BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG
HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 022-PC
|
Hà Nội, ngày 07
tháng 12 năm 1964
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG
DẪN THI HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ BAN HÀNH KÈM THEO QUYẾT ĐỊNH
SỐ 65-CP NGÀY 17-4-1964 VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH VẬN TẢI
Để khắc phục những thiếu sót trước đây về công tác lập kế hoạch
vận tải, nhằm đưa việc lập kế hoạch vận tải đi vào nề nếp để công tác vận tải
phục vụ tốt cho sản xuất, xây dựng, lưu thông hàng hóa và quốc phòng, Hội đồng
Chính phủ đã ra Quyết định số 65-CP ngày 17-4-1964 ban hành những quy định về
công tác lập kế hoạch vận tải. Điều 9 trong bản quy định của Hội đồng Chính phủ
quy định: “Ông Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, ông Bộ trưởng Bộ Giao thông
vận tải căn cứ vào trình tự lập kế hoạch của Nhà nước quy định thời gian cụ thể
lập kế hoạch vận tải và ban hành các biểu mẫu để hướng dẫn các ngành trong việc
lập kế hoạch vận tải ”.
Thi hành điều 9 trong bản quy định nói trên của Hội đồng Chính
phủ, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Giao thông vận tải ban hành kèm theo thông
tư này các biểu mẫu cần thiết, quy định thời gian cụ thể lập kế hoạch vận tải
và hướng dẫn thi hành bản quy định việc lập kế hoạch vận tải như sau:
Chương
I:
CÁC
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC LẬP KẾ HOẠCH VẬN TẢI
Điều 1 trong bản quy định của Hội đồng Chính phủ quy định: “Lập
kế hoạch vận tải phải bảo đảm những nguyên tắc sau đây:
a) Bảo đảm kịp thời yêu cầu của sản xuất, xây dựng cơ bản và
kinh doanh nhằm phục vụ sản xuất phát triển với tốc độ cao. Chú ý đúng mức các
yêu cầu về thời gian, về khối lượng vận chuyển, đồng thời tránh những căng thẳng
không cần thiết về vận tải, giảm bớt hệ số bất bình hành, nâng cao từng bước
tính liên tục và đều đặn của công tác vận tải;
b) Phân phối luồng hàng thích ứng với màng lưới giao thông vận
tải hiện có, sử dụng hợp lý các loại phương tiện vận tải đường sắt, đường bộ,
đường sông, đường biển kể cả các loại phương tiện cơ giới và thô sơ;
c) Phù hợp với tình hình thời tiết, thời vụ;
d) Có dự trữ về khả năng phương tiện vận tải để đáp ứng tình
hình biến động hoặc mất cân đối xẩy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch”.
Liên Bộ hướng dẫn một số điểm cụ thể về các nguyên tắc mà bên
vận tải và các chủ hàng cần quán triệt trong việc lập kế hoạch vận tải như sau:
a) Bên vận tải, khi cộng tác với các chủ hàng lập kế hoạch
vận tải phải xuất phát từ quan điểm bảo đảm hoàn thành toàn bộ kế hoạch của Nhà
nước và yêu cầu vận chuyển hàng hóa của chủ hàng trong mọi trường hợp cần thiết
để tránh tư tưởng chỉ muốn thuận tiện cho kế hoạch của ngành mình, đơn vị mình,
không thấy phần trách nhiệm của chủ hàng đối với kế hoạch của Nhà nước hoặc đối
với những trường hợp đột xuất. Do đó mà hết sức cố gắng trong mọi trường hợp,
khắc phục mọi khó khăn có thể để đảm bảo nguyên tắc vận tải kịp thời hạn để phục
vụ yêu cầu của sản xuất, xây dựng cơ bản và lưu thông hàng hoá nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các ngành sản xuất phát triển nhanh.
