ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 183/BC-UBND
|
Hải
Phòng, ngày 15 tháng 09 năm 2016
|
BÁO CÁO
SƠ KẾT 5 NĂM THỰC HIỆN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN
2011-2020 THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
I. Đánh giá 5 năm
(2011- 2015) việc thực hiện Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 về việc phê
duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và Quyết định số
1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 của Thủ tướng Chính phủ
1. Những kết quả đạt được
- Thực hiện Quyết định số 579/QĐ-TTg
ngày 19/4/2011 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2011-2020 và Quyết định số 1216/QĐ-TTg
ngày 22/7/2011 về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực
Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Ủy ban nhân
dân thành phố đã ban hành Quyết định số 2098/QĐ-UBND ngày 06/12/2010 phê duyệt
Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020 và Quyết
định 1640/QĐ-UBND ngày 02/10/2012 về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện
Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn
2011-2020.
- Quy hoạch phát triển nhân lực thành
phố Hải Phòng, giai đoạn 2011-2020 đã định hướng và làm cơ sở để các Sở, ban,
ngành, các địa phương triển khai chỉ đạo, điều hành, hoạch định các cơ chế,
chính sách của địa phương. Thành phố đã lựa chọn được các ngành kinh tế mũi nhọn
để ưu tiên đào tạo, phát triển nhân lực thành phố phù hợp với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của thành phố theo hướng chuyển dịch lao động
ngành nông nghiệp sang lao động ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nhân lực
thành phố đã từng bước phát triển cả về
số lượng và chất lượng, nâng cao trình độ học vấn, chuyên
môn kỹ thuật, sức khỏe, thể lực, phẩm chất đạo đức, tỷ lệ đào tạo đạt 76%,
trong đó lao động qua đào tạo đạt 54%. Chất
lượng đào tạo ngày càng được nâng cao, nhân lực qua đào tạo nghề bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chiến lược phát triển kinh tế
biển nói riêng của thành phố và đất nước.
- Phát triển nhân lực thành phố đã tính
đến nhu cầu của xã hội, phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo với sử dụng nhân lực
qua đào tạo, tỷ lệ có việc làm hoặc tự tạo việc làm luôn ở mức cao, lao động
sau đào tạo cơ bản được thị trường chấp nhận, giai đoạn 2012-2015 đã giải quyết
việc làm cho 52.000 lượt lao động, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm còn
4%. Bước đầu hình thành thị trường lao động sẵn sàng
hội nhập vào thị trường lao động khu vực. Nhiệm vụ nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đã được lồng ghép trong kế hoạch hàng
năm của thành phố; thành phố đã thực hiện cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức, triển khai Đề án
đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài, trong đó chú trọng đối tượng là cán bộ
khoa học và công nghệ trong các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
- Thành phố đã chỉ đạo bằng nhiều giải
pháp để nâng cao chất lượng nhân lực, tăng cường bố trí vốn ngân sách nhà nước
để đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên. Để
thu hút các nguồn lực phát triển nhân lực, Hội đồng nhân dân thành phố đã ban
hành Nghị quyết số 07/2013/NQ-HĐND ngày 25/7/2013 về nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế,
chính sách xã hội hóa giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa thể thao trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013-2016, định hướng đến 2020
nhằm khuyến khích đẩy mạnh xã hội hóa.
- Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý do Ủy ban nhân dân thành phố quản lý đã được các Sở,
ban, ngành, đơn vị liên quan triển khai thực hiện hàng năm. Công tác quy hoạch
cán bộ khoa học công nghệ đã được các cấp chính quyền, các ngành và các tổ chức
trên địa bàn thành phố quan tâm thực hiện và mang lại kết quả tương đối tốt và
dần đi vào nề nếp; thành phố đã ban hành và thực hiện một
số cơ chế, chính sách sử dụng, trọng dụng,
đãi ngộ, tôn vinh đối với những cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ chuyên
môn cao, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển nhân lực
khoa học và công nghệ.
- Công tác quy hoạch nhân lực lao động
kỹ thuật đã được triển khai thực hiện thông qua quy hoạch mạng lưới dạy nghề,
tuyển sinh học nghề, xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán
bộ quản lý dạy nghề, kiểm định chất lượng dạy nghề. Kết quả đã gia tăng tỷ lệ
lao động qua đào tạo, chú trọng đào tạo nghề chất lượng cao ứng dụng kỹ thuật
công nghệ vào công việc; có ý thức tổ chức
kỷ luật, có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn, được thị trường chấp
nhận.
- Công tác phát triển giáo dục các cấp
học từ mầm non đến trung học phổ thông làm nền tảng đào tạo nhân lực cho thành
phố đã được quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện. Thành phố đã xây dựng
Chương trình hành động của Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết
29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Bên cạnh việc triển khai thực hiện
Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 - 2020 thành
phố cũng đang đồng thời thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày
11/4/2008 của Ban Thường vụ Thành ủy và Nghị quyết số 04/2008/NQ-HĐND ngày
22/4/2008 của Hội đồng nhân dân thành phố về một số chủ
trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố đến năm 2010, định hướng 2020, đó là những
điều kiện thuận lợi để các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện Quy
hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng, giai đoạn
2011 - 2020 trên địa bàn thành phố. Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Kế hoạch số 2144/KH-UBND ngày 03/4/2014 về triển khai thực hiện Kết luận số 07-KL/TU ngày 05/12/2013 của Ban Thường
vụ Thành ủy về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 11/4/2008 của Ban Thường vụ Thành ủy về một số chủ trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân
lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố đến
năm 2010, định hướng 2020; bổ khuyết một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đến năm
2020.
2. Một
số tồn tại hạn chế
- Trong quá trình triển khai thực hiện
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển
nhân lực, do thời gian xây dựng quy hoạch ngắn (chưa đến 02
tháng) triển khai vào thời điểm cuối năm 2010, dẫn đến các bước công việc lập quy
hoạch chưa được thực hiện đầy đủ (không đủ thời gian thu thập các số liệu trong
giai đoạn 2000-2010 và triển khai các công việc: Khảo sát thực tế, hội thảo lấy
ý kiến chuyên gia, xây dựng bản đồ quy hoạch ...). Nhiều căn cứ pháp lý để xây
dựng quy hoạch phát triển nhân lực mới chỉ là dự thảo,
chưa được ban hành chính thức như: Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đất
nước giai đoạn 2011-2020; Chiến lược Phát triển giáo dục đến
năm 2020; Chiến lược phát triển dạy nghề đến năm 2020; Văn kiện Đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ 14, Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội Hải Phòng giai đoạn
2011-2015... chưa có Quy hoạch tổng thể phát triển nhân lực của cả nước và Quy
hoạch phát triển nhân lực của các ngành kinh tế-xã hội nên khiến cho định hướng
phát triển nhân lực của thành phố có thể chưa được chuẩn xác. Mặt khác thành phố
triển khai các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới và
trong nước tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức và những biến động khó lường
cũng đã tác động không nhỏ đến việc lập và triển khai thực hiện quy hoạch trong
thời điểm quốc tế hóa, toàn cầu hóa và nhất
là trong bối cảnh nền kinh tế của cả nước và thành phố đang hội nhập sâu với
kinh tế thế giới thì nhân lực của thành phố chưa đáp ứng yêu cầu do thiếu tính
chuyên nghiệp và kỹ năng nghề, đặc biệt là thiếu kiến thức chuyên môn ở tầm quốc
tế.
- Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu,
thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của thành phố, kết nối với hệ thống dữ liệu,
thông tin dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia, việc tổ chức xây dựng và vận hành hệ
thống thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của thành phố đảm
bảo tính kết nối, thông suốt về thông tin giữa các Bộ, ngành, địa phương, doanh
nghiệp và người dân đến nay vẫn chưa được triển khai.
- Đề xuất quy hoạch
sử dụng quỹ đất ưu tiên cho các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp trên địa bàn thành phố đáp để đảm bảo yêu cầu về quy mô, chất lượng
và phù hợp với đặc thù của từng ngành đào tạo chưa được thực hiện.
- Cơ cấu nguồn nhân lực ngành y tế
còn chưa hợp lý, phân bố không đồng đều giữa các tuyến, chất lượng còn chưa
tương xứng với vị thế trung tâm vùng duyên hải Bắc bộ; tỷ lệ dược sĩ đại học/bác
sĩ còn thấp. Tại các bệnh viện tuyến huyện hạng II không thu hút được bác sĩ,
phải sử dụng y sĩ vào công tác khám chữa bệnh dẫn đến tình trạng quá tải tại
các bệnh viện tuyến trên. Tỷ lệ điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên/bác sĩ ở cơ
sở khám chữa bệnh còn thấp đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ khám chữa
bệnh.
- Thiếu cán bộ đầu ngành ở nhiều lĩnh
vực khoa học và công nghệ, thiếu cán bộ giỏi về khoa học quản lý và chuyên gia
công nghệ có trình độ cao. Có sự mất cân đối về ngành nghề đào tạo; đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu cả về chất
lượng và số lượng.
- Cơ cấu các nghề đào tạo chưa hợp
lý, chênh lệch cung - cầu lao động của giữa các ngành còn lớn, nhiều doanh nghiệp
có nhu cầu tuyển dụng lao động trong khi các cơ sở dạy nghề lại không có học
sinh theo học. Công tác tuyển sinh học nghề còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là
do tác động của khủng hoảng kinh tế.
3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn
chế
- Một số cấp, ngành chưa thật sự chủ
động, tích cực trong việc rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý, khoa học công nghệ, lao động kỹ thuật và trên cơ sở quy định về tổ chức,
bộ máy, biên chế, nhu cầu, dự báo phát triển để xây dựng,
hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực chất lượng cao cho cấp, ngành mình. Chưa có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ khoa học và công nghệ; chưa có chính sách hỗ trợ các tổ chức khoa học và
công nghệ đào tạo, đào tạo lại nhân lực.
- Chính sách lương và phụ cấp lương
cho cán bộ ngành y tế còn nhiều bất cập, phụ cấp nghề nghiệp quá thấp, nhất là
khu vực hải đảo, vùng xa, vùng khó khăn, lĩnh vực y tế dự phòng và y tế cơ sở.
Điều kiện làm việc của phần lớn cán bộ y tế còn nhiều khó khăn do cơ sở vật chất
thiếu thốn, trang thiết bị chưa đủ, chưa đảm bảo. Mô hình tổ chức hệ thống y tế
chưa ổn định, nhất là hệ thống y tế cơ sở
và y tế dự phòng.
- Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo
dục và đào tạo (bao gồm các cơ sở giáo dục nghề nghiệp) chưa hình thành. Việc
giao chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo chưa có sự gắn kết, thiếu thông tin dự báo nguồn
nhân lực, thông tin về thị trường lao động. Tính quy hoạch,
kế hoạch về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
còn nhiều bất cập. Nguồn vốn đầu tư
cho nâng cao chất lượng nhân lực, phát
triển các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học còn hạn chế. Thiếu chủ động, tích
cực trong hợp tác trong nước, quốc tế trong lĩnh vực đào tạo phát triển nhân lực
chất lượng cao. Đến nay nhiều Sở, ngành vẫn chưa hoàn thành quy hoạch ngành,
lĩnh vực mình để làm cơ sở cho các địa phương, đơn vị xây dựng đề án hoặc quy
hoạch nhân lực của địa phương, đơn vị.
- Cơ chế chính sách chưa khuyến khích
được học sinh vào học nghề, mức thu học phí thấp nên điều kiện để cho học sinh
thực hành rèn luyện kỹ năng hạn chế; các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tham gia
vào quá trình đào tạo. Nhận thức của xã hội còn chưa đầy đủ, tư tưởng trọng bằng
cấp vẫn còn nặng nề; công tác tuyên truyền còn chưa thường xuyên, nội dung và
hình thức tuyên truyền còn chưa phong phú. Ngân sách nhà nước đầu tư cho dạy
nghề còn hạn hẹp, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
4. Giải pháp khắc phục những tồn tại
hạn chế
- Để khắc phục
những tồn tại, hạn chế đã nêu ở trên, Thành phố đã chỉ đạo các cấp, các ngành,
địa phương triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, dự án cụ thể
phát triển nhân lực được nêu trong Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng, giai đoạn 2011 - 2020. Lồng ghép các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển nguồn
nhân lực vào Chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội hàng năm của các Sở, ngành, địa
phương, đơn vị.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội; thay đổi quan điểm, hành
động và tâm lý xã hội tạo động lực phát triển nhân lực của
thành phố; xác định phát triển nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cả hệ thống chính trị và của toàn
xã hội.
- Hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ lập,
rà soát, điều chỉnh bổ sung các quy hoạch ngành, lĩnh vực và các địa phương, quy hoạch phát triển
mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030,
trong đó có các đề xuất về nhà ở cho lao động trong các khu, cụm công nghiệp.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu,
thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của địa phương, kết nối với hệ thống dữ liệu,
thông tin dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia. Hoàn thiện Đề án về Xây dựng và triển khai đồng bộ cơ chế,
chính sách đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực chất lượng cao trên địa bàn thành phố trình Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt để làm cơ sở cho các cấp, ngành, địa phương, đơn vị triển
khai thực hiện.
- Thực hiện Chương trình hành động của Ban Thường vụ Thành ủy
thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế.
