BỘ
Y TẾ-TỔNG CỤC BƯU ĐIỆN
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
14-TTLB/BĐ/YT
|
Hà
Nội , ngày 27 tháng 7 năm 1981
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA TỔNG CỤC BƯU ĐIỆN - BỘ Y TẾ SỐ 14-TTLB/BĐ/YT NGÀY 27
THÁNG 7 NĂM 1981 QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM GIỮA HAI NGÀNH TRONG VIỆC KIỂM DỊCH VÀ XỬ
LỶ VỆ SINH CÁC BƯU PHẨM, BƯU KIỆN
Thi hành nghị định số 91-CP ngày
2/5/1973 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ gửi, nhận, chuyển, phát bưu phẩm,
bưu kiện và nghị định số 248-TTg ngày 19/5/1958 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tổ chức kiểm dịch tại các hải cảng, sân bay, cửa khẩu quan trọng khác dọc theo
biên giới nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam), Tổng cục Bưu điện và Bộ Y tế quy định trách nhiệm giữa hai ngành
trong việc kiểm dịch và xử lý vệ sinh các bưu phẩm, bưu kiện như sau.
I. NGUYÊN TẮC
CHUNG
Để đề phòng các bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm (dịch tả, dịch hạch...) lây lan giữa các vùng trong nước cũng như giữa
nước ngoài và nước ta qua đường bưu chính, ngành y tế và ngành bưu điện có
trách nhiệm phối hợp chặt chẽ trong công tác kiểm dịch, xử lý các bưu phẩm, bưu
kiện bị ô nhiễm hoặc nghi bị ô nhiễm, đồng thời bảo đảm cho bưu phẩm, bưu kiện
được chuyển phát nhanh chóng, an toàn đến người nhận.
II. NHỮNG QUY
ĐỊNH CỤ THỂ
A. TRONG NƯỚC:
Tại các vùng đang có bệnh dịch
nguy hiểm (dịch tả, dịch hạch...) bưu điện không nhận chuyển những bưu phẩm,
bưu kiện có các loại hàng sau đây, nếu không có giấy chứng nhận đã kiểm dịch và
xử lý vệ sinh của cơ quan y tế.
1. Thực phẩm mà nguồn gốc là thuỷ
sản (cá, tôm, sò, ốc, các loại mắm...), trừ những loại do các xí nghiệp sản xuất,
có mang nhãn hiệu và được đóng trong hộp bằng kim loại hàn kín.
2. Quần áo, chăm màn, các loại đồ
dùng khác bằng vải, các loại đồ dùng cá nhân bằng da, lông, hoặc giả da đã
dùng.
3. Các đồ vật khác bị ô nhiễm hoặc
nghi bị ô nhiễm, do ngành y tế quy định từng thời gian ở từng vùng có dịch.
B. NGOÀI NƯỚC:
1. Đối với bưu phẩm, bưu kiện nhập
khẩu:
Ngành y tế có trách nhiệm kiểm dịch
và khi cần thiết thì xử lý vệ sinh các bưu phẩm, bưu kiện có các loại hàng sau
đây, trước khi bưu điện phát đến người nhận
a. Thực phẩm mà nguồn gốc là thuỷ
sản, từ nước đang có dịch tả nhập vào nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trừ những loại do các xí nghiệp sản xuất, có mang nhãn hiệu và được đóng trong
hộp bằng kim loại hàn kín.
b. Những đồ vật khác mà cơ quan
y tế cho là bị nhiễm hoặc nghi bị nhiễm mầm bệnh (vi khuẩn, vi rút, ký sinh
trùng...), hoặc véc-tơ truyền bệnh (ruồi, muỗi, bọ chét, chấy, rận, rệp, ve,
mò...).
2. Đối với bưu phẩm, bưu kiện xuất
khẩu:
Bưu điện không nhận chuyển những
bưu phẩm, bưu kiện có các loại hàng như đã nêu ở các điểm 1,2,3, mục A trên
đây.
C. QUAN HỆ
CÔNG TÁC GIỮA BƯU ĐIỆN VÀ Y TẾ:
1. Ngành y tế có nhiệm vụ thông
báo kịp thời cho ngành bưu điện biết những vùng ở trong nước và ở ngoài nước có
bệnh dịch nguy hiểm.