Bên chủ hàng, khi cộng tác với bên vận tải lập kế hoạch
vận tải phải thấy rằng kế hoạch vận tải phải phụ thuộc vào kế họach của nhiều
ngành khác. Do đó công tác lập kế hoạch của bên vận tải có mặt khó khăn của nó,
mà cố gắng xây dựng khối lượng vận chuyển cho chính xác, phân bổ kế hoạch đều
hoà cho từng thời gian để đóng góp vào việc cân đối kế hoạch chung của bên vận
tải và để tránh những căng thẳng không cần thiết cho bên vận tải như không bảo
đảm khối lượng hàng, không bảo đảm thời gian, tháng thì yêu cầu vận chuyển dồn
dập, tháng thì không có hàng. Đồng thời, bên chủ hàng cũng phải hết sức tránh
những yêu cầu lập kế hoạch cao hơn thực tế, hoặc không tính toán kỹ trước,
không dự trữ vật tư hay hàng hoá cần thiết cho sản xuất, xây dựng và lưu thông
hàng hóa được liên tục và kịp thời, gây nên tình trạng khẩn trương, đột xuất
trong vận tải mà thật ra có thể điều hoà được. Hệ số không điều hòa quá cao,
gây nên tình trạng trong vận tải khi thì không đủ phương tiện đảm bảo vận chuyển
hàng hóa, khi thì thừa phương tiện mà thiếu hàng. Nếu phải thỏa mãn yêu cầu vận
chuyển của chủ hàng trong trường hợp như trên thì phải dự trữ cho vận tải nhiều
phương tiện vận tải mà thật ra không cần thiết và như vậy Nhà nước phải đầu tư
nhiều, gây lãng phí, ảnh hưởng đến giá thành vận tải, giá thành sản xuất, xây dựng,
lưu thông, ảnh hưởng đến chính sách cải thiện đời sống nhân dân. Cho nên tất cả
các ngành kinh tế quốc dân, bên chủ hàng cũng như bên vận tải cần phấn đấu nâng
cao chất lượng công tác kế hoạch để giảm bớt dần hệ số bất bình hành đến mức tối
thiểu, làm cho công tác vận tải dần dần được liên tục và đều đặn.
b) Phân phối luồng hàng thích ứng với màng lưới giao thông vận
tải hiện có, trước hết, các ngành chủ hàng khi bố trí luồng hàng, bố trí cơ sở
khai thác, sản xuất, địa điểm kho hàng, cần nghiên cứu tình hình màng lưới giao
thông vận tải hiện có hoặc đang hình thành để thuận tiện cho việc tận dụng các
khả năng giao thông vận tải tránh gây khó khăn cho bên vận tải, đồng thời tránh
phát triển các đường chuyên dùng và lực lượng vận tải chủ lực không cần thiết.
Ngoài ra, trong công tác vận tải, các ngành chủ hàng còn cần lưu ý tránh những
hiện tượng vận tải vòng, chéo, ngược chiều và các hiện tượng bất hợp lý khác.
Về phía giao thông vận tải, trong phạm vi chức năng của mình,
cần bàn bạc với bên chủ hàng để phân phối các luồng hàng vận chuyển một cách có
lợi nhất, vận tải rẻ nhất, phát huy cao độ năng lực phục vụ của màng lưới giao
thông vận tải hiện có, phù hợp với đặc điểm tính năng của các loại phương tiện
vận tải đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, cơ giới và thô sơ, đồng thời
quan tâm đúng mức đến tính chất của các loại hàng đặc biệt cần vận chuyển nhanh
như hàng tươi, hàng mau hỏng v.v…Trong trường hợp khả năng vận tải của một
phương thức vận tải nào đó có hạn, bên vận tải có thể sử dụng một phương thức vận
tải khác cho thích ứng với khả năng màng lưới hiện có. Tuỳ từng trường hợp cụ
thể, bên vận tải có thể từ chối những vận chuyển bất hợp lý mà xét ra có thể
tránh được.
c) Lập kế hoạch vận tải phải bảo đảm phù hợp với thời tiết và
thời vụ là một nguyên tắc cần lưu ý đầy đủ, vì nền kinh tế nước ta về căn bản
còn là kinh tế nông nghiệp, trong sản xuất cũng như trong vận tải còn lệ thuộc
nhiều vào thiên nhiên. Ngay trong sản xuất công nghiệp, bộ phận dùng nguyên liệu
là sản phẩm nông nghiệp cũng mang tính chất thời vụ. Do đó mà có hiện tượng vận
tải mùa đối với những mặt hàng nông nghiệp hoặc mặt hàng công nghiệp phục vụ
nông nghiệp hoặc mặt hàng công nghiệp dùng nguyên liệu là là sản phẩm nông nghiệp.