- Phối hợp với
các Bộ, ngành trong việc phê duyệt các chương trình, dự án
trọng điểm phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu
cầu phát triển nhân lực của địa phương; rà soát, hoàn chỉnh
quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo trên địa bàn thành phố, bảo đảm phù hợp với
quy hoạch mạng lưới chung các cơ sở đào tạo, dạy nghề trong cả nước. Triển khai có hiệu quả Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn (Đề
án 1956) trên địa bàn thành phố.
- Tổng hợp, đánh
giá và dự báo các vấn đề về lao động - việc làm trên địa bàn thành phố; tính
toán, dự báo, xác định nhu cầu lao động kỹ thuật hàng năm
cho từng lĩnh vực, ngành, nghề và toàn thành phố.
Tổ chức điều tra, khảo
sát về lao động - việc làm trên địa bàn
thành phố, công bố công khai kết quả điều tra trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân, doanh nghiệp,
cơ sở đào tạo và các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu, nắm bắt cơ hội học tập, tìm việc hoặc tuyển dụng lao động.
- Rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ,
định hướng nghiên cứu, phát triển, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo phát
triển nhân lực khoa học công nghệ ở ngành, đơn vị và chung cho toàn thành phố.
Đề xuất cơ chế, chính sách, hình thức, phương pháp, cấp độ đào tạo phù hợp.
- Xây dựng hệ thống
cơ sở dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của thành
phố, kết nối với hệ thống dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu
nhân lực quốc gia. Tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống thông tin
dự báo nhu cầu nhân lực của thành phố đảm bảo tính kết nối, thông suốt về thông tin giữa các Bộ, ngành, địa
phương, doanh nghiệp và người dân.
- Chỉ đạo các cơ
sở đào tạo thực hiện tốt chủ trương tự chủ trong tuyển sinh và đào tạo, nâng
cao chất lượng đào tạo, đồng thời rà soát điều chỉnh quy
mô và ngành nghề đào tạo cho phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực của địa phương và nhu cầu xã hội.
- Ưu tiên các nguồn lực đầu tư cho
phát triển nhân lực thông qua các chương trình; dự án của Quy hoạch. Thực hiện
đồng bộ các cơ chế, chính sách khuyến khích đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực
giáo dục - đào tạo theo Nghị quyết số 07/2013/NQ-HĐND ngày
25/7/2013 của Hội đồng nhân dân thành phố. Ưu tiên quỹ đất cho phát triển các
cơ sở giáo dục và đào tạo theo đúng định hướng quy hoạch đã đề ra.
II. Tổng quan về
tình hình triển khai xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện Quy hoạch phát
triển nhân lực của thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020
1. Những thuận lợi
Nhận thức sâu sắc về vị trí vai trò
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, Thành ủy Hải Phòng đã
chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố cùng các cơ quan liên quan tập trung
nghiên cứu, phân tích làm rõ tình hình phát triển nhân lực của thành phố, trong đó đặc biệt quan tâm đến
nhân lực chất lượng cao. Ban Thường vụ
Thành ủy đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TU về “Một số chủ trương,
giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thành phố đến năm 2010, định hướng đến 2020”, đây là cơ sở
quan trọng để xây dựng quy hoạch phát triển nhân của thành phố.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 của các ngành, địa
phương, Ủy ban nhân dân thành phố đã
thành lập Ban chỉ đạo Xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020 (Quyết định số
1695/QĐ-UBND ngày 13/10/2010) để triển khai xây dựng Quy hoạch.
2. Những khó khăn thách thức
- Sự hội nhập kinh tế sâu sắc của Việt
Nam vào nền kinh tế thế giới đang dẫn tới sự dịch chuyển nền
kinh tế theo hướng chú trọng hơn vào dịch vụ và công nghiệp, vào những ngành có
giá trị xuất nhập khẩu lớn, tốc độ xuất khẩu nhanh. Sự phát triển của khoa học, công nghệ đã và đang
tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của nguồn nhân lực của Việt Nam nói chung và
của Hải Phòng nói riêng.
- Khi xây dựng Quy hoạch phát triển
nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 - 2020 chưa có Quy hoạch tổng thể phát triển nhân lực của cả nước và Quy hoạch
phát triển nhân lực của các ngành kinh tế - xã hội nên định hướng phát triển
nhân lực của thành phố chưa được chuẩn xác. Nhiều căn cứ pháp lý để xây dựng
quy hoạch mới chỉ là dự thảo, chưa được ban hành chính thức, như: Chiến lược
Phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2011- 2020;
Chiến lược Phát triển giáo dục đến năm 2020; Chiến lược phát triển dạy nghề đến
năm 2020. Suất đầu tư cho giáo dục - đào tạo ngày càng lớn, trong khi nguồn thu của thành phố còn thấp, chưa đáp ứng được mức tối thiểu của nhu cầu đào tạo nhân lực, dẫn đến chất lượng đào tạo
luôn bị tụt hậu so với khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng lao động của
các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố.
- Thành phố triển khai các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội trong bối cảnh kinh tế
thế giới và trong nước tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức và những biến động
khó lường cũng đã tác động không nhỏ đến việc lập và triển khai thực hiện quy
hoạch.
3. Nguyên nhân của những khó khăn
thách thức
- Một số địa phương, đơn vị chưa quan
tâm đứng mức và nhận thức hết tầm quan trọng của việc thực
hiện Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan có chức
năng tham mưu giúp thành phố trong quản lý và phát triển nhân lực còn hạn chế.
Công tác hướng nghiệp cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Sự kết hợp giữa nhà trường và
doanh nghiệp chưa được thực sự chú trọng và đề cao. Chất lượng công tác đào tạo và trình độ chuyên
môn kỹ thuật của người lao động còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành
phố.
- Công tác tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố trong việc ban hành các cơ chế chính sách liên quan đến phát triển nhân lực chưa đạt kết quả như mong muốn. Chưa
giao đầy đủ quyền tự chủ về tuyển dụng đội ngũ giảng viên cho các trường đại học,
cao đẳng công lập đảm bảo số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ.
