BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số : 17-VT
|
Hà Nội, ngày 14 tháng 07 năm 1960
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH VÀ QUY ĐỊNH THÊM MỘT SỐ ĐIỂM CỤ THỂ ĐỂ THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ
14-CP NGÀY 27-5-1960 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC VẬN CHUYỂN HÀNG HAI CHIỀU
Ngày 27-5-1960 Hội đồng Chính phủ đã
ban hành nghị định số 14-CP về việc vận chuyển hàng hai chiều. Điều 12, của
nghị định có ghi: Ông Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện chịu trách nhiệm giải
thích và quy định chi tiết thi hành. Chiếu theo điều đó, Bộ Giao thông và Bưu
điện giải thích và quy định thêm một số điểm cụ thể sau đây:
ĐỐI VỚI ĐIỀU 1
Nghị định quy định những phương tiện
được miễn thi hành nghị định này là những phương tiện chủ lực thường xuyên hoạt
động trong nội bộ các xí nghiệp, công, nông trường, trực tiếp vào công việc sản
xuất của xí nghiệp và công, nông trường ấy. Nếu những phương tiện này có khi
phải chạy ra ngoài phạm vi công trường để vận chuyển nguyên vật liệu, máy móc,
hàng hóa, v.v... về công trường thì vẫn phải thi hành nghị định này; ví dụ:
phương tiện của công trường Khu Gang thép, của nông trường Đồng giao, của mỏ
than Hồng gai, của mỏ Apatite, v.v... chạy ra ngoài phạm vi công trường và nông
trường để chở hàng về thì vẫn phải chấp hành những điều quy định về việc chở
hàng kết hợp hai chiều.
Trường hợp những phương tiện ấy chỉ
chạy trên một quãng ngắn để chở nguyên vật liệu trực tiếp cho sản xuất như xe
của công trường Quốc hội, xe của công trường xây dựng nhà máy dệt 8-3 chạy từ
công trường ra bến Vĩnh tuy, Phà đen, v.v... để chở cát sỏi thì có thể được
miễn thi hành nghị định này.
ĐỐI VỚI ĐIỀU 3
Nghị định quy định các phương tiện
vận tải không có hàng hoặc không có hàng hoặc không có đủ hàng để vận chuyển
hai chiều thì nhất thiết phải đến cơ quan Giao thông vận tải để xin hàng chở…
Điều này quy định rõ trách nhiệm của cơ quan Giao thông vận tải là phải luôn
luôn sẵn sàng chuẩn bị đầy đủ hàng hóa để khi phương tiện đến xin hàng là có
thể chỉ dẫn cho phương tiện đi nhận hàng ngay. Muốn làm được như thế cơ quan
Giao thông vận tải hàng ngay phải có sổ ghi chép tình hình hàng đi, hàng đến,
ước tính được phương tiện đi hay đến, có dự kiến nếu phương tiện đến thì sẽ lấy
hàng ở đâu để chở hai chiều.
Cơ quan Giao thông vận tải tổ chức
các trạm vận tải ở các bến sông, ở các nơi đầu mối giao thông để cho phương
tiện đi qua lại báo xin hàng được dễ dàng thuận lợi.
Điều này cũng quy định trách nhiệm
của các chủ phương tiện là phải tuân theo cơ quan Giao thông vận tải để hạn chế
việc phương tiện chạy không, gây lãng phí.
Trường hợp những phương tiện phải đi
xa hơn một quãng đường để lấy hàng kết hợp hai chiều, vì lợi ích chung thì chủ
phương tiện phải cố gắng chấp hành.
Để cho việc thi hành các điều cụ thể
này được tốt thì các cơ quan, chủ hàng cần tăng cường liên hệ hàng ngày với cơ
quan Giao thông vận tải và cứ 10 ngày một lần thông báo bằng giấy, hàng đi,
hàng đến, nơi giao, nơi nhận để cơ quan Giao thông vận tải có cơ sở bố trí hàng
hóa cho các phương tiện chở kết hợp 2 chiều.
ĐỐI VỚI ĐIỀU 4
Nghị định quy định mỗi phương tiện
đều phải có sổ hành trình. Sổ hành trình do cơ quan Giao thông vận tải in và
bán.