Đồng thời cũng có hiện tượng vận tải phải tranh thủ mùa nước trước những tháng
lũ bão trong vận tải đường thuỷ hoặc tranh thủ mùa khô trong vận tải ô-tô trên
những tuyến đường miền núi. Khi lập kế hoạch vận tải, bên vận tải cần chú ý
đúng mức yêu cầu của sản xuất thời vụ, huy động đầy đủ lực lượng vận tải để đảm
bảo sản xuất thời vụ, tranh thủ thời tiết thuận lợi. Trong những thời vụ không
căng hoặc thời tiết không thuận lợi cho vận tải, bên vận tải cần tranh thủ sửa
chữa phương tiện vận tải. Các ngành chủ hàng thì cần cố gắng vận chuyển tư liệu,
chuẩn bị trước cho sản xuất thời vụ và tranh thủ những mùa có thời tiết thuận lợi,
có kho tàng dự trữ tư liệu và hàng hóa, đặc biệt chú ý những mặt hàng thời vụ
mâu thuẫn với thời tiết vận chuyển, sản xuất thời vụ đang cần nhưng trong thời
gian ấy thời tiết lại không thuận lợi cho vận chuyển để có hàng bảo đảm cho sản
xuất.
d) Dự trữ về khả năng phương tiện vận tải để đáp ứng tình hình
biến động hoặc mất cân đối xảy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch thuộc
trách nhiệm của ngành giao thông vận tải. Dự trữ phương tiện vận tải có hai phần:
- Dự trữ cho những trường hợp không điều hòa của kế hoạch để đảm
bảo vận tải không ngừng trệ;
- Dự trữ cho những trường hợp đột xuất ngoài kế hoạch của sản
xuất, thời tiết hoặc biến động mới của tình hình.
Không điều hoà trong vận tải là yêu cầu cần phấn đấu để giảm đến
hệ số tối thiểu, nhưng vẫn là vấn đề tồn tại không thể tránh hết được. Cho nên,
mỗi đơn vị, xí nghiệp vận tải cần có lực lượng dự trữ cho những trường hợp
không điều hòa và đột xuất.
Tuỳ theo tình hình khối lượng hàng hóa trong năm kế hoạch để
quy định những tỷ lệ trên cho vận tải để chuẩn bị phương tiện dự trữ.
Chương
II:
TRÁCH NHIỆM LẬP KẾ HOẠCH VẬN TẢI
Trách nhiệm lập kế hoạch vận tải đã được quy định cụ thể ở các
điều 2, 3 và 4 trong bản quy định của Hội đồng Chính phủ. Dưới đây liên Bộ quy
định các biểu mẫu cần thiết và hướng dẫn cụ thể cách lập kế hoạch vận tải.
a) Kế hoạch nhu cầu vận tải:
Kế hoạch nhu cầu vận tải do các ngành có hàng vận chuyển lập.
Nội dung của kế hoạch là bảng khối lượng hàng hóa yêu cầu vận chuyển. Khối lượng
hàng hóa yêu cầu vận chuyển tính bằng hai chỉ tiêu:
- Khối lượng hàng hóa vận chuyển;
- Khối lượng hàng hóa luân chuyển;
Khối lượng hàng hóa vận chuyển tính bằng tấn (tấn thực tế,
tính cả bì), ký hiệu bằng T.
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tính bằng tấn/cây số, ký hiệu
bằng T/km (tấn/cây số = trọng lượng thực tế của hàng hóa vận chuyển tính cả bì
nhân với số cây số quãng đường cần vận chuyển).
Tất cả các kế hoạch nhu cầu vận tải cần tính cụ thể khối lượng
vận chuyển từng loại hàng của 23 loại (quy định trong công văn số 769-KH ngày
08-02-1957 của Bộ Giao thông và bưu điện) có ghi chính xác nơi gửi hàng đi và
nơi nhận hàng đến (tên ga, bến, cảng, kho). Kế hoạch nhu cầu vận tải gồm có kế
hoạch hàng năm, hàng quý và hàng tháng lập riêng cho từng phương thức vận tải:
đường sắt, đường sông, đường ven biển và đường biển, đường ô-tô.
Kế hoạch nhu cầu vận tải hàng năm (biểu mẫu số 1)[1]
Trong kế hoạch năm tính đủ 23 loại hàng: than, xăng dầu,quặng
kim khí, máy móc dụng cụ, vật liệu kim khí, quặng apatite và phốt phát, phân
bón, hoá chất, xi-măng, đất đá, cát sỏi, vôi, gạch, ngói, gỗ và vật liệu gỗ,
lâm thổ sản, nông sản, thóc gạo, ngô, muối, thực phẩm, vải, bông và nguyên liệu
dệt, bách hoá, súc vật, các loại hàng khác. Đối với từng loại, cần ghi rõ các
luồng vận chuyển.
