BỘ GIAO THÔNG VẬN
TẢI
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 147-TT/GTVT
|
Hà Nội, ngày 30
tháng 7 năm 1983
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 147-TT/GTVT NGÀY
30-7-1983 HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 10-HĐBT NGÀY 20 1-1982 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ
TRƯỞNG.
Ngày 20 tháng 1 năm 1982 Hội đồng
bộ trưởng đã ra nghị định số 10-HĐBT quy định việc phân loại đầu tư vốn và phân
cấp quản lý các hệ thống đường bộ. Căn cứ vào điều 11 của nghị định, Bộ Giao
thông vận tải ban hành thông tư hướng dẫn thi hành như sau:
I. MỤC ĐÍCH Ý
NGHĨA
Hiện nay mạng lưới đường bộ đã
được mở rộng và không ngừng phát triển. Để nâng cao chất lượng đường sá và phù hợp
với sự phân cấp quản lý của các cấp chính quyền. Hội đồng bộ trưởng đã quy định
lại việc phân loại đầu tư vốn và phân cấp quản lý các hệ thống đường bộ, áp dụng
thống nhất trong cả nước.
Mạng lưới đường bộ là một thể thống
nhất, bao gồm các đường xe cơ giới và đường xe thô sơ; trong đó đối với đường
ô-tô có sáu hệ thống. Mỗi hệ thống đường có tác dụng phục vụ ở những mức độ
khác nhau trong một địa phương hay nhiều địa phương hoặc trong toàn quốc. Tuy vậy
các hệ thống đường vẫn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, do đó cần phân loại lại
các hệ thống đường cho đúng với đối tượng phục vụ của nó và thích hợp với tình
hình quản lý hiện nay. Mặt khác để phát huy trách nhiệm quyền hạn giữa trung
ương với các cấp chính quyền ở địa phương theo các nghị định số 35-CP ngày
9-2-1981 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của bộ
trưởng và chức năng của Bộ trong một số lĩnh vực quản lý Nhà nước; cùng các nghị
định số 24-CP ngày 2-2-1976, số 33-CP ngày 4-2-1978, số 112-HĐBT ngày
15-10-1981 của Hội đồng bộ trưởng quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trong quản lý kinh tế - trên nguyên tắc
quản lý chuyên ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ đối với các đường giao
thông - tạo nên một sức mạnh tổng hợp trong việc quản lý, sửa chữa, khai thác
các hệ thống đường bộ nhằm nâng cao chất lượng đường sá và để sử dụng các nguồn
vốn đầu tư của Trung ương cũng như địa phương được hợp lý, đạt hiệu quả cao
hơn.
II. HƯỚNG DẪN
VÀ GIẢI THÍCH MỘT SỐ ĐIỂM CỤ THỂ QUY ĐỊNH CỦA NGHỊ ĐỊNH
Trong thông tư này chỉ hướng dẫn
và giải thích thêm một số điểm cụ thể giúp các địa phương, các ngành có liên
quan và đơn vị nắm vững để khi thi hành được đúng với tinh thần và nội dung đã
quy định trong nghị định.
1. Trách nhiệm
quản lý và bảo vệ đường sá (điều 1)
Đường sá là tài sản chung của
Nhà nước và nhân dân có tác dụng rất quan trọng trong việc phục vụ xây dựng
kinh tế, bảo vệ quốc phòng và sự đi lại của nhân dân nên các ngành, các cấp,
các đơn vị kinh tế, quốc phòng, mọi công dân có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn các
hệ thống đường và nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ giao thông.
Trách nhiệm quản lý đường sá,
theo sự phân cấp giữa Bộ Giao thông vận tải và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố, đặc khu trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Uỷ ban nhân dân các tỉnh)
như sau:
a) Bộ Giao thông vận tải chịu
trách nhiệm quản lý toàn bộ các hệ thống đường bộ trong cả nước trên nguyên tắc:
- Xây dựng quy hoạch mạng lưới
đường sá trong cả nước hoặc từng vùng để phụ vụ các yêu cầu phát triển kinh tế,
bảo vệ quốc phòng, chính trị, văn hoá...
- Ban hành các quy trình, quy phạm
kỹ thuật cầu đường làm tiêu chuẩn để các ngành, các đơn vị thực hiện khi thiết
kế, thi công, sửa chữa đường sá nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao và an toàn.
- Trực tiếp ban hành hoặc trình
Nhà nước hay phối hợp với các ngành có liên quan ban hành những luật lệ về quản
lý, khai thác, bảo vệ đường bộ để áp dụng thống nhất trên các tuyến đường bộ
công cộng. Tổ chức kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các luật lệ đó.