Sổ hành trình có mục đích để cho cơ
quan Giao thông vận tải theo dõi kiểm tra được sự hoạt động của phương tiện
nhằm nâng cao hiệu suất của phương tiện, hạn chế những trường hợp ngừng hoạt
động không hợp lý. Đồng thời nó cũng có tác dụng nhằm thúc đẩy năng suất của
người làm vận tải. Trong phạm vi nghị định này thì sổ hành trình có tác dụng
kiểm tra hoặc chứng nhận việc phương tiện chở hai chiều hay không chở hai
chiều.
Kèm theo sổ hành trình, các phương
tiện vẫn phải có phiếu vận chuyển chứng nhận chở hai chiều hoặc không có hàng
chở hai chiều để thanh toán.
Trường hợp sổ hành trình và phiếu
vận chuyển không có chứng nhận của cơ quan Giao thông vận tải về hàng hai chiều
thì không có tác dụng để thanh toán cước một chiều và như vậy tức là vi phạm
nghị định.
Cơ quan Công an giao cảnh và cơ quan
Giao thông vận tải có quyền kiểm soát việc thi hành điều khoản này. Gặp trường
hợp như vậy thì cơ quan Công an giao cảnh hoặc cơ quan Giao thông vận tải đề
nghị phương tiện phải tới trạm vận tải gần nhất để nhận hàng.
ĐỐI VỚI ĐIỀU 5
Nghị định quy định cơ quan Giao
thông vận tải có trách nhiệm không được để phương tiện vận tải đến xin hàng chở
hai chiều phải chờ đợi lâu. Điều này có ý nghĩa:
a) Thời gian chờ đợi ở trạm vận tải
để trạm vận tải trả lời có hàng chở hay không, quy định là 30 phút đối với tất
cả các loại phương tiện. Trường hợp phương tiện chờ 30 phút rồi mà không có
hàng thì cơ quan Giao thông vận tải phải chứng nhận cho phương tiện được đi
ngay.
b) Thời gian phải đi xa thêm một
đoạn đường để lấy hàng chở hai chiều không quy định nhất loạt mà tùy theo từng
lúc, từng địa phương mà định cho thích hợp miễn làm sao phát huy được năng lực
của phương tiện, chiếu cố được hòan cảnh thực tế của cơ quan có phương tiện,
giá cước được rẻ hơn, chở được nhiều hàng hơn, ít cây số chạy không hơn thì có
thể cho phương tiện chạy thêm một quãng đường để lấy hàng kết hợp.
c) Trường hợp tuy xe chạy không
nhưng phải về gấp để giải quyết kế hoạch đặc biệt (chống đói, chống lụt v.v...
) có giấy chứng nhận của cơ quan Giao thông vận tải thì không phải chờ để chở
hàng kết hợp. Nhưng trường hợp hàng có sẵn, giao nhận nhanh, thuận lợi trên
quãng đường phương tiện đi thì phương tiện không được từ chối chở kết hợp.
ĐỐI VỚI ĐIỀU 6
Nghị định quy định cơ quan có hàng
phải báo tình hình chuẩn bị hàng hóa cho cơ quan Giao thông vận tải để yêu cầu
phương tiện. Cơ quan có hàng không được tự ý thuê phương tiện mà không qua cơ
quan Giao thông vận tải…
Điều này là một nguyên tắc trong
chính sách quản lý ba thống về vận tải, có lợi chung cho cả cơ quan chủ hàng và
cơ quan Giao thông vận tải. Cơ quan có hàng thông báo kế hoạch yêu cầu phương
tiện sớm thì cơ quan Giao thông vận tải có thể bố trí giải quyết sớm. Điều này
cũng phù hợp với tính chất của kế hoạch là kế hoạch đưa trước thì chở trước,
đưa sau thì chở sau, không có kế hoạch thì không chở.
Nếu cơ quan chủ hàng cứ tự ý thuê
phương tiện chở mà không qua cơ quan Giao thông vận tải thì có thể xảy đến tình
trạng không ăn khớp giữa kế hoạch hàng hóa với kế hoạch phương tiện. Làm như
vậy nhất thời có thể giải quyết được một phần nào lợi ích riêng của chủ hàng
nhưng rất không lợi cho việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch chung.