Trong kế hoạch năm, cần dự tính thực hiện năm trước và dự tính
yêu cầu vận chuyển năm kế hoạch phân ra các quý.
Kế hoạch nhu cầu vận tải hàng quý và hàng tháng (biểu mẫu
số 2 và số 3)1
Cũng như kế hoạch năm, phải tính đủ 23 loại hàng và cụ thể các
luồng hàng. Đối với kế hoạch quý, cần có dự tính thực hiện quý trước và dự tính
yêu cầu vận chuyển của quý kế hoạch có phân ra các tháng trong quý. Đối với kế
hoạch tháng thì chỉ cần dự tính yêu cầu của tháng kế hoạch và phân ra từng 10
ngày.
Tinh thần của việc phân chia khối lượng yêu cầu ra từng quý
trong kế hoạch năm, từng tháng trong kế hoạch quý, từng 10 ngày trong kế hoạch
tháng là để thấy được tiến độ từng quý trong kế hoạch năm và làm cho vận
tải được tương đối điều hoà và cân đối lực lượng trong mỗi năm, quý và tháng.
Tuy nhiên, đối với các bản kế hoạch sơ bộ có thể chưa phân chia khối lượng yêu
cầu ra từng quý trong kế hoạch năm.
Kèm theo bản kế hoạch nhu cầu vận tải hàng năm, các ngành chủ
hàng cần lập bản thuyết minh cơ sở tính toán cho những mặt hàng có khối lượng lớn
trong cấu thành hàng hóa vận tải và việc tổ chức tốt xấu vận chuyển những mặt
hàng này ảnh hưởng đến việc thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch kinh tế
quốc dân.
Trong các bản kế hoạch nhu cầu vận tải năm quý, cũng như
tháng, các ngành chủ hàng cần chú ý ghi chữ thật rõ quy cách, trọng lượng và số
lượng những thiết bị máy móc cần phải chuẩn bị những phương tiện đặc biệt để vận
chuyển và xếp dỡ.
Mỗi bản kế hoạch nhu cầu vận tải phải nêu tổng số yêu cầu, phần
yêu cầu bên vận tải phụ trách và phần do ngành chủ hàng tự đảm nhiệm bằng
phương tiện vận tải chủ lực (ghi vào cột bị chú)
b) Kế hoạch vận tải của các lực lượng vận tải chủ lực.(biểu
mẫu số 4 và 5)[2]
Ngoài bản kế hoạch nhu cầu vận tải, các ngành có hàng nhưng đồng
thời có lực lượng vận tải chủ lực tự đảm nhiệm một phần hay toàn bộ khối lượng
nhu cầu vận chuyển, còn phải lập kế hoạch vận tải của các lực lượng chủ lực của
mình.
Lực lượng vận tải chủ lực là các tàu, xe làm công tác vận tải
hàng hoá từ nơi này đến nơi khác trên các đường vận tải công cộng, trong phạm
vi nội thành, địa phương hay giữa các địa phương, không kể các loại tầu, xe vệ
sinh, công trình, chuyên dùng phục vụ sản xuất trong nội bộ hoặc ngoài xí nghiệp
(như tầu đánh cá, ô-tô trong khâu khai thác than, vận xuất gỗ v.v…)
Ngành có lực lượng vận tải chủ lực phải làm hai bản kế hoạch vận
tải.
- Khối lượng hàng hóa vận chuyển, làm theo các biễu mẫu số 1,
2, 3 tuỳ theo loại kế hoạch năm, quý hay tháng. Trong các biểu mẫu cần
ghi khối lượng hàng hóa do lực lượng vận tải chủ lực đảm nhiệm;
- Chỉ tiêu tổng hợp vận tải của lực lượng chủ lực, lập theo
các biểu mẫu số 4 và số 5, riêng cho từng phương thức vận tải đường ô-tô hay đường
sông.
c) Kế hoạch hàng hóa xuất nhập khẩu:
Kế hoạch hàng hóa xuất nhập khẩu cũng nằm trong kế hoạch vận tải
hàng hóa, gồm phần xuất nhập khẩu bằng đường sắt liên vận quốc tế và phần xuất
nhập bằng đường biển qua cảng.