III. Tình hình thực hiện các mục
tiêu, chỉ tiêu và các giải pháp nêu trong Quy hoạch phát triển nhân lực thành
phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020
1. Những mặt được
Việc triển khai Quy hoạch phát triển
nhân lực của thành phố đã được lồng ghép trong Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm
của thành phố. Trong kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số
11/2011/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố khóa XIV kỳ họp thứ 2 về kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh thành phố 5 năm 2011-2015 đã xác định ưu tiên tập trung phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao và khoa học công nghệ đáp ứng
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững là một trong những nhiệm vụ và giải pháp mang tính đột phá của thành phố. Hàng năm thành phố xây dựng và ban hành Kế hoạch thực hiện
Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố để các cấp, các ngành, các địa phương
triển khai thực hiện, cụ thể:
1.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức về phát triển nhân lực
- Công tác tuyên truyền phổ biến tới
cán bộ, đảng viên, nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước và thành phố về vị trí, vai trò đóng
góp của nhân lực đối với sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất
nước, nhất là lực lượng lao động trực tiếp tham gia sản xuất có tay nghề, kỹ
thuật nhằm nâng cao nhận thức xã hội, thay đổi quan điểm, hành động và tâm lý
xã hội trong lựa chọn nghề nghiệp đã đạt kết
quả nhất định. Nhận thức của các cấp,
các ngành, đặc biệt là nhận thức của người dân về
học nghề tăng rõ rệt. Nhu cầu học nghề
để làm việc tại doanh nghiệp hoặc tự tạo việc làm ngày càng được người dân, xã
hội quan tâm và nhận thức được đây là yêu cầu cần thiết để người lao động có cơ
hội tìm việc làm và tự tạo việc làm.
- Hàng năm thành phố đa tổ chức các
hoạt động biểu dương, khen thưởng, bình xét danh hiệu, phong và trao các danh
hiệu, giải thưởng tôn vinh các tập thể, đơn vị, cá nhân có nhiều đóng góp cho sự
phát triển của thành phố, tạo động lực cho sự quan tâm của toàn xã hội; sự phấn
đấu của gia đình và bản thân cán bộ, người lao động vươn lên.
1.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành đến quá trình phát
triển nhân lực.
- Thành phố đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách để phát triển nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là nhân lực chất lượng cao, như: Triển khai Đề án Phát triển nhân lực chất lượng cao; Đề án
đào tạo 100 tiến sỹ, thạc sỹ ở nước ngoài; Đề án đào tạo nghề, giới thiệu việc
làm cho quân nhân xuất ngũ; Chính sách ưu tiên tuyển dụng
nhân lực trình độ cao (từ Thạc sỹ trở lên) vào làm việc tại các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp của thành phố; ưu
tiên giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các cơ sở giáo dục và đào tạo ...
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã
nhận thức rõ và xác định đào tạo, phát
triển nhân lực vừa là chiến lược lâu dài, vừa là biện
pháp trước mắt đảm bảo đủ nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố và góp phần đáp ứng yêu cầu
phát triển của cả nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy
nghề được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng từng bước hướng tới đạt chuẩn, mô hình
đào tạo thí điểm được xây dựng rút kinh nghiệm...chất lượng và hiệu quả dạy nghề
có bước chuyển biến tích cực, đào tạo nghề đã gắn với sử dụng lao động.
1.3. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế thành phố giai đoạn
2011-2015 chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ
trọng ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng
ngành nông lâm thủy sản, dẫn đến cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch tích cực,
phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế. Số lượng và tỷ trọng lao động làm
việc trong ngành nông lâm thủy sản giảm (năm 2011: 28,71%; năm 2015: 24,18%)
ngành dịch vụ (năm 2011: 42,23%; năm 2015: 48,57%) ngành công nghiệp - xây dựng
(năm 2011: 29,26%; năm 2015: 27,25%).
1.4. Chính sách phát triển thị trường lao động và hệ
thống công cụ thông tin thị trường lao động
- Thị trường lao
động của thành phố được định hướng phát triển phù
hợp với định hướng của Nghị quyết và các quy định khác có liên quan của
pháp luật hiện hành. Các kênh giao dịch trên thị trường
lao động đang dần hình thành. Sàn Giao dịch việc làm của thành phố đã được đầu
tư xây dựng và bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 30/8/2011, giai đoạn 2011- 2015
đã tổ chức được 116 phiên giao dịch với sự tham gia tuyển dụng của 3.862 lượt
doanh nghiệp, có 134.403 lượt người đến Sàn được tư vấn việc
làm và đạt sơ tuyển 20.347 người. Trên cơ sở nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp và người tham gia tư vấn việc làm, thành phố
đã đề nghị và được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội lựa chọn là một trong 15
trung tâm trọng điểm trên toàn quốc được
đầu tư với số kinh phí là 45 tỷ đồng để đầu tư nâng cao năng lực Trung tâm dịch
vụ việc làm giai đoạn 2016-2020.
- Hệ thống các đơn vị giới thiệu việc
làm đã được sắp xếp, kiện toàn lại. Thành phố hiện có 9 đơn vị đăng ký hoạt động
dịch vụ giới thiệu việc làm, gồm: 3
trung tâm giới thiệu việc làm và 6 đơn vị khác (doanh nghiệp, trường dạy nghề)
có đăng ký hoạt động dịch vụ giới thiệu việc làm. Các đơn vị này đang từng bước
phát triển thành cầu nối giữa cung và cầu lao động trên thị trường.
1.5. Tăng cường phối hợp giữa bốn bên trong quá trình phát triển nhân lực (Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp và người
học)
Để thực hiện được mục tiêu đào tạo
theo nhu cầu của xã hội và đào tạo cho doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đào tạo
và hiệu quả sử dụng lao động qua đào tạo, một số trường đã
chủ động phối hợp với các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố để trao đổi thông tin việc làm cho sinh viên, mời thỉnh
giảng theo chuyên đề... Trường Đại học Hàng hải Việt Nam là một trong số
các trường tổ chức tốt chuỗi
Chương trình “Kết nối Doanh nghiệp - Nhà quản lý - Đơn vị
đào tạo” qua đó đã tăng cường sự gắn kết đa dạng, thiết thực giữa
các lĩnh vực hoạt động của Nhà trường với cộng đồng các doanh nghiệp, các đơn vị
quản lý nhà nước với trọng tâm là cải tiến nội dung chương
trình đào tạo, nâng cao chất lượng giảng
dạy, thực tập thực hành, nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ đáp ứng nhu cầu xã hội, tiếp cận thông tin tuyển
dụng và giới thiệu việc làm sinh viên... góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát
triển thương hiệu.
1.6. Triển khai các chương
trình, đề án, dự án ưu tiên phục vụ phát triển nhân
lực giai đoạn 2011-2020
- Đề án đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ ở nước ngoài: Chương trình hợp
tác trong nước và quốc tế trong đào tạo, phát triển nhân lực
chất lượng cao được thực hiện có hiệu quả thông qua Đề án đào tạo 100 Thạc sĩ,
Tiến sĩ ở nước ngoài đã chọn cử được
44 cán bộ đi học. Thành phố đã cử 20 cán
bộ, công chức, viên chức đi học nước ngoài theo Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung
ương.