2. Ngành bưu điện, mỗi khi nhận
được thông báo của ngành y tế, phải kịp thời chỉ đạo các cơ sở bưu điện nơi có
dịch hoặc bưu cục ngoại dịch, phối hợp với cơ quan y tế địa phương tổ chức thực
hiện việc kiểm dịch hoặc xử lý vệ sinh.
3. Tại các bưu cục ngoại dịch có
trao đổi chuyến thư với nước ngoài, ngành bưu điện cần bố trí nơi làm việc thuận
tiện, để ngành y tế đặt các thiết bị cần thiết dùng để xử lý vệ sinh các bưu phẩm,
bưu kiện xuất, nhập khẩu phải kiểm dịch.
Việc trang bị các phương tiện và
thiết bị kiểm dịch, xử lý vệ sinh bưu phẩm, bưu kiện, do ngành y tế chịu trách
nhiệm.
4. Trong trường hợp cơ quan y tế
chưa đủ điều kiện xử lý vệ sinh bưu phẩm, bưu kiện, tại bưu cục ngoại dịch, cán
bộ bưu điện làm thủ tục giao cho cán bộ y tế để xử lý ở nơi khác.
Thời hạn ngành y tế giữ để xử lý
một bưu phẩm hoặc bưu kiện không quá 48 giờ (hoặc không quá 96 giờ đối với các
trường hợp cần xác định vi sinh vật học) kể từ khi cán bộ y tế ký nhận với bưu
điện.
Khi giao cũng như khi nhận, hai
bên đều phải ghi vào sổ số lượng, khối lượng các loại hàng trong từng bưu phẩm
hoặc bưu kiện. Khi hoàn trả, nếu số lượng, khối lượng các loại hàng bị thiếu hụt
so với lúc giao, thì cơ quan y tế nhận xử lý bưu phẩm hoặc bưu kiện đó phải chịu
trách nhiệm vật chất đối với số hàng bị thiếu hụt. Trường hợp phải lấy mẫu để
kiểm tra xét nghiệm, cơ quan kiểm dịch hoặc vệ sinh phòng dịch địa phương lấy
đúng khối lượng hoặc số lượng quy định và có giấy biên nhận đính kèm theo bưu
phẩm hoặc bưu điện đó.
5. Nếu những bưu phẩm, bưu kiện
không đủ điểu kiện vệ sinh để phát đến người nhận, thì cán bộ y tế và bưu điện
phối hợp xử lý những phần bị ô nhiễm, có cán bộ hải quan chứng kiến. Trong trường
hợp này, phải lập biên bản thành ba bản để gửi đến người nhận một bản, bưu điện
và y tế mỗi ngành giữ một bản.
6. Mọi phí tổn về xử lý vệ sinh
bưu phẩm, bưu kiện nhập khẩu do người nhận đài thọ. Đối với bưu phẩm, bưu kiện
gửi trong nước hoặc gửi ra nước ngoài phí tổn trên được thu ở người gửi. Khoản
phí tổn này do Bộ Y tế quy định. Nếu người nhận ở xa bưu cục ngoại dịch, phí tổn
trên do bưu cục phát thu và chuyển trả bằng thư chuyển tiền có cước đến cơ quan
y tế kiểm dịch.
7. Cán bộ hai ngành khi tiếp xúc
với nhân dân phải thực hiện đúng các quy định về chế độ phục vụ nhân dân. Cán bộ
y tế cũng như cán bộ bưu điện trong khi làm nhiệm vụ tại các bưu cục cần chấp
hành tốt nội quy nơi làm việc.
Trong quá trình làm việc nếu có
ý kiến khác nhau thì hai bên kịp thời báo cáo lên cấp trên trực tiếp của minh để
xin ý kiến giải quyết.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày
ký và thay thế thông tư liên bộ Y tế - Bưu điện số 7-LB/BĐ/YT ngày 28 tháng 3
năm 1962 về kiểm dịch bưu phẩm, bưu kiện và thông tư số 8-LB/BĐ/YT ngày
7/4/1964 bổ sung thông tư 7 nói trên.
Hoàng
Đình Cầu
(Đã
ký)
|
Trương
Văn Thoan
(Đã
ký)
|