Kế hoạch xuất nhập do ngành ngoại thương lập, cũng theo các biễu
mẫu số 1, 2, 3 tuỳ theo loại kế hoạch năm, quý hay tháng. Trong kế hoạch ghi rõ
ga đi, ga đến nếu xuất nhập bằng đường sắt, hoặc cảng đi, cảng đến nếu xuất nhập
bằng đường biển. Mặt khác, cần chú ý ghi chú đầy đủ quy cách, trọng lượng,
số lượng những thiết bị to, nặng.
d) Kế hoạch thuê tầu xe vận tải (biểu mẫu số 6)1
Ngoài các loại kế hoạch vận tải nói trên, các ngành kinh tế
(cũng có thể là ngành sư nghiệp) trong khâu sản xuất của mình, vì một lý do nào
đó, có thể lập yêu cầu thuê tàu, xe vận tải để chuyên dùng trong một thời gian
nhất định. Thí dụ: Mỏ than Mạo-khê thuê ô-tô để chuyển than trong nội bộ
xí nghiệp, từ nơi khai thác ra cầu, bến; nhà máy giấy thuê tàu kéo làm bè; thuê
tàu phục vụ di dân, phục vụ quốc phòng…
Trong các trường hợp trên, các ngành cần lập kế hoạch thuê tàu
xe, ghi rõ loại và lượng tàu xe, dùng vào việc gì, khu vực hoạt động, thời gian
thuê, theo biểu mẫu số 6. Kế hoạch thuê tàu, xe lập riêng cho từng phương
thức vận tải cần thuê, làm hàng năm, quý, và tháng. Đơn vị thời gian thuê, đối
với kế hoạch năm tính số tháng, đối với các kế hoạch quý, tháng thì tính số
ngày.
e) Điều chỉnh kế hoạch (biểu mẫu số 7) (1).
Đoạn 2, điều 4 trong bản quy định của Hội đồng Chính phủ quy định:
“Sau khi kiểm điểm kế hoạch 6 tháng đầu năm, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Kế
hoạch các tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương có nhiệm vụ giúp đỡ các ngành
dự kiến điều chỉnh lại kế hoạch vận tải 6 tháng cuối năm nếu thấy cần thiết để
bảo đảm hoàn thành chỉ tiêu vận tải cả năm của Nhà nước.”
Điều 8 trong bản quy định của Hội đồng Chính phủ quy định:
“Qua 6 tháng đầu năm thực hiện kế hoạch, bên chủ hàng hoặc bên vận tải nào thấy
cần thiết phải điều chỉnh kế hoạch cho 6 tháng cuối năm thì phải chủ động cùng
nhau bàn bạc thương lượng”.
Để việc điều chỉnh kế hoạch hàng năm tiến hành được tốt, dưới
đây liên Bộ hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể:
Mỗi năm, sau 6 tháng đầu thực hiện kế hoạch, có thể có hai trường
hợp được điều chỉnh kế hoạch:
- Do tiến độ thực hiện kế hoạch có thay đổi, cần điều chỉnh kế
hoạch 6 tháng cuối năm thì bên chủ hàng và bên vận tải có thể tiến hành
bàn bạc thương lượng điều chỉnh kế hoạch vận tải. Nhưng chỉ được điều chỉnh nếu
yêu cầu điều chỉnh không ảnh hưởng đến chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã công bố;
- Do biến động mới của tình hình kinh tế quốc dân, do Nhà nước
thay đổi chỉ tiêu kế hoạch đã ban hành và có chỉ thị điều chỉnh kế hoạch toàn
năm.
Kế hoạch điều chỉnh lập theo biểu mẫu số 7, riêng cho từng
phương thức vận tải, ghi đầy đủ 23 loại hàng đồng thời chi tiết các luồng vận
chuyển.
Sau khi đã điều chỉnh kế hoạch, chủ hàng vẫn phải tiếp tục lập
kế hoạch quý, tháng như đã quy định.
Lập kế hoạch nhu cầu vận tải hàng năm, hàng quý, hàng tháng và
điều chỉnh kế hoạch đúng biểu mẫu, gửi đúng thời hạn đã quy định, thuyết minh
cơ sở tính toán là nhiệm vụ của các ngành có hàng cần vận chuyển, hoặc cần thuê
tầu xe, kể cả kế hoạch vận tải bằng lực lượng chủ lực của các ngành có phương
tiện chủ lực.