- Phát triển Trường Đại học Hải
Phòng thành trường đại học chất lượng cao, đa ngành, đa lĩnh vực: Trường Đại học Hải Phòng là một trong những trung
tâm đào tạo đại học đa ngành và lĩnh vực, từ năm 2011 đến
2015 Trường tập trung vào việc tăng cường các hoạt động
nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo; tiếp tục mở rộng đào tạo sau đại học và triển khai
đào tạo Nghiên cứu sinh khi đủ điều kiện.
Hiện nay trường có 38 đơn vị trực thuộc, trong đó có 14 khoa, 01 Viện, 5 Trung
tâm, 3 trường thực hành sư phạm; nhà trường hiện đang đào tạo 04 ngành trình độ thạc sĩ, 57 chuyên ngành hệ chính quy, là 1/40 trường đại học
trong cả nước được Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm định chất
lượng giáo dục đại học đạt tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng giáo
dục đại học Việt Nam.
- Phát triển Trường Đại học Hàng hải
Việt Nam thành trường trọng điểm quốc gia đạt trình độ quốc tế trong việc đào tạo các chuyên ngành hàng hải:
Ngày 03/7/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1056/QĐ-TTg về việc
đổi tên Trường Đại học Hàng hải thành Trường Đại học Hàng hải Việt Nam; Trường
đã trở thành tổ hợp đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao công
nghệ, sản xuất, kinh doanh với hàng trăm phòng thí nghiệm
hiện đại, cùng các thiết bị mô phỏng huấn luyện, phòng thực
hành, tàu huấn luyện, tàu vận tải và trung tâm nghiên cứu.
Hiện nay trường đang đào tạo 8 chuyên ngành tiến sĩ, 11 chuyên ngành trình độ
thạc sĩ, 40 chuyên ngành đại học, 10 chương trình dạy nghề với trên 20.000 học viên và sinh viên, trong đó
có nhiều học viên và sinh viên đến từ các nước: Hàn Quốc, Hoa kỳ, Mozambique,
Nigeria, Nam Phi...
- Phát triển Trường Đại học Y Hải Phòng thành Trường Đại học Y Dược Hải Phòng: Ngày 11/11/2013 tại Quyết định số 2153/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ đã
quyết định đổi tên Trường Đại học Y Hải Phòng thành Trường Đại học Y Dược Hải
Phòng với mục tiêu: Xây dựng và phát triển trường Đại học
Y Dược Hải Phòng trở thành Trung tâm đào tạo nghiên cứu khoa học, chuyển giao
công nghệ có uy tín trong nước và quốc tế, cung cấp nguồn
nhân lực y tế chất lượng cao đáp ứng nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là đào tạo chuyên ngành y học biển - đảo. Hiện nay trường đang triển khai, mở rộng các ngành
đào tạo thuộc nhóm ngành khoa học sức khỏe ở trình độ đại học (Bác sỹ đa khoa, Bác sỹ Răng Hàm mặt, Dược sỹ Đại học...); sau đại học (Tiến sĩ; Bác sĩ chuyên khoa cấp I; Bác sĩ chuyên khoa
cấp II) và liên kết đào tạo với các trường đại học trên thế giới trong một số
lĩnh vực mà trường có thế mạnh.
- Đầu tư xây dựng Trường Trung học
phổ thông chuyên Trần Phú: Dự án đầu tư xây dựng Trường
THPT Chuyên Trần Phú được phê duyệt và điều chỉnh với tổng mức đầu tư 356.072 triệu đồng từ nguồn vốn ngân sách thành phố.
Giai đoạn I, trường được đầu tư với quy mô đào tạo 66 lớp học, 2.000 học sinh,
gồm: Nhà hành chính hiệu bộ 3 tầng; Nhà thư viện 4 tầng;
nhà lớp học chính 4 tầng; nhà học các đội tuyển 4 tầng và các hạng mục phụ trợ,
hạ tầng kỹ thuật ngoài nhà. Đến nay, trường đã hoàn thành giai đoạn I đưa vào sử
dụng đầu năm học 2016-2017.
- Phát triển Viện Tài nguyên và
Môi trường biển, Viện nghiên cứu hải sản đạt trình độ khu vực và quốc tế:
- Viện Tài
nguyên và Môi trường biển cấp quốc gia, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam, trong 10 năm gần đây Viện đã chủ trì 34 đề tài, nhiệm vụ
khoa học - công nghệ cấp Nhà nước và tương đương; 29 đề tài
cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; 69 đề tài
cấp bộ, ngành, tỉnh, thành phố và tương đương; Viện chủ trì thực hiện các đề
tài, dự án, nhiệm vụ hợp tác quốc tế: 9 đề tài, dự án hợp tác
song phương theo nghị định thư; 23 đề tài, dự án ODA và NGO; 6 đề tài, dự án hợp
tác quốc tế khác. Các đề tài, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học do Viện chủ
trì thực hiện, đều đạt được những kết quả nghiên cứu quan trọng, có nhiều đề tài đã được nghiệm thu xuất
sắc, kết quả nghiên cứu của đề tài được ứng dụng vào thực
tiễn góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển, bảo vệ
môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo vệ tổ quốc.
- Viện nghiên cứu hải sản là đơn vị sự nghiệp khoa học công lập trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; chức
năng của Viện là nghiên cứu khoa học và công nghệ nghề cá biển; điều tra nguồn
lợi hải sản, môi trường biển và đa dạng sinh học biển; chuyển giao công nghệ;
đào tạo sau đại học; tư vấn về chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển
nghề cá biển phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn. Hiện nay, Viện đang từng bước xây dựng trở thành một Viện nghiên cứu
ngang tầm với các Viện nghiên cứu của một số nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Viện có đội ngũ
cán bộ nghiên cứu giàu kinh nghiệm, có năng lực và trình độ đáp ứng được việc
thực thi nhiệm vụ.
- Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn: Thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân thành
phố đã thành lập Ban Chỉ đạo thành phố để thực hiện Đề án; xây dựng kế hoạch
và giao nhiệm vụ cụ thể cho các Sở,
ngành, địa phương để triển khai thực
hiện. Sau 5 năm thành phố đã tổ chức dạy nghề cho 118.500 lao động nông
thôn, trong đó 16.289 người được hỗ trợ
kinh phí đào tạo theo chính sách của Đề án
1956, sau khi kết thúc khóa học có 13.911 người có việc làm phù hợp với
nghề đào tạo, đạt tỷ lệ 85%.
- Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ
công chức, viên chức nhà nước: thành phố đang triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý do Ủy ban nhân dân thành
phố quản lý đến năm 2020. Các
Sở, ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện
đang triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý do các Sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân
các quận, huyện quản lý đến năm 2020.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho
1000 Giám đốc doanh nghiệp: Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 2203/QĐ-UBND ngày 23/9/2015 về việc phê duyệt Kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo
giám đốc, quản trị doanh nghiệp giai giai đoạn 2015-2020 với
mục tiêu đào tạo được một đội ngũ chuyên gia, quản trị kinh doanh giỏi, thông
thạo tin học, pháp luật, ngoại ngữ, kiến thức hội nhập quốc tế, khoa học và
công nghệ, có năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả, dự kiến đến năm 2020 sẽ đào tạo được 180 Tổng Giám đốc, Giám
đốc theo chương trình toàn diện; 720 Phó Giám đốc, Quản đốc, Trưởng phòng được
đào tạo các chuyên ngành theo chương trình trung và ngắn hạn.
- Phát triển Trường Cao đẳng
nghề Công nghiệp, Bách nghệ, Duyên hải đạt trình độ đào tạo nghề của quốc tế: Các trường đã xây dựng
và tổ chức thực hiện Đề án đào tạo đội
ngũ lao động lành nghề, tài năng, chất lượng cao tại các trường cao đẳng nghề trên địa bàn thành phố. Các trường đã được phê duyệt nghề trọng điểm
(theo Quyết định 854/QĐ-BLĐTBXH) để đầu tư nhằm đảm bảo các điều kiện cho đào tạo nghề đạt chất lượng. Chủ động đầu tư về đội ngũ giáo
viên, xây dựng chương trình, giáo trình
cũng như mua sắm máy móc thiết bị đào tạo, xây dựng cơ sở
vật chất. Các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố đã tích cực mở rộng hợp
tác, liên kết trong nước và quốc tế trong đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng
viên, cán bộ nghiên cứu, cán bộ trình độ cao đẳng với các nước và vùng lãnh thổ
trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong đó có các nước phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc...
- Đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên và chương
trình giảng dạy: Các trường nghề, cơ sở dạy nghề của
thành phố được đầu tư xây dựng, trang bị máy móc thiết bị dạy nghề tương đối đồng bộ, hiện đại; 100% cơ sở dạy nghề đều thực hiện Chương
trình đào tạo theo chương trình khung do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban
hành. Quy mô hoạt động dạy nghề trên địa bàn thành phố
không ngừng mở rộng cả về số cơ sở dạy nghề và quy mô tuyển sinh dạy nghề. Các
cơ sở dạy nghề thuộc thành phố quản lý hiện có 43 cơ sở, trong đó, ngoài công lập là 17 cơ sở, chiếm 40%
tổng số cơ sở dạy nghề. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 65% năm 2010 lên 75%
năm 2015.
1.7. Thực hiện hiệu quả các giải
pháp huy động vốn cho phát triển nhân lực
- Thành phố đã triển khai thực hiện
02 dự án xây dựng ký túc xá tập trung cho sinh viên, cụ thể:
+ Dự án đầu tư xây dựng công trình Khu nhà ở sinh viên tập trung tại khu
Quán Nam (giai đoạn I) với tổng mức đầu tư 368.039 triệu đồng với quy mô xây dựng
01 khu nhà ở sinh viên tập trung 15 tầng, tổng diện tích sàn 29.642 m2
với 432 phòng ở và các công trình phụ trợ, hạ tầng kỹ thuật ngoài nhà; diện
tích toàn bộ dự án 24.451,45m2. Dự kiến dự án sẽ
hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng quý IV/2016.
+ Dự án đầu tư xây dựng Khu ký túc xá
sinh viên tại Trường Đại học Hải Phòng với tổng mức đầu tư: 320,632 tỷ đồng với
quy mô xây dựng 03 khối ký túc xá 8 tầng với 648 phòng, 01 khối ký túc xá 5 tầng,
02 nhà ăn 2 tầng và hạ tầng kỹ thuật. Đến nay, 02 khối nhà
ký túc xá 8 tầng với 360 phòng ở đảm
bảo chỗ cho 2.880 sinh viên, 01 nhà ăn 2 tầng và một phần hạ tầng kỹ thuật đã
hoàn thành, đưa vào sử dụng.
- Đối với các cơ sở dạy nghề do Bộ,
ngành trung ương quản lý hoạt động trên địa bàn thành phố, giai đoạn 2011-2015
đã tập trung đầu tư cho các nghề trọng điểm (theo Quyết định 854/QĐ-BLĐTBXH) tại
5 trường cao đẳng nghề với tổng kinh phí đầu tư là 164,5 tỷ đồng (đạt 65% mục tiêu đề ra) trong
đó có 08 nghề đạt cấp độ thế giới, 06 nghề
đạt cấp độ khu vực ASEAN và 07 nghề đạt cấp độ quốc gia. Đối với các cơ sở dạy
nghề do địa phương quản lý, giai đoạn 2011-2015 đã tập
trung cho các nghề trọng điểm tại 02 trường cao đẳng nghề và 05 trường trung cấp
nghề với tổng kinh phí là 73,5 tỷ đồng đạt 50% mục tiêu đề ra, trong đó có 01
nghề đạt cấp độ khu vực ASEAN và 13 nghề đạt cấp độ quốc gia.
- Để nâng cao chất
lượng đào tạo cho hệ thống Trung tâm dạy nghề, giai đoạn 2011-2015 nhà nước đã
đầu tư kinh phí để mua sắm thiết bị dạy nghề và xây dựng cơ sở vật chất với tổng kinh phí 33 tỷ đồng, riêng Trung tâm Dạy
nghề và Giáo dục thường xuyên huyện Vĩnh Bảo được đầu tư thành trung tâm kiểu mẫu.
Tổng kinh phí tự đầu tư của các cơ sở trong giai đoạn 2011-2015 khoảng 60 tỷ
đồng (đạt 45% mục tiêu đề ra) trong đó có 05 nghề đạt cấp độ thế giới,
03 nghề đạt cấp độ khu vực ASEAN và 03 nghề đạt cấp độ quốc gia.
- Thành phố đã tập trung ưu tiên quỹ
đất dành cho giáo dục - đào tạo, so với hiện trạng sử dụng đất năm 2010 (quỹ đất
cho giáo dục - đào tạo là 618 ha) đến nay diện tích đất đã tăng thêm 20ha, đảm
bảo chỉ tiêu được giao theo Nghị quyết 44/NQ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ về
quy hoạch đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất đầu kỳ (2011-2015) thành phố Hải
Phòng. Thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên
nghèo vay để trang trải chi phí học tập và sinh hoạt trong thời gian theo học tại
trường, tổng dư nợ đến năm 2015 là 355.190 triệu đồng với
20.194 học sinh, sinh viên.