ĐỐI VỚI ĐIỀU 7
Nghị định quy định thời gian chờ đợi
kể từ khi phương tiện tới, đến khi bắt đầu giao nhận hàng cho mỗi loại phương
tiện. Điều này trong nghị định đã nói rõ nhưng có trường hợp phương tiện đi
đoàn có kế hoạch trước và liên tục thì thời gian chờ đợi của mỗi phương tiện
phải ít hơn thời gian (không phải là thời gian bốc dỡ) đã quy định trong nghị
định. Trường hợp có từng đoàn vận chuyển theo kế hoạch như vậy thì hai bên phải
ký hợp đồng với nhau về thời gian bốc dỡ, giao nhận một cách cụ thể nhằm hạn
chế việc phương tiện bị giam hãm lâu, nâng cao năng suất của phương tiện. Việc
bốc dỡ, giao nhận là khâu chính để giải quyết cho phương tiện quay vòng nhanh.
ĐỐI VỚI ĐIỀU 8
Nghị định có quy định cách liên hệ
hàng ngày giữa cơ quan chủ hàng và cơ quan Giao thông vận tải và tổ chức hệ
thống trạm vận tải trên các trục giao thông chính để thi hành tốt việc chở hàng
hai chiều. Trên đoạn giải thích điều 3 đã có nói một phần. Trong điều này cần
quy định thêm:
Không những cơ quan Giao thông vận
tải chỉ lên được kế hoạch hàng ngày mà còn phải biết rõ hàng hóa của chủ hàng
để ở những kho nào, điều kiện đường sá, luồng lạch tới kho đó dễ hay khó, cơ
quan chủ hàng đã chuẩn bị tốt việc giao hàng cho phương tiện hay chưa và trong
ngày sẽ có những phương tiện nào đến lấy để luôn luôn chủ động được kế hoạch
điều vận.
Về phía cơ quan Giao thông vận tải
phải định rõ nhiệm vụ của các trạm vận tải, tăng cường biên chế ở các trạm vận
tải. Biên chế của các trạm vận tải phải là biên chế chung của tỉnh của Nhà nước
vì đó là yêu cầu về tổ chức không thể thiếu được trong công tác giao thông vận
tải. Trạm vận tải phải là cơ sở lãnh đạo sản xuất vận tải. Trạm phải nắm được
kế hoạch hàng ngày, nắm được yêu cầu phương tiện đi lại hàng ngày. Hoạt động
của trạm vận tải phải sôi nổi, khẩn trương và cụ thể.
Trạm vận tải được sử dụng một con
dấu thống nhất do Tổng cục Giao thông thủy bộ cho mẫu (xem mẫu dấu).
Về phía chủ hàng nên chú trọng bố
trí hệ thống kho cho thuận lợi với điều kiện hoạt động của phương tiện như
đường sá, luồng lách, bốc dỡ, v.v... tránh tình trạng có phương tiện nhưng
không thể vào được kho để lấy hàng hoặc có phương tiện mà tổ chức bốc dỡ không
thuận lợi.
ĐỐI VỚI ĐIỀU 10
Nghị định quy định cơ quan Giao
thông vận tải được phép thu 1% tiền cước hàng hóa vận chuyển kết hợp hai chiều
hoặc tiền cước hàng hóa phân phối chở thêm của chủ phương tiện để làm thủ tục
phí. Khoản tiền này các trạm không được tự ý sử dụng mà cần nạp cho quỹ của
tỉnh. Mọi chi phí về lương, phụ cấp, hành chính phí, v.v... đều do quỹ của địa
phương trả.
Trong khi thi hành nghị định số
14-CP và áp dụng thông tư này, đề nghị các cơ quan chủ hàng và các cơ quan Giao
thông vận tải các cấp tăng cường liên hệ với nhau để giải quyết những khó khăn
cụ thể và thường xuyên phản ánh tình hình thực hiện về Bộ (Cục Vận tải thủy
bộ).
|
T.U.Q. BỘ TRƯỞNG
BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
TỔNG CỤC PHÓ
TỔNG CỤC GIAO THÔNG THỦY BỘ
Vũ Quang
|
MẪU DẤU:
- Chiều dài 4cm
- Chiều rộng 2cm 5
CHÚ Ý
Nếu địa phương có nhiều trạm thì
mỗi dấu khắc một số thứ tự thí dụ trạm Vận tải số 1, trạm Vận tải số 2,
v.v...
|

|