Tuy nhiên, về phía bên vận tải, ngành giao thông vận tải một mặt
lấy bản kế hoạch nhu cầu vận tải của các ngành chủ hàng làm cơ sở, nhưng mặt
khác phải tiến hành điều tra kinh tế, tự mình cũng phải dự kiến các yêu cầu để
có thể chủ động dự thảo kế hoạch phát triển giao thông vận tải. Bên vận tải cần
chủ động gặp bên chủ hàng tìm hiểu các mặt cần thiết cho việc dự thảo kế hoạch
của mình, đồng thời giúp đỡ các ngành chủ hàng dự tính và lập biểu kế hoạch nhu
cầu vận tải như đã nói ở điều 3 của bản quy định. Ngược lại, bên chủ hàng cần cung
cấp cho bên vận tải những số liệu và tài liệu cần thiết (số liệu kinh tế, sản
xuất, phân phối …), thuyết minh các bản kế hoạch nhu cầu vận tải và cộng tác chặt
chẽ với bên vận tải để việc lập kế hoạch vận tải được tốt, như đã nói ở điều 2
của bản quy định.
Ngành giao thông vận tải các cấp, sau khi nhận được kế hoạch
nhu cầu vận tải của các ngành chủ hàng, cần tiến hành nghiên cứu ngay, kết hợp
với tình hình kinh tế đã điều tra được và nhiệm vụ chức năng của mình, đề xuất
ý kiến, trao đổi với bên chủ hàng để thống nhất ý kiến. Nếu hai bên không nhất
trí thì thi hành theo điều 4 của bản quy định của Hội đồng Chính phủ.
Ủy ban kế hoạch các cấp cần đôn đốc các ngành chủ hàng lập và
gửi kế hoạch nhu cầu cho ngành giao thông vận tải đúng biểu mẫu và thời hạn đã
quy định, đồng thời tích cực giúp đỡ bên chủ hàng cũng như bên vận tải cùng cấp
trong việc lập kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch vận tải, như đã quy định ở điều
4 của bản quy định.
Chương
III:
THỜI
HẠN LẬP KẾ HOẠCH VÀ ĐIỀU CHỈNH KẾ HOẠCH VẬN TẢI
Các bước lập kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch năm và thời hạn lập
kế hoạch hàng quý, hàng tháng đã được quy định ở các điều 5, 6, 7, 8 trong bản
quy định của Hội đồng Chính phủ. Dưới đây liên Bộ quy định thời hạn cụ thể và
việc lập và điều chỉnh kế hoạch năm và hướng dẫn thêm một số điểm cần thiết.
a) Kế hoạch năm.
Về kế hoạch năm, điều 5 trong bản quy định của Hội đồng Chính
phủ quy định: “Khi có chỉ thị và số kiểm tra lập kế hoạch của Nhà nước, bên có
hàng, trong khi lập kế hoạch sản xuất, xây dựng và kinh doanh phải cùng với bên
vận tải trao đổi việc lập kế hoạch vận tải.
Sau khi trao đổi, bên chủ hàng phải gửi kế hoạch sơ bộ cho bên
vận tải. Khi chính thức gửi kế hoạch sản xuất hay kế hoạch lưu chuyển hàng hóa
cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đồng thời cũng chính thức gửi kế hoạch vận tải
cho bên vận tải cấp tương đương”.
Dưới đây liên Bộ quy định các thời hạn cụ thể về việc lập kế
hoạch và cách gửi kế hoạch.
Để chuẩn bị cho mỗi kỳ kế hoạch năm, ở trung ương các Bộ, các
cơ quan ngang Bộ, các Tổng cục trực thuộc Hội đồng Chính phủ có hàng vận chuyển
đều phải lập kế hoạch nhu cầu vận tải gửi cho Bộ Giao thông vận tải (1 bản) đồng
gửi cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (1 bản) theo đúng các biểu mẫu đã nói ở chương
II. Khi cần điều chỉnh kế hoạch cùng làm như. Thời gian cụ thể của việc lập và
gửi kế hoạch nhu cầu vận tải năm ấn định là tháng 8 hàng năm thì các ngành chủ
hàng gửi kế hoạch sơ bộ cho năm sau, tháng 11 thì gửi kế hoạch chính thức.