1.3. Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
- Ủy
ban nhân dân thành phố đang triển khai xây dựng Đề
án Chính quyền điện tử nhằm tăng cường khả năng kết nối liên thông các hệ thống
thông tin trên quy mô rộng, góp phần tăng khả năng cung cấp các dịch vụ công trực
tuyến mức độ cao cho người dân và doanh nghiệp trên nền tảng
dữ liệu, thông tin tin cậy được chia sẻ
trên diện rộng giữa các cơ quan nhà nước, bảo đảm tính kế thừa thông tin, dữ liệu
hạ tầng, các hệ thống thông tin hiện có; chuyển tiếp linh hoạt, phù hợp theo điều
kiện thực tế. Xây dựng và tổ chức thực hiện Đề
án Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu, đánh giá thực trạng nhân lực khoa
học và công nghệ thành phố Hải Phòng.
- Triển khai xây dựng Quy hoạch phát
triển mạng lưới trường học, tập trung thực hiện chương trình nâng cấp cơ sở vật
chất trường lớp theo hướng đạt chuẩn quốc gia, tập trung đầu
tư phát triển mạng lưới trường, lớp phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội
thành phố và đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Đẩy mạnh
phát triển giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, duy trì và nâng cao tỷ lệ trẻ đến trường, đến năm 2015 huy động trẻ dưới 2 tuổi đến nhà trẻ đạt 40%; các cháu từ 3-5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt trên 90%; 100% trẻ
5 tuổi đi học mẫu giáo. Củng cố và duy trì phổ cập tiểu học
và trung học cơ sở đúng độ tuổi; ưu tiên hàng đầu cho đảm bảo, nâng cao chất lượng
dạy và học đáp ứng nhu cầu xã hội. Củng cố, sắp xếp, kiện toàn và nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
- Ngày 21/7/2015 Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành văn bản
hướng dẫn số 3502/UBND-NV về việc triển khai đánh giá, phân
loại cán bộ công chức, viên chức theo Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015
của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, yêu cầu
Giám đốc các Sở, ngành và tương đương; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các quận, huyện; Thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc thành phố: Tổ chức quán triệt, triển khai Nghị định nêu trên đến toàn thể cán bộ, công chức, viên
chức trong cơ quan, địa phương mình và đến các cơ quan, đơn vị trực thuộc và hướng
dẫn một số nội dung về thẩm quyền đánh giá cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo
đúng quy định, theo phân cấp hiện hành của thành phố.
- Công tác đào tạo, đào tạo nâng cao
trình độ chuyên môn đối với cán bộ y tế được triển khai hàng năm; nhiều cán bộ được cử đi đào tạo tại nước ngoài,
trong nước và đào tạo tại chỗ, từ năm 2011-2015 đã đào tạo bồi dưỡng 22 nghiên cứu sinh trong nước, 01 nghiên cứu sinh ở nước ngoài,
81 Cao học trong nước, 83 Bác sĩ chuyên khoa cấp II... Hệ thống y tế tư nhân trên địa bàn thành phố phát triển tương đối mạnh mẽ cả về số lượng
và chất lượng; chất lượng cán bộ, nhân
viên y tế ngày càng được nâng cao cả về
trình độ chuyên môn, năng lực và cơ cấu nhân lực theo quy định của Bộ Y tế.
2. Những tồn tại hạn chế
- Một số chương trình, đề án, dự án
ưu tiên phục vụ phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 (theo quy hoạch) khó có
khả năng thực hiện được như: Dự án thành lập trường Đại học
quốc tế; Phát triển trường cao đẳng nghề Vinashin đạt
trình độ đào tạo nghề của quốc tế, phấn đấu nâng cấp ít nhất 01 trường thành
trường Đại học kỹ thuật. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo (bao
gồm các các cơ sở giáo dục nghề nghiệp) chưa hình thành.
Việc đầu tư mở rộng và thành lập mới trường
học các cấp còn thấp do khó khăn về nguồn vốn.
- Kết
quả phát triển nhân lực khoa học và công nghệ của thành phố
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Một bộ phận bất cập về kiến
thức, năng lực và trình độ trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường, của sự
nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Thiếu cán bộ đầu ngành ở nhiều lĩnh vực
khoa học và công nghệ, thiếu chuyên gia công nghệ có trình
độ cao. Có sự mất cân đối về ngành nghề
đào tạo, đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu cả về chất lượng và số
lượng.
- Công tác đào tạo nghề cho người lao
động còn bất cập, việc làm cho người học nghề sau đào tạo tuy có tỷ lệ cao
nhưng không ổn định, bền vững. Ngân
sách nhà nước bố trí cho dạy nghề chưa tương xứng với yêu
cầu tăng quy mô và nâng cao chất lượng
đào tạo. Chất lượng lao động của Hải Phòng ở mức cao so với mặt bằng chung của
cả nước nhưng cơ cấu lao động qua đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.
- Việc quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ngành văn hóa, thể thao còn
phân tán và thiếu sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau trên cơ sở định hướng
chung về phát triển nhân lực cho thời kỳ dài hạn. Nhân lực đào tạo ở các cấp bậc chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đào tạo chưa gắn với yêu cầu của thị
trường lao động. Trình độ và chất lượng đào tạo văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao lạc hậu so với thế giới, chưa tiếp cận
được trào lưu phát triển nhân lực.
3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn
chế
- Một số cấp, ngành chưa thật sự chủ
động, tích cực trong việc rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý, khoa học công nghệ, lao động kỹ thuật và trên cơ sở quy định về tổ chức,
bộ máy, biên chế, nhu cầu, dự báo
phát triển để xây dựng, hoàn thiện quy hoạch, kế
hoạch phát triển nhân lực chất lượng
cao cho cấp, ngành mình. Chưa có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
khoa học và công nghệ; chưa có chính sách hỗ trợ
các tổ chức khoa học và công nghệ đào tạo,
đào tạo lại nhân lực.
- Tính quy hoạch, kế hoạch về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức còn nhiều bất cập. Nguồn vốn đầu tư cho
nâng cao chất lượng nhân lực, phát triển
các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học còn hạn chế. Thiếu
chủ động, tích cực trong hợp tác trong nước, quốc
tế trong lĩnh vực đào tạo phát
triển nhân lực chất lượng cao.
- Môi trường làm việc, chính sách cán
bộ chưa thực sự tạo động lực khuyến khích, phát huy năng lực,
cống hiến của cán bộ.
Trong công tác quản lý, đào tạo cán bộ còn ít cơ chế khuyến
khích, hỗ trợ, động viên để cán bộ có động lực theo học đúng chuyên môn, nghiệp vụ của ngành.
- Trong quá trình quản lý còn thiếu những quy định về cơ chế để phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản lý với
tổ chức đào tạo nhân lực và cơ sở sử dụng nhân lực. Thiếu cơ chế tạo ra sự cạnh tranh trong đào tạo và sử dụng nhân lực.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
ngành y tế còn dàn trải, chưa thực sự sâu sát với yêu cầu
nhiệm vụ, không đúng với vị trí đang làm việc; một số cán
bộ, công chức, viên chức đi học mang tính tự phát, chưa chủ động đào tạo theo
quy hoạch định hướng phát triển kỹ thuật
mới, kỹ thuật cao.