- Tổ chức đăng ký các tuyến đường
ô-tô đang sử dụng hoặc sắp đưa vào sử dụng và chịu trách nhiệm quản lý các tuyến
đường đó theo các nguyên tắc trên.
b) Uỷ ban nhân dân các tỉnh chịu
trách nhiệm quản lý hệ thống đường bộ ở địa phương theo sự phân cấp như sau:
- Tham gia ý kiến với Bộ Giao
thông vận tải và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch mạng lưới
đường có liên quan đến giao thông của địa phương.
- Quản lý các hệ thống đường bộ
trong tỉnh theo các quy định về kỹ thuật và quản lý thống nhất của Bộ Giao
thông vận tải.
- Kiểm tra các đơn vị kinh tế, lực
lượng vũ trang trong tỉnh phải nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ giao thông vận
tải. Giáo dục nhân dân ở địa phương thường xuyên chăm lo bảo vệ tốt các hệ thống
đường bộ, các công trình giao thông công cộng và tham gia tích cực vào công tác
bảo đảm giao thông, đặc biệt là đối với các đường quốc lộ.
Sở giao thông vận tải là cơ quan
thay mặt Bộ Giao thông vận tải và Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện các nhiệm vụ về
xây dựng, cải tạo, sửa chữa, quản lý, khai thác các hệ thống đường bộ trong tỉnh
đồng thời có nhiệm vụ tham mưu do Uỷ ban nhân dân tỉnh về các mặt đối với Bộ
Giao thông vận tải, trên các nguyên tắc và phân cấp nêu trên.
2. Việc phân loại
các hệ thống đường bộ (điều 2).
Nghị định đã phân loại các đường
ô-tô gồm 6 hệ thống đường trên cơ sở các yêu cầu về kinh tế, chính trị, quốc
phòng, văn hoá để phục vụ các phương tiện vận tải cơ giới, bán cơ giới, thô sơ
và bộ hành qua lại.
a) Hệ thống đường quốc lộ. Với
tác dụng đặc biệt quan trọng trong mạng lưới đường toàn quốc phục vụ mọi lợi
ích đối với quốc gia hay từng vùng và cũng rất quan trọng đối với các tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương.
Đối với đường nối với các nước
láng giềng tuy có nhiều nhưng chỉ quy định những đường có lưu lượng vận tải lớn,
mang tính chất phục vụ hai quốc gia mới xếp vào đường quốc lộ.
Một số đường quốc lộ quan trọng
có phân rõ đường xe ô-tô và đường xe thô sơ bằng một dải đất phân cách thì phần
đường xe thô sơ vẫn thuộc đường quốc lộ.
Bộ Giao thông vận tải sẽ văn cứ
vào tình hình cụ thể trên các mặt kinh tế, kỹ thuật, chính trị để quy định các
đường quốc lộ.
b) Hệ thống đường tỉnh. Ngoài
tác dụng phục vụ trực tiếp lợi ích về kinh tế, chính trị, văn hoá và trị an của
tỉnh, còn phục vụ lợi ích của một hay nhiều tỉnh lân cận hoặc cả một vùng. Đồng
thời có tác dụng hỗ trợ cho đường quốc lộ khi cần thiết.
c) Hệ thống đường huyện, đường
xã. Cũng như hệ thống đường tỉnh, ngoài tác dụng phục vụ trực tiếp lợi ích về
kinh tế, chính trị, văn hoá của huyện, của xã còn liên quan đến lợi ích của huyện,
của xã lân cận trong cùng một tỉnh hay các tỉnh bên.
d) Hệ thống đường đô thị. Như đã
nêu trong nghị định thì tất cả các đường phố và đường giao thông (trừ đường quốc
lộ) nằm trong phạm vi nội thành, nội thị theo địa giới hành chính của thành phố,
thị xã, thị trấn khi đã được Nhà nước quy định.
Đối với các cụm dân cư đã cư trú
thành phố dọc theo đường tỉnh hoặc gần khu công nghiệp lớn... mà chưa được Nhà
nước quy định là thị xã, thị trấn thì những đoạn đường đó chưa được xếp vào hệ
thống đường đô thị.
Vì chưa có điều kiện đưa đường
quốc lộ ra ngoài phạm vi thành phố, thị xã, thị trấn thì các đường quốc lộ chạy
xuyên qua nội thành, nội thị được giữ nguyên về lý trình và hướng tuyến theo
danh bạ đường quốc lộ đã được quy định. Đối với thành phố hay thị xã lớn có nhiều
đường phố thì Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng và Uỷ ban nhân dân tỉnh cùng
thống nhất xác định đường quốc lộ chạy xuyên qua nội thành, nội thị (mặc dầu vẫn
mang tên đường phố như các đường phố khác của hệ thống đường đô thị). Riêng đối
với thủ đô hoặc thành phố lớn là nơi xuất phát của một số đường quốc lộ thì Bộ
Giao thông vận tải và Uỷ ban nhân dân tỉnh xác định kilômét số không để bắt đầu
tính đường quốc lộ.
Tiêu chuẩn các loại đường phố của
hệ thống đường đô thị sẽ do Bộ Xây dựng quy định cụ thể sau khi thống nhất với
Bộ Giao thông vận tải và Uỷ ban nhân dân các tỉnh để các địa phương sắp xếp các
đường phố vào cho đúng loại.
đ) Hệ thống đường chuyên dùng.
Như đã nêu trong nghị định, ranh giới đường chuyên dùng bao gồm:
- Đường nối từ phía ngoài cổng của
cơ quan, xí nghiệp, nhà máy, công nông lâm trường... ra tới đường quốc lộ, đường
tỉnh...
- Đường nội bộ trong các cơ
quan, xí nghiệp, nhà máy...
3. Thẩm quyền
phân loại và điều chỉnh các đường giao thông (điều 3)
Nghị định đã quy định quyền hạn
phân loại và điều chỉnh các đường vào các hệ thống đường bộ đối với bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, huyện để tăng cường
trách nhiệm của lãnh đạo các cấp.
Từng thời gian quy định, căn cứ
vào sự phát triển của tuyến đường về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá... và
tình hình kỹ thuật để quyết định:
- Sắp xếp các đường chuẩn bị đưa
vào sử dụng hoặc điều chỉnh các đường đang khai thác từ hệ thống này sang hệ thống
khác như đường tỉnh lên đường quốc lộ, đường tỉnh vào đường đô thi, đường huyện
lên đường tỉnh, đường chuyên dùng lên đường tỉnh...
- Công bố cấp kỹ thuật của đường,
loại mặt đường trên cơ sở kỹ thuật của mặt đường đã được quy định để phục vụ vận
tải.
Bộ Giao thông vận tải sẽ ban
hành tiêu chuẩn kỹ thuật cho từng hệ thống đường bộ để các địa phương làm căn cứ
sắp xếp hoặc điều chỉnh các đường vào đúng vị trí phục vụ của nó.
Các liên hiệp, xí nghiệp liên hợp
xây dựng giao thông các khu vực, Sở giao thông vận tải có nhiệm vụ theo dõi và
báo cáo về Bộ Giao thông vận tải, Uỷ ban nhân dân tỉnh về tình hình đường sá được
giao quản lý.
4. Vấn đề vốn
quản lý và sửa chữa đường (điều 4)
Vốn quản lý và sửa chữa đường
bao gồm các kinh phí sửa chữa đường (sửa chữa lớn, thường xuyên) và kinh phí quản
lý để tổ chức bảo vệ và khai thác đường.
Để bảo đảm vốn này hoạt động được
tốt Nhà nước cũng cân đối với việc cung cấp lao động, vật tư, thiết bị cho phù
hợp với tình hình quản lý đường sá hiện nay.
Bộ Tài chính và Bộ Giao thông vận
tải sẽ có thông tư liên Bộ quy định cụ thể về chế độ cấp phát vốn quản lý và sửa
chữa đường.
5. Việc đầu tư
vốn và quản lý hệ thống đường quốc lộ (điều 5).
Bộ Giao thông vận tải chịu trách
nhiệm quản lý toàn bộ hệ thống đường quốc lộ và được sử dụng các vốn xây dựng
cơ bản, vốn quản lý và sửa chữa do ngân sách trung ương đài thọ để tổ chức quản
lý, sửa chữa và xây dựng hệ thống đường này theo kế hoạch Nhà nước đã duyệt.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của
địa phương kết hợp chặt chẽ chuyên ngành với lãnh thổ, Bộ Giao thông vận tải sẽ
quản lý trực tiếp một số đường quan trọng, còn các quốc lộ khác giao cho Uỷ ban
nhân dân tỉnh quản lý (thông qua Sở giao thông vận tải) trên cơ sở các chỉ tiêu
kế hoạch, chất lượng, kinh phí cùng các chỉ tiêu khác do Bộ Giao thông vận tải
phân bổ.
Nội dung trách nhiệm, quyền hạn
và hình thức giao nhận để quản lý, sửa chữa, xây dựng các đường quốc lộ Bộ Giao
thông vận tải sẽ có quy định cụ thể.
6. Việc đầu tư
vốn và quản lý hệ thống đường tỉnh (điều 6)
Uỷ ban nhân dân các tỉnh quản lý
hệ thống đường tỉnh trong địa phương mình (thông quá các Sở giao thông vận tải)
bao gồm việc lập quy hoạch giao thông vận tải, lập kế hoạch xây dựng, sửa chữa
trình Hội đồng bộ trưởng phê chuẩn. Với trách nhiệm quản lý chung Bộ Giao thông
vận tải sẽ tham gia ý kiến với địa phương về quy hoạch, kế hoạch, xây dựng và sửa
chữa đường để bảo đảm sự thống nhất của địa phương với khu vực hay với mạng lưới
đường sá chung trong toàn quốc; đồng thời có thể đề nghị Nhà nước trợ cấp thêm
kinh phí để hoàn chỉnh tuyến đường.
Đối với các đường tỉnh có liên
quan đến hai hoặc nhiều tỉnh hay cả một vùng kinh tế thì Uỷ ban nhân dân các tỉnh
cùng Bộ Giao thông vận tải cần bàn bạc để thống nhất về quy hoạch, tiêu chuẩn kỹ
thuật xây dựng.
7. Việc đầu tư
vốn và quản lý hệ thống đường đô thị (điều 9).
Nghị định đã quy định nhiệm vụ
cơ bản của hai Bộ Giao thông vận tải và Bộ Xây dựng trong việc quản lý hệ thống
đường đô thị (thông quá Sở giao thông vận tải và Sở xây dựng hay Sở quản lý các
công trình đô thị).
Bộ Giao thông vận tải và Bộ Xây
dựng sẽ có thông tư liên Bộ hướng dẫn và giải thích cụ thể nhiệm vụ của hai
ngành để các địa phương thi hành nghị định được thuận lợi, tăng cường công tác
quản lý, ngăn chặn mọi vi phạm ảnh hưởng tới chất lượng và an toàn của hệ thống
đường đô thị.
Đường phố đã được xác định là đường
quốc lộ chạy xuyên qua phạm vi nội thành, nội thị thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản,
vốn quản lý và sửa chữa do ngân sách trung ương đài thọ.
Đối với những đường phố thuộc đường
quốc lộ do Bộ Giao thông vận tải trực tiếp quản lý, Bộ Giao thông vận tải giao
cho liên hiệp các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp xây dựng giao thông khu vực quản
lý và sửa chữa. Để thuận tiện cho công tác quản lý và đồng nhất biện pháp kỹ
thuật sửa chữa, các Liên hiệp, xí nghiệp liên hợp xây dựng giao thông có thể
giao thầu cho các Sở giao thông vận tải quản lý, sửa chữa như các đoạn đường quốc
lộ khác chạy qua nội thành, nội thị.
Việc xin đào đường để thi công
các công trình ngầm hoặc làm bất kỳ công việc gì trên mặt đường hay trên không,
có ảnh hưởng tới chất lượng đường sá và an toàn, các chủ công trình phải xin
phép các Sở giao thông vận tải. Bộ Giao thông vận tải sẽ có quy định cụ thể về
thể thức cấp giấy phép này.
8. Việc đầu tư
vốn và quản lý đường chuyên dùng.
Như đã nêu trong nghị định,
riêng đối với những đường chuyên dùng do nhiều cơ quan, xí nghiệp... cùng sử dụng,
để bảo đảm có đủ kinh phí cho công tác quản lý, sửa chữa Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ
có quy định mức phân bổ các cơ quan, xí nghiệp phải đài thọ theo đề nghị của Sở
giao thông vận tải cho hợp lý.
Khi cơ quan (hay xí nghiệp...) đề
nghị lực lượng quản lý, sửa chữa chuyên nghiệp của ngành giao thông vận tải (ở
trung ương và địa phương) đảm nhận thì vốn đầu tư quản lý và sửa chữa vẫn do cơ
quan (hay xí nghiệp) đó đài thọ - kể cả đường chuyên dùng có nhiều cơ quan, xí
nghiệp cùng sử dụng. Chỉ khi nào ngành giao thông vận tải xét về các mặt kinh tế,
chính trị, văn hoá, kỹ thuật... báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh phê chuẩn chuyển
vào các hệ thống đường thuộc địa phương quản lý thì sẽ do ngân sách của địa
phương đài thọ.
Để phù hợp với quy hoạch phát
triển mạng lưới giao thông vận tải ở một địa phương hay nhiều địa phương, ngành
giao thông vận tải có trách nhiệm tham gia ý kiến về kế hoạch xây dựng, kỹ thuật
nền mặt đường để bảo đảm an toàn cho các phương tiện qua lại. Đồng thời phải
đăng ký hồ sơ đường sá với Sở giao thông vận tải để khi cần thiết có thể hỗ trợ
cho các đường của địa phương hoặc trung ương. Bộ Giao thông vận tải sẽ có quy định
cụ thể về việc đăng ký đường sá đối với các đường chuyên dùng.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày ký. Trong quá trình thực hiện, các ngành, các địa phương, các
đơn vị có liên quan phản ánh cho Bộ Giao thông vận tải biết những vướng mắc để
kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.