Yêu cầu điều chỉnh nhu cầu vận tải năm phải gửi vào tháng 6 của
năm thực hiện.
Ở các địa phương. Cũng trong thời gian quy định trên đây, các
Sở, Ty, xí nghiệp, công ty, công, nông lâm trường (không kể là thuộc trung ương
hay địa phương quản lý) v.v… có hàng vận chuyển, lập và gửi kế hoạch sơ bộ, kế
hoạch chính thức hoặc kế hoạch điều chỉnh về nhu cầu vận tải cho các Sở, Ty
Giao thông vận tải địa phương (1 bản) đồng gửi cho Ủy ban Kế hoạch thành, tỉnh
(1 bản). Các Sở, Ty Giao thông vận tải, sau khi nhận được các bản kế hoạch nhu
cầu vận tải của bên chủ hàng sẽ căn cứ vào bảng phân cấp luồng hàng vận chuyển
của Bộ Giao thông vận tải, một năm lập kế hoạch vận tải cho địa phương mình, mặt
khác chuyển báo lượng và luồng hàng cho các Sở, Ty Giao thông vận tải bạn và
các quốc doanh vận tải trực thuộc trung ương, các cảng đã được phân cấp phụ
trách các luồng hàng ấy, đồng thời thông báo cho cơ quan chủ hàng và báo cáo
lên Ủy ban Kế hoạch địa phương và Bộ Giao thông vận tải.
Trước, trong và sau thời gian này, bên chủ hàng và bên vận tải
cần tiến hành trao đổi, giúp đỡ nhau để lập kế hoạch được tốt và đúng hạn như
đã nói ở các phần trên của thông tư này.
Một điểm cần chú ý là đồng thời với các Bộ, các Tổng cục ở
trung ương lập kế hoạch nhu cầu vận tải gửi cho Bộ Giao thông vận tải, thì các
xí nghiệp, công nông lâm trường trực thuộc trung ương đóng ở các địa phương
cũng phải lập kế hoạch nhu cầu vận tải gửi cho các Sở, Ty Giao thông vận tải địa
phương mình đóng, đồng gửi lên Bộ hoặc Tổng cục chủ quản để thẩm hạch. Thí dụ:
Trong lúc Bộ Công nghiệp nặng lập và gửi kế hoạch nhu cầu vận tải của nhà
máy xi-măng Hải-phòng cho Bộ Giao thông vận tải thì nhà máy xi-măng Hải-phòng
cũng lập kế hoạch nhu cầu vận tải của nhà máy mình gửi cho Sở Giao thông vận tải
Hải-phòng đồng gửi Bộ Công nghiệp nặng. Các Sở, Ty, công ty, công nông, lâm trường,
xí nghiệp chủ hàng trực thuộc địa phương lập và gửi kế hoạch nhu cầu vận tải
cho các Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương về tất cả các loại hàng trên các
luồng vận chuyển có liên quan đến kinh tế địa phương; vận tải trong địa phương
hay luân chuyển ngoài địa phương;
b) Kế hoạch hàng quý, hàng tháng
Điều 6 trong bản quy định của Hội đồng Chính phủ quy định:
“Trước 20 ngày của quý sắp đến, bên chủ hàng gửi kế hoạch vận tải hàng hóa của
quý ấy cho bên vận tải”. Vậy đúng thời hạn quy định trên đây, ở trung ương các
Tổng cục, Cục trực thuộc các Bộ hoặc trực thuộc các Tổng cục độc lập gửi trực
tiếp một bản kế hoạch cho Tổng cục đường sắt, các Công ty vận tải trung ương
(đường ô-tô, đường sông, đường biển các cảng) các Sở, Ty Giao thông vận tải nhận
vận chuyển hàng hóa cho ngành mình theo phân cấp luồng hàng vận tải như đã ghi
trong kế hoạch năm và đã ký kết hợp đồng vận tải cho năm kế hoạch. Ở địa
phương, các Sở, Ty, công ty, xí nghiệp, công, nông, lâm trường chủ hàng (trực
thuộc trung ương cũng như địa phương) gửi trực tiếp một bản kế hoạch cho Sở, Ty
Giao thông vận tải các quốc doanh vận tải trực thuộc trung ương (bao gồm cả Tổng
cục đường sắt, các cảng) nhận vận chuyển hàng hoá cho mình như đã ghi trong kế
hoạch năm và đã ký kết hợp đồng vận tải cho năm kế hoạch. Riêng đối với kế hoạch
nhu cầu vận tải hàng quý về cảng đường sông, đường biển, đường ô-tô thì các
ngành chủ hàng gửi cho các cảng, các Công ty vận tải, các Sở Ty Giao thông vận
tải đồng thời phải gửi cho các Cục vận tải đường thủy và đường bộ một bản.