- Ngân sách nhà
nước bố trí cho dạy nghề chưa tương xứng với yêu cầu tăng quy mô và nâng cao chất
lượng đào tạo.
4. Giải pháp khắc phục những tồn tại
hạn chế
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội; thay đổi quan điểm, hành động và tâm lý xã hội tạo động lực phát triển nhân lực của thành phố; xác định phát triển nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cả
hệ thống chính trị và của toàn xã hội.
- Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu
quả các chương trình, đề án, dự án cụ thể phát triển nhân lực được nêu trong Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải
Phòng giai đoạn 2011-2020. Lồng ghép các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ và giải
pháp phát triển nguồn nhân lực vào Chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của các Sở, ngành, địa phương, đơn vị.
- Xây dựng môi trường làm việc khoa học,
hiện đại nhằm tạo động lực cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có
động lực, phát huy hết khả năng, sáng tạo trong công việc.
- Xây dựng cơ chế phối hợp và thống
nhất quản lý về nhân lực giữa các cấp ngành, địa phương, đơn vị trên địa bàn thành phố; Thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, quản lý sử dụng cán bộ, công chức. Mở rộng phương thức
đào tạo trong nước có sự tham gia của các chuyên gia nước
ngoài không chỉ ở các trường đại học mà cả ở các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ trên
địa bàn thành phố.
- Đổi mới phương thức đào tạo, xác định
rõ mục tiêu, quy mô, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo phù hợp với mục tiêu, định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố và định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, sản
phẩm chủ lực của thành phố. Thực hiện sắp
xếp hệ thống trường chuyên về
từng cấp đào tạo đại học, cao đẳng và trung cấp; gắn kết với
nhu cầu thực tế của xã hội theo ngành, nghề và
cấp trình độ đào tạo. Hình thành và phát triển
hệ thống đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao bảo đảm tiêu chuẩn nghề quốc gia, khu vực và quốc tế. Xác định khung chương trình
đào tạo phù hợp, có chất lượng phù hợp
nhu cầu công việc của xã hội và các doanh nghiệp. Hạn chế việc đào tạo tự phát
gây tình trạng thừa - thiếu lao động và gia tăng thất nghiệp...
- Nâng cao năng lực đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục thuộc các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông. Khuyến
khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, hỗ trợ cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở
giáo dục phổ thông.
- Xây dựng và ban hành chính sách cụ
thể để hỗ trợ đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao của ngành y tế. Có cơ chế chính sách để khuyến khích, động viên đối với các
Bác sĩ làm việc tại các quận, huyện, trạm y tế xã, phường và các đơn vị thực hiện
chức năng y tế dự phòng nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe của nhân dân.
- Tăng cường hợp tác quốc tế; đẩy mạnh
cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành
phố, khuyến khích phát triển các ngành, lĩnh vực có hàm lượng
công nghệ cao... Nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước của Sở Giáo dục
và Đào tạo, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, đặc biệt là bộ phận Thanh tra của
hai ngành này, nhằm chấn chỉnh, nâng cao chất lượng của công tác đào tạo gắn với sử dụng lao động.
- Ưu tiên bố trí ngân sách hàng năm
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề trên địa
bàn thành phố.
IV. Đề xuất kiến
nghị của thành phố với Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương
- Đề nghị Chính phủ
nghiên cứu, bổ sung một số chính sách đối với cán bộ nữ; đổi mới
chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức,
viên chức; chế độ đặc thù đối với cán bộ, công chức, viên chức thành phố Hải
Phòng, thành phố đô thị loại I cấp quốc
gia.
- Đề nghị Chính phủ sớm ban hành các
chính sách liên quan đến phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở
và trung học phổ thông; có chính sách kết
nối giữa giáo dục phổ thông với thị
trường lao động. Ban hành các chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học, ứng
dụng và triển khai công nghệ để phục vụ nhu cầu đổi mới, áp dụng khoa học công
nghệ trong phát triển doanh nghiệp. Có cơ chế chính sách
khuyến khích giảng viên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, giảng
viên đi nghiên cứu sinh.
- Đề nghị Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội nghiên cứu xây dựng, ban hành Khung Chương trình, Chương trình đào tạo
cho tất cả các nghề theo hướng tiếp cận công nghệ tiên tiến.
Tăng cường kinh phí từ các nguồn cho các cơ sở dạy nghề, đầu tư nghề trọng điểm
cho các trường để đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
- Đề nghị Bộ Y tế sửa đổi và bổ sung
hoàn thiện các chính sách về y tế, đặc biệt các chính sách nhằm tăng cường nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa y tế,
nâng cao thu nhập cho cán bộ y tế, phụ cấp thâm niên ngành y tế, phụ cấp tai nạn
rủi ro nghề nghiệp...
- Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng
hệ thống thông tin về người học, tập hợp từ thông tin của tất cả các trường trong hệ thống giáo dục để người sử dụng lao động
có thể truy cập kiểm tra tính xác thực
của văn bằng, chứng chỉ nhằm khắc phục cơ bản vấn nạn bằng giả hiện nay.
- Vấn đề thể lực và tầm vóc của người
lao động cần được Chính phủ quan tâm hơn nữa để có thể đáp ứng được những yêu cầu
của nền sản xuất công nghiệp cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy,
cần phải có biện pháp thiết thực để bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe và nâng cao thể lực toàn dân.
- Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ gồm
7 tỉnh và thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, đây là vùng kinh tế năng động của miền
Bắc và cả nước, ưu thế lớn nhất của vùng kinh tế này là
nhân lực được đào tạo tốt, điểm thi vào các trường đại học, cao đẳng và tỷ lệ
sinh viên trên 01 vạn dân cao nhất cả nước, có nhiều trường đại học, cao đẳng,
dạy nghề, tuy nhiên chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ mới chỉ đề cập
đến liên kết phát triển kinh tế vùng mà chưa rõ nét chính sách về liên kết đào
tạo phát triển nhân lực, phân công lao động và thực hiện chuyên môn hóa sâu giữa
các địa phương để có thể khai thác hiệu quả nguồn nhân lực và các thế mạnh khác
của mỗi địa phương và toàn vùng, bảo đảm giữa lao động và các yếu tố sản xuất khác./.
Nơi nhận:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(để báo cáo);
- CT, các PCT UBNDTP;
- Các Sở, ban, ngành thành phố;
- UBND các quận, huyện;
- CPVP;
- Phòng: VXNC, KTGSTĐKT;
- CV; GD;
- Lưu: VT.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Xuân Bình
|