau chỉ nộp thế môn bài và thuế doanh nghiệp.
Để giữ mức thu nhập thực tế của công nhân viên cán
bộ, ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa – trước hết là Sở Thương nghiệp (các
công ty chuyên doanh), hệ thống thương nghiệp hợp tác xã mua bán, công ty kinh
doanh lương thực thành phố tạo quỹ hàng hóa ngày càng nhiều bảo đảm tương đối
nhu cầu sinh hoạt của công nhân viên cán bộ và nhân dân lao động thành phố -
góp phần giảm tốc độ tăng giá.
4) Các đơn vị hành chánh sự nghiệp có lập xí
nghiệp đời sống đã bảo đảm mức thu nhập bằng mức quy định trợ cấp như trên thì
không nhận tiền trợ cấp của ngân sách. Nếu chưa đạt mức tối thiểu thì ngân sách
sẽ cấp thêm.
5) Ngân hàng thành phố phải bảo đảm tiền mặt để
chi trả lương.
6) Các Sở Lao động, Sở Tài chánh, Sở Giáo dục và
Ban Giáo dục chuyên nghiệp thành phố tính toán nguồn thu bảo trợ trường học sát
với từng đối tượng gia đình học sinh và định tỷ lệ trích để lại cho nhà trường
chi vào việc sửa chữa nhỏ, còn đại bộ phận số tiền thu được nộp vào ngân sách
để giải quyết đời sống cho giáo viên. Định chính sách thu học phí đối với học
sinh học trong và ngoài giờ theo từng cấp và từng ngành, nghề.
Sở Lao động, Sở Tài chánh và Sở Y tế - Sở Thương
binh và xã hội đề xuất mức thu trợ phí ở các bệnh viện, chế độ mở phòng mạch tư
và mức thuế nộp cho nhà nước (cần rút kinh nghiệp việc thu trợ phí ở bệnh viên
An Bình).
Sở Tài chánh bàn bạc các ngành trình Thường trực
Ủy ban nhân dân thành phố giao chỉ tiêu huy động quỹ trợ cấp chung của thành
phố cho từng đơn vị sản xuất, kinh doanh góp vào để kịp thời cấp cho các đối
tượng được hưởng.
Các ngành phải có trách nhiệm đảm bảo kế hoạch
sản xuất kinh doanh và nộp ngân sách theo kế hoạch được giao.
7) Ban Tổ chức chánh quyền thành phố, Sở Lao
động thành phố và các Sở, ban, ngành khẩn trương xây dựng đề án tiến hành tổ
chức lại bộ máy, tinh giản biên chế cùng với việc khoán quỹ lương, xây dựng lại
quy chế làm việc cho từng đơn vị, làm cho bộ máy gọn nhẹ hiệu quả cao, kiểm tra
chặt chẽ và hạn chế việc tuyển dụng biên chế từ các địa phương khác vào thành
phố.
Trợ cấp lương lần nầy chỉ nhằm giải quyết một
phần khó khăn đời sống của công nhân viên chức và là nổ lực lớn của thành phố
trước những khó khăn chung của đất nước. Trong việc định mức trợ cấp còn có chỗ
bất hợp lý. Vì vậy, các cơ quan đơn vị, công đoàn và Đoàn thanh niên các cấp
cần giải thích sau rộng cho mọi người hiểu rõ sẵn sàng chịu đựng gian khổ phấn
đấu vượt khó khăn hoàn thành nhiệm vụ dần dần đưa nền kinh tế phát triển như
nghị quyết Đại hội 6 đã vạch ra.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT/CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lê Khắc Bình
|