Về kế hoạch tháng, điều 7 trong bản quy định của Hội đồng
Chính phủ quy định: “Trước 10 ngày của tháng sắp đến, bên chủ hàng gửi kế hoạch
vận tải hàng hóa của tháng ấy cho bên vận tải (chỉ áp dụng cho các đơn vị cơ sở)”.
Quy định như thế có nghĩa là, trước 10 ngày mỗi tháng, các đơn vị cơ sở, một
bên là đơn vị trực tiếp gửi hàng vận chuyển lập kế hoạch nhu cầu vận tải trong
tháng gửi cho một bên là đơn vị trực tiếp nhận hàng vận chuyển. Và trên cơ sở ấy,
hai bên cùng nhau ký kết hợp đồng vận tải cụ thể cho tháng kế hoạch.
Công tác lập kế hoạch vận tải là một công tác phức tạp, khó
khăn. Kế hoạch vận tải phụ thuộc các kế hoạch sản xuất, xây dựng, lưu thông
hàng hóa đồng thời ngành vận tải cũng cần những tư liệu sản xuất đặt cho các
ngành sản xuất khác lập kế hoạch cung cấp. Cho nên kế hoạch vận tải phải đồng
thời cùng làm với các kế hoạch sản xuất, xây dựng và lưu thông hàng hóa, trong
mỗi bước của từng giai đoạn trong trình tự lập kế hoạch kinh tế quốc dân. Vì mỗi
bước lập kế hoạch là một lần cân đối tổng hợp chung, không thể chỉ có kế hoạch
sản xuất, xây dựng và lưu thông hàng hóa mà không có kế hoạch giao thông vận tải.
Trong công tác lập kế hoạch vận tải, mỗi Bộ, Tổng cục, mỗi đơn
vị, tuỳ theo khối lượng công tác và phạm vi phụ trách, cần tổ chức bộ phận hoặc
có cán bộ chuyên trách hay kiêm nhiệm. Những cán bộ này cần phải chuyên môn
hoá, họ phải có những hiểu biết cần thiết về kinh tế nói chung, kinh tế vận tải
nói riêng, thông thạo tình hình sản xuất và tinh thông nghiệp vụ kế hoạch vận tải.
Mục đích của sản xuất, xét cho cùng, là để tiêu dùng, do đó phải
đưa sản phẩm đến nơi tiêu thụ và muốn tiến hành sản xuất thì phải chuyên chở tư
liệu. Vậy, phải có lưu thông, trong đó vận tải quyết định quá trình chủ yếu.
Trong xây dựng, nếu không có sự phối hợp có kế hoạch của ngành giao thông vận tải,
các công trình xây dựng cơ bản cũng không tiến hành được. Do đó, mối quan hệ giữa
vận tải, sản xuất, xây dựng và lưu thông gắn bó với nhau rất mật thiết. Và do
đó, sự phối hợp giữa ngành giao thông vận tải với các ngành kinh tế khác là
không thể thiếu. Thông tư này hướng dẫn những điều cơ bản, nhưng tinh thần hợp
tác giữa các ngành kinh tế quốc dân và ngành giao thông vận tải giúp đỡ nhau là
vấn đề quyết định.
Trong thông tư này, tuy đã hướng dẫn tương đối cụ thể cách lập
kế hoạch và các biểu mẫu cần thiết, nhưng dù sao cũng có thể có những vấn đề
chưa đề cập tới được hoặc chưa hướng dẫn thật đầy đủ. Vậy trong quá trình thi
hành có khó khăn trở ngại gì, các địa phương, các cơ quan chủ hàng và vận tải
phản ánh về Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Giao thông vận tải để giải thích
thêm hoặc nghiên cứu trình lên Hội đồng Chính phủ.
KT. CHỦ NHIỆM
UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
UỶ VIÊN
Võ Quang Anh
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ GIAO THÔNG VẬN
TẢI
THỨ TRƯỞNG
Dương Bạch Liên
|
[1]Các
biểu mẫu không đăng công báo.
[2]Các
biễu mẫu không đăng công báo