BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
*******
Số
: 1077-QĐ
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 15 tháng 09 năm 1962
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ, SỬA CHỮA ĐƯỜNG Ô TÔ
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
Xét tình hình phát triển giao
thông vận tải và sửa chữa đường xá trong nước hiện nay;
Để công việc sửa chữa đường ô tô tiến hành được thuận lợi, có kết quả tốt đồng
thời giảm bớt được phí tổn cho công quỹ;
Theo đề nghị của ông Cục trưởng Cục Vận tải đường bộ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành kèm theo quyết định này bản chế độ
quản lý, sửa chữa đường ô-tô để hướng dẫn thống nhất về nhận thức và quy định cụ
thể về công tác và kỹ thuật trong công việc quản lý và sửa chữa đường ô-tô.
Điều 2. - Bản chế độ này có hiệu lực kể từ ngày ban hành
và bãi bỏ bản “qui phạm tạm thời tu dưỡng đường bộ” do Nha Giao thông xuất bản
năm 1958.
Điều 3. – Các ông Chánh văn phòng Bộ Giao thông vận tải, Cục
trưởng Cục Đường bộ, Giám đốc và Trưởng ty các Sở, Ty giao thông vận tải chiếu
quyết định thi hành.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
THỨ TRƯỞNG
Dương Bạch Liên
|
CHẾ ĐỘ
QUẢN LÝ, SỬA CHỮA ĐƯỜNG Ô-TÔ
Giao thông vận
tải là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, nối liền thành thị với nông thôn, nối
liền các khu công, nông nghiệp với nhau, nối liền nước ta với các nước bạn, phục
vụ cho sự hoạt động của các ngành kinh tế, văn hoá, chính trị, quốc phòng và sự
đi lại của nhân dân.
Ngành vận tải
ô-tô là một khâu trọng yếu không thể thiếu được trong sự nghiệp giao thông vận
tải nói chung.
Miền Bắc nước
ta đang tiến hành xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách qui mô. Các công
trường, các nông trường các xí nghiệp, các cơ sở văn hoá, xã hội đang mọc lên
ngày càng nhiều ở các đô thị, các vùng nông thôn, các vùng đồng bằng, các vùng
rừng núi xa xôi hẻo lánh. Trong trường hợp vận tải đường sắt, đường thuỷ không
thuận lợi thì ngành vận tải ô-tô chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, việc vận
chuyển bằng ô tô càng là một yêu cầu cấp bách cần phải rất coi trọng và cần phải
được phát triển.
Muốn công tác
vận chuyển bằng ô-tô được tốt, được phát triển, muốn ngành vận tải ô-tô đóng
góp được phần nhiệm vụ xứng đáng vào sự nghiệp giao thông vận tải chung của đất
nước thì một trong những vấn đề chủ yếu cần phải được đặc biệt chú trọng là
công tác sửa chữa đường xá.
Đường xá có tốt
thì xe chạy mới được nhanh chóng và an toàn.
Đường xá có
được thường xuyên chăm lo sửa chữa thì mới đảm bảo được tiêu chuẩn chất lượng
và mới dùng được lâu dài.
Để cho công
tác sửa chữa đường xá được tốt chúng ta cần nắm vững những đặc điểm riêng của
đường ô-tô như sau:
1. Đường
ô tô là một loại tài sản cố định nằm luôn luôn ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực
tiếp của mọi điều kiện thiên nhiên, thời tiết như: lượng nước mưa, sức nóng của
trời nắng,các mức độ ẩm thấp,hơi nước mặn… Nhất là nước ta lại ở vào vùng nhiệt
đới thì mức độ chịu ảnh hưởng phá hoại của các điều kiện thiên nhiên, thời tiết
lại càng mau. Do đó càng rất dễ bị hư hỏng, hao mòn. Mà sự hao mòn, hư hỏng các
bộ phận của đường lại không đều nhau đòi hỏi phải được sửa chữa kịp thời để thường
xuyên đảm bảo được chất lượng lúc ban đầu.
2. Sự
cấu tạo của đường không thuần nhất, nó bao gồm: nền đường, mặt đường, cầu, cống,
phà…. Mỗi bộ phận cấu tạo theo một kỹ thuật riêng với những nguyên vật liệu
khác nhau.Mỗi bộ phận lại có một tính chất riêng biệt. Do đó mỗi bộ phận đòi hỏi
những điều kiện chăm nom, sửa chữa khác nhau. Tính chất và cấu tạo của đường miền
núi, đường đồng bằng, đường vùng nước mặn cũng khác nhau nên việc chăm nom, sửa
chữa cũng khác nhau.
3. Khác
với các loại tài sản cố định khác ở chỗ là tìm vị trí đường rất khó, kinh phí
khảo sát và xây dựng tốn kém rất lớn. Do đó không thể đặt vấn đề thay thế một
con đường này bằng con đường khác như thay thế các máy móc hay thiết bị khác được.
Bởi vậy việc chăm nom, sửa chữa đường xá lại càng là một vấn đề quan trọng và bức
thiết hơn đối với nhiều loại tài sản cố định khác.
Kinh nghiệm
cho thấy rằng một con đường được chăm nom và sửa chữa thường xuyên tốt thì dùng
được lâu dài.
Đó là những đặc
điểm và tầm quan trọng của việc sửa chữa đường ô tô chúng ta cần nắm vững.
Từ ngày hoà
bình lập lại tới nay Đảng và Chính phủ đã rất xem trọng công tác chăm nom và sửa
chữa đường ô-tô. Riêng đối với công tác sửa chữa vừa và sửa chữa lớn Chính phủ
đã đầu tư hàng năm trên hai chục triệu đồng. Điều này nói lên rằng Đảng, Chính
phủ đánh giá rất cao công tác chăm nom sửa chữa bảo quản đường ô-tô.
Tóm lại trong
sự nghiệp giao thông vận tải đường bộ, công tác chăm nom và sửa chữa đường ô tô
chiếm một vị trí hết sức quan trọng và cần thiết. Nó có tác dụng hàn gắn lại
các hao mòn, nâng cao được chất lượng đường, kéo dài thêm được thời gian sử dụng
đường để bảo đảm phục vụ đắc lực cho các mặt hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội,
chính trị, quốc phòng. Nhưng công tác sửa chữa đường ô-tô rất phức tạp, khó
khăn.
Để công việc
sửa chữa đường ô-tô tiến hành được thuận lợi, có kết quả tốt đồng thời giảm bớt
được phí tổn cho công quỹ, Bộ ban hành chế độ quản lý sửa chữa đường ô-tô này để
hướng dẫn cho sự thống nhất về nhận thức của vấn đề và quy định cụ thể về công
tác quản lý, công tác kỹ thuật của đường ô-tô.
PHẦN 1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Chương
1:
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA
CÔNG TÁC SỬA CHỮA
Điều 1. - Để đảm bảo giao thông vận tải được liên tục,
nhanh chóng, an toàn và hạ giá thành vận chuyển, đường ô-tô phải có đầy đủ những
điều kiện dưới đây:
a) Đường:
- Mặt đường
phải vững chắc, bằng phẳng, không trơn, đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho xe chạy với tốc
độ và trọng tải quy định;
- Nền đường
phải vững chắc, đẹp, thoát nước dễ dàng;
- Cột cây số,
biển báo hiệu, các thiết bị an toàn phải đầy đủ và hoàn hảo để bảo đảm cho xe
chạy được an toàn.
b) Cầu:
- Mặt cầu phải
bằng phẳng, dễ thoát nước;
- Rầm mố, trụ
cầu phải vững chắc;
- Các bộ phận
cấu tạo không hư hỏng; bu-lông, ri ve chốt phải siết chặt;
- Gối cầu phải
có tác dụng đầy đủ;
- Sơn phòng rỉ,
quét thuốc phòng mục, tẩm thuốc phòng hà đúng kỹ thuật và đúng thời hạn.
c) Bến
phà, phà và ca-nô:
- Đường lên
xuống phà phải vững chắc, bằng phẳng không lầy lội;
- Độ dốc bến
phà đảm bảo xe lên xuống dễ dàng.
- Thiết bị an
toàn, dụng cụ vật liệu cần thiết cho phà và ca-nô phải đầy đủ;
- Mỗi bến phải
có đầy đủ số phà để phục vụ; phà phải luôn vững chắc, khô ráo, không rỉ nước;
- Ca-nô phải
có đủ sức kéo phà, lúc nước bình thường cũng như lúc nước lũ;
- Máy móc
ca-nô phải luôn luôn ở trạng thái tốt.
d) Nhà cửa
và kho:
- Dọc theo đường
phải có nhà cho cán bộ, công nhân sửa chữa đường ở;
- Có kho, có
thiết bị máy móc dụng cụ cần thiết để bảo quản và sửa chữa dụng cụ, vật liệu,
máy móc.
Điều 2. - Để thoả mãn các điều kiện qui định ở điều 1,
yêu cầu của công tác sửa chữa đường ô tô là phải thường xuyên chăm nom và sửa
chữa để kịp ngăn ngừa hư hỏng và hàn gắn những hao mòn trên các bộ phận nền đường,
mặt đường, cầu, cống, bến phà, phà, ca-nô, nhà cửa và các thiết bị an toàn để:
- Giữ gìn
tình trạng tốt sẵn có của các công trình từ khi mới xây dựng hoặc khôi phục
xong;
- Làm cho tốt
nếu các công trình đó chưa được tốt;
- Nâng cao
tiêu chuẩn, và chất lượng các công trình; nhằm mục đích bảo đảm đường luôn luôn
được tốt và dùng được lâu dài.
Chương
2:
ẢNH HƯỞNG CỦA XE CỘ VÀ
CÁC YẾU TỐ THIÊN NHIÊN ĐỐI VỚI ĐƯỜNG SÁ
Điều 3. – Khi ô-tô chạy trên đường, đặc biệt là lúc mới
bắt đầu chạy, lúc hãm xe và lúc xe chạy vào đường cong, mặt đường thường
bị ảnh hưởng phá hoại của các lực:
- Lực ngang
làm cho mặt đường nứt rạn và bong,
- Lực đứng
làm cho mặt đường mau mòn.
Xe thô sơ do
chiều ngang nhỏ của vành bánh xe bằng sắt chở nặng, mặt đường chóng bị hỏng; xe
bằng xích làm mặt đường chóng bị hư hỏng hơn.
Trong các
vùng khí hậu nóng, mặt đường cấp thấp bị khô thì đá dăm, cấp phối và đất sẽ biến
dạng thành làn sóng ngang dưới tác động của sức nặng bánh xe. Thường thường làn
sóng ngang nằm thành những hàng song song thẳng góc với tim đường cách đều từ
0,60 đến 0,90m. Làn sóng xuất hiện là do tốc độ, lưu lượng và sức nặng của xe kết
hợp với độ ẩm của đất nền đường. Làn sóng phát sinh và khoảng cách gần là do tốc
độ xe chạy nhanh. Trọng lượng của xe, loại nhíp và kiểu bánh xe cũng ảnh hưởng
đến tốc độ phát sinh và hình thái làn sóng.
Điều 4. – Các yếu tố thiên nhiên như nắng, mưa, gió, nhiệt
độ thời tiết thay đổi không những tăng thêm tác động của bánh xe đối với mặt đường
mà chính các yếu tố ấy cũng phá hoại mặt đường rất nhiều.
Mặt đường có
độ ẩm cao, hoặc thành phần đất sét nhiều sẽ biến dạng thành vết dài dưới tác động
của sức nặng bánh xe.
Nước tác động
rất mạnh đến mặt đường. Mưa lớn và kéo dài sẽ làm cho mặt đường mềm nhũn, nhất
là mặt đường đất.
Về mùa hè, sức
nặng của bánh xe làm mòn mặt đường thành bụi. Bánh xe kéo bay bụi vào không khí
làm mỏng và yếu dần mặt đường. Mặt đường đá dăm hoặc cấp phối rải nhựa cũng bị ảnh
hưởng của mưa nắng. Khi ẩm ướt quá, lớp nhựa mỏng sẽ bớt dính kết với vật
liệu mặt đường và có thể bong lên. Khi nóng quá, lớp nhựa sẽ biến dạng khác
nhau, tuỳ theo nóng nhiều hay ít làm lồi lõm mặt đường tạo thành làn sóng trên
mặt đường.
Điều 5. – Do tác động của sức nặng bánh xe và do sự phá hoại
của các yếu tố thiên nhiên, mặt đường dần dần giảm bớt bề dày, (tính bằng mm
hay bằng m3 trên một cây số/năm).
Tốc độ của xe
cộ và cường độ của giao thông tăng lên bao nhiêu thì làm cho mặt đường hao mòn
thêm bấy nhiêu. Sự hao mòn trên các mặt đường cấp phối và đá dăm trông thấy rõ
rệt hơn trên các mặt đường có phủ nhựa.
Điều 6. – Tác động của các loại xe (xe ô-tô, xe thô sơ có
vành bánh sắt, xe bánh xích) là một trong những nguyên nhân chính kết hợp với
các yếu tố thiên nhiên làm cho mặt đường biến dạng và hư hỏng. Cũng như xe nặng
quá, xe chạy nhiều và tốc độ nhanh làm cho mặt đường nứt nẻ, lún xuống và phát
sinh ổ gà. Cho nên việc theo dõi tình hình mặt đường là rất quan trọng. Có theo
dõi sát và thường xuyên thì mới đề ra được những phương pháp sửa chữa, cách chọn
vật liệu cũng như thành phần cấp phối thích hợp để sửa chữa mặt đường.
Chương
3:
PHÂN LOẠI CÔNG TÁC SỬA
CHỮA
Điều 7. – Công tác sửa chữa đường ô tô chia ra làm 2 loại,
loại có thể dự đoán trước và loại không thể dự đoán trước:
1. Loại
công tác có thể dự đoán trước gồm có:
a) Giữ gìn và
chăm nom để bảo vệ trạng thái tốt của các công trình và đề phòng hư hỏng.
b) Sửa chữa
nhỏ
c) Sữa chữa vừa.
d) Sửa chữa lớn.
2. Loại
công tác không thể dự đoán trước:
a) Khôi phục
đường hoặc sửa chữa những hư hỏng bất ngờ (hư hỏng do phá hoại, hư hỏng lớn do
thiên tai hay hư hỏng do sửa chữa nhỏ, sửa chữa vừa và sửa chữa lớn không tốt
gây nên).
b) Cải tiến
tiêu chuẩn (nâng cao tiêu chuẩn toàn bộ con đường).
Điều 8. – Do tính chất công tác, hai loại công tác chăm
nom và sửa chữa nhỏ được gộp làm một và gọi là “sửa chữa thường xuyên”. Và bản
chế độ này chỉ qui định về loại công tác có thể dự đoán trước nói ở điểm 1) điều
7 trên.
Điều 9. – Công tác sửa chữa thường xuyên là những công tác
giữ gìn và chăm nom các công trình đề phòng hư hỏng và sửa chữa kịp thời những
hư hỏng nhỏ. Công tác này tiến hành trong suốt cả năm và trên toàn tuyến đường,
nhằm duy trì tình trạng tốt sẵn của các công trình để đảm bảo giao thông vận tải
liên tục, nhanh chóng và an toàn.
Trong mỗi mùa
mưa hoặc mùa khô, công tác sửa chữa thường xuyên có một số việc trọng tâm. Khẩu
hiệu là: chăm nom và đề phòng là chính. Công tác sửa chữa thường xuyên nhằm
không để xảy ra những hư hỏng lớn, không để gián đoạn giao thông.
Điều 10. – Công tác sửa chữa vừa là công tác sửa chữa định
kỳ ngắn hạn (hai năm trở lên một lần) tiến hành giữa hai lần sửa chữa lớn nhằm
giữ vững chất lượng của công trình bằng cách sửa chữa một số bộ phận của công
trình cho đúng tiêu chuẩn và kỹ thuật đã quy định.
Công tác này
tiến hành trên từng đoạn đường dài, đồng thời sửa chữa mặt đường thì cũng sửa
chữa nền đường và các công trình kỹ thuật. Trong khi tiến hành công tác này, có
thể gián đoạn giao thông nhưng không lâu.
Điều 11. – Công tác sửa chữa lớn là những công tác sửa chữa
định kỳ dài hạn, tổng hợp và toàn diện nhằm sửa chữa tất cả hư hỏng của một đoạn
đường dài hoặc của một công trình kỹ thuật nhằm khôi phục khả năng cũ của các
công trình; có khi nâng cao tiêu chuẩn một vài bộ phận của công trình.
Công tác này
có thể đòi hỏi đình chỉ giao thông trên đường trong một thời gian hoặc chuyển
giao thông qua một đường khác.
Công tác sửa
chữa lớn sẽ tiến hành sau khi công trình đã trải qua một hay nhiều lần sửa chữa
vừa, trung bình là bốn hay năm năm một lần.
Điều 12. – Công tác sửa chữa thường xuyên lúc đầu phải kết
hợp với sửa chữa vừa và sửa chữa lớn để hoàn thiện các công trình; đến lúc công
trình đã được hoàn thiện thì sửa chữa thường xuyên là công tác chủ yếu trong
toàn bộ công tác sửa chữa.
Ba công tác
này kết hợp được chặt chẽ và thực hiện được tốt sẽ làm cho đường sá, cầu cống,
phà, ca-nô, nhà cửa, các thiết bị an toàn càng ngày càng được nâng cao chất lượng,
dần dần trở nên hoàn chỉnh, do đó:
- Bảo đảm được
tốc độ và trọng tải xe như đã quy định, góp phần vào việc bảo đảm an toàn giao
thông.
- Hạ được giá
thành vận tải;
- Giảm bớt được
chi phí về sửa chữa vừa và sửa chữa lớn;
- Kéo dài được
thời gian phục vụ của con đường tránh được việc phải đầu tư sớm làm lại con đường
để tập trung vốn vào việc phát triển mảng lưới giao thông.
PHẦN 2:
NỘI DUNG CÔNG TÁC SỬA CHỮA
Chương
4:
CÔNG TÁC SỬA CHỮA THƯỜNG
XUYÊN
1. Mặt đường, nền đường.
Điều 13. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về
mùa khô gồm có:
a) Trên mặt
đường đất: Tưới nhẹ nước lên mặt đường để giữ độ ẩm cho mặt đường và đề
phòng sinh bụi, cạo gợn sóng cho mặt đường bằng phẳng. Ở vùng có nước mặn thì lấy
nước mặn tưới mặt đường để giữ đất ẩm được lâu.
b) Trên mặt
đường cấp phối: Dọn sạch lá cây, rác rưởi, rải đất dính, tưới nước, đầm, nện
hoặc té cát sỏi…
c) Trên mặt
đường đá dăm: Rải biên hoà hoặc cát to hạt rồi quét đi quét lại cho cát lọt
xuống kẽ đá. Tưới nước, thu nhặt đá bị bong; quét và vun cát sạn bị bắn ra lề
đường để rồi rải lại trên mặt đường.
d) Trên mặt
đường đá dăm kết vữa: Rải đất núi, đất lẫn đá mạt cho những đoạn mà vữa ở kẽ
đá đã mòn sâu.
e) Trên mặt
đường đá ong: Rải một lớp đá ong dày 3 – 4cm ở hai vệt bánh xe rồi tưới nước.
g) Trên mặt
đường nhựa: Những nơi nào trời nóng nhựa chưa gợn lên thành làn sóng thì rải
sỏi hay đá mạt. Chỗ nào bị trũng sâu, nhựa đọng lại đấy thì phải cuốc lên, vá
nhựa lại cho bằng phẳng. Luôn luôn quét và vun thành đống những sạn do xe chạy
gạt ra hai bên lề đường, để dùng lại khi cần.
h) Luôn luôn
chú ý vá những ổ gà chớm phát sinh trên các loại mặt đường.
Điều 14. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về
mùa mưa gồm có:
a) Trên mặt
đường đất, cấp phối và đá dăm. Dọn sạch bùn lầy, rải sỏi hay cát to hạt cho khỏi
trơn, nhất là đối với mặt đường đất và cấp phối.
b) Nói chung
trên mặt đường, phải làm cho khỏi ứ đọng nước.
c) Lát ván,
lát đá hộc, làm cầu cạn trên các quãng đường lầy.
d) Đối với những
hư hỏng chưa sửa chữa kịp, nếu xét có ảnh hưởng đến sự đi lại của xe cộ,
thì phải cắm cọc tiêu hay bảng hướng dẫn giao thông; nếu hư hỏng nặng có thể
nguy hiểm cho xe cộ thì phải rào lại và đặt tín hiệu an toàn.
Điều 15. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường chung
cho cả hai mùa gồm có:
a) Vá ổ gà mặt
đường đất mà diện tích vá không quá 20% diện tích mặt đường; vá ổ gà mặt đường
cấp phối mà diện tích không quá 15% diện tích mặt đường; vá ổ gà mặt đường đá
dăm nhựa, đá dăm kết vữa mà diện tích vá không quá 10% diện tích mặt đường.
b) Rải lại mặt
đường cấp phối, đá dăm theo lối xáo xới, có lu lên và thêm vật liệu mới không
quá 100lít/mét đường.
c) Rải lớp đá
ong ở hai vệt bánh xe trên mặt đường đá ong, rải dày 3-4cm không lên;
d) Làm tầng
hao mòn trên mặt đường đá dăm và mặt đường cấp phối.
e) Dự trữ vật
liệu như đá dăm, sạn cát, biên hoà chất dính, để vá ổ gà, làm lớp bảo vệ;
Điều 16. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ
thống thoát nước về mùa khô gồm có:
a) Sửa chữa lề
đường, mái ta-luy
b) Sửa chữa
hình dáng của nền đường; xén cỏ trên mép đường trên ta-luy và rãnh ở lề đường.
c) Sửa chữa
đường ngầm bằng phằng cho dễ đi.
d) Sửa chữa
rãnh ngầm.
Điều 17. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ
thống thoát nước về mùa mưa gồm có:
a) Cắt cỏ
trên lề đường. Trồng cỏ những chỗ thiếu trên ta-luy, cắt cỏ những chỗ quá tốt;
b) Sửa chữa
rãnh ngầm cho thông; khơi rãnh thoát nước; dọn cỏ rác; vét đất bùn.
c) Đắp lề đường
bị lún: đắp mái ta-luy bị lở; hốt đất sụt với khối lượng nhỏ để khai thông đường.
d) Giữ gìn đường
ngầm khỏi bị xói lở, trơ đá; cắm tiêu dọn cỏ rác, cây củi lấp lên trên đường ngầm.
Điều 18. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường chung
cho cả hai mùa gồm có:
a) Sửa chữa
hư hỏng ở những đoạn lẻ tẻ của nền đường, có đào, đắp, đầm san phẳng, hốt đất
trụt với khối lượng không quá 100m3/cây số.
b) Đắp đất,
khối lượng nhỏ, hình chóp của cầu; trồng lại cỏ với những diện tích nhỏ.
c) Sửa chữa
đá khan hình chóp, đá khan áp trúc ta-luy đường với diện tích nhỏ.
d) Đào rãnh mới;
lát lại đường ngầm từng diện tích nhỏ với khối lượng đá độ 10-20m3.
e) Phát cây
hai bên đường để giữ tầm nhìn luôn luôn được tốt.
2. Cầu, cống.
Điều 19: Các công trình cầu cống được phân loại như sau:
a) Công
trình vĩnh cửu: Mố và trụ xây; mố và trụ bê-tông, bê-tông cốt thép. Mố và
trụ sắt thép. Mặt cầu bê-tông, sắt thép. Các công trình cuốn xây bằng gạch đá.
b) Công
trình bán vĩnh cửu: Mố trụ vĩnh cửu, mặt cầu bằng gỗ hoặc bằng thép nhưng
không bảo đảm khổ cầu; cầu thép lắp bằng chốt; cầu IPN; cầu hoàn toàn bằng gỗ tứ
thiết, có phòng mục, phòng hà, thiết kế đúng chuẩn tắc.
c) Công
trình tạm thời: Toàn bộ bằng gỗ, không phòng mục, không phòng hà; mố và trụ
bằng gỗ, mặt bằng sắt thép; mố và trụ bằng đá xây khan, mặt gỗ.
Điều 20. – Các công trình cầu được phân hạng căn cứ vào
chiều dài và tầm của công trình như sau:
a) Cầu
hãng lớn:
- Cầu nhiều dịp
và chiều dài bằng hoặc hơn 100m;
- Cầu nhiều dịp
và chiều dài từ 80m đến 100m; nhưng tối thiểu có một dịp dài bằng hoặc hơn 16m;
- Cầu một dịp
dài bằng hoặc hơn 30m.
b) Cầu hạng
vừa:
- Cần nhiều dịp
và chiều dài từ trên 30m đến dưới 100m;
- Cầu nhiều dịp
chiều dài dưới 30m nhưng có một dịp dài trên 10m;
- Cầu một dịp
dài từ trên 10m đến 30m
c) Cầu hạng
nhỏ:
- Cầu nhiều dịp
dài bằng hoặc dưới 30m, các dịp cầu đều dài bằng hoặc dưới 10m.
- Cầu một dịp
dài bằng hoặc dưới 10m.
Điều 21. – Phân biệt cầu và cống như sau:
a) Cầu là những
công trình có khẩu độ từ 3m trở lên, không có đất đắp lên trên, nếu có thì bề
dày đất đắp kể cả mặt đường không quá 0,50m.
Những công
trình vòm mà khẩu độ trên 6m, dù lớn đất đắp lên trên dày hơn 0,50m cũng gọi là
cầu.
b) Cống là những
công trình có khẩu độ từ 3m trở xuống. Những công trình có khẩu độ từ 3m đến 6m
mà bề dày đất đắp kể cả mặt đường trên 0,50m cũng gọi là cống.
Điều 22. - Chiều dài của công trình là chiều dài đo theo
mặt trên của công trình.
Tâm của công
trình là chiều dài đo từ tim gối này qua tim gối kia của công trình.
Khẩu độ của
công trình là khoảng trống từ mố này qua mố kia của công trình.
Điều 23. – Công tác sửa chữa thường xuyên các công trình
cầu gồm có:
a) Giữ gìn sạch
sẽ các bộ phận của công trình; thông cống, đóng đinh ván cầu; xiết bu lông; cho
dầu mỡ.
b) Sửa chữa
hoặc thay đổi một vài tấm ván mặt cầu, một vài lan can, tay vịn.
c) Sơn một
vài bộ phận nhỏ như bu-lông, ri-vê.
d) Sửa chữa mặt
cầu cho bằng phẳng, thoát nước.
e) Sửa chữa
đường vào đầu cầu cho bằng phẳng với mặt cầu.
g) Sửa chữa
hoặc thay thế các bộ phận cá biệt ngẫu nhiên hư hỏng, hoặc để đề phòng hư hỏng.
h) Thay một số
đinh ri-vê, bu-lông hay các bộ phận khác không phức tạp.
i) Quét lại
thuốc phòng mục các bộ phận bằng gỗ.
k) Sửa chữa mạch
vữa ở tường cánh gà, mố và trụ cầu; sửa chữa những hư hỏng nhỏ các bộ phận bằng
đá, bằng bê-tông hoặc bê-tông cốt thép.
l) Thay một số
ván mặt cầu, một số ván băng lăn, chắn bánh xe, lan can, tay vịn.
m) Thay lẻ tẻ
các bộ phận khác của cầu không phức tạp.
n) Làm cống gỗ.
3. Bến phà, phà, ca-nô:
Điều 24. - Giới hạn thuộc phạm vi bến phà gồm có:
a) Đường ô-tô
từ biển báo hiệu của bến bên này đến biển báo hiệu của bến bên kia.
b) Bờ sông
trong phạm vi 100m về phía thượng lưu bến phà và 100m về phía hạ lưu bến phà.
Điều 25. – Công tác sửa chữa thường xuyên bến phà, phà,
và ca-nô gồm có:
a) Về mùa khô:
- Sửa chữa nhỏ
đường xuống phà;
- Thay thế một
vài tấm ván phà, ca-nô;
- Sắm sửa,
thay thế chèo, sào, giây cáp, giây neo, pu-li xích;
- Cạo rêu bám
mạn phà, ca-nô (một tháng một lần), tưới nước cho gỗ được ẩm khỏi nứt nẻ và các
mạch xảm được kín.
Ở các bến phà
chỉ dùng trong mùa mưa, thì mùa khô phải tìm chỗ nước sâu để dìm phà. Ở vùng có
nước mặn, nếu vì một lý do gì mà phà không dùng thì phải kích lên chỗ cao ráo,
cạo hà, sơn lườn phà và ca-nô; có mái che mưa nắng và phải trông nom thường
xuyên.
b) Về mùa
mưa:
- Thay đổi vị
trí cọc, xích phà thích hợp với tình hình sông nước.
- Luôn luôn
chú ý tát nước phà, ca-nô;
- Chuẩn bị chỗ
dấu phà và ca-nô khi lụt bão;
- Thường
xuyên kiểm tra cột căng dây cáp, cho dầu mỡ dây cáp và pu-li.
c) Đối với
máy ca-nô:
- Hàng ngày:
thường xuyên kiểm tra các bộ phận của máy, cho dầu, thử lái, tiếp điện;
- Sau 100 giờ
máy chạy; thay dầu mỡ toàn bộ, thay dầu máy, bơm mỡ, xem lại nước bình điện và
thêm hoặc thay nếu cần. Kiểm tra và sửa chữa nhỏ các bộ phận bên ngoài;
- Sau 300 giờ
máy chạy: xem lại bi-en, hạ bi-en nếu cần, xem lại hơi nén của máy;
- Sau 1000 giờ
máy chạy: rà lại xu-páp, xiết lại ốc, kiểm tra máy, xem lại séc-măng, cạo ống
hút hơi, nắn trục bị cong, chân vịt vẹo.
4. Nhà cửa và thiết bị an toàn:
Điều 26. – Công tác sửa chữa thường xuyên nhà cửa và thiết
bị an toàn gồm có:
a) Giữ gìn sạch
sẽ nhà cửa của cán bộ công nhân ở, tu bổ vườn, bảo vệ cây trong vườn.
b) Về mùa
mưa, lũ, bão, bảo vệ nhà cửa khỏi dột, sụp đổ.
c) Bảo vệ,
chăm sóc thường xuyên cây trồng hai bên đường; thay cây chết; chăm sóc vườn
hoa.
d) Trồng cây
lại cột số, sơn, kẻ chữ lại và trồng lại biển báo hiệu; quét nước vôi các cọc
tiêu, hàng rào an ninh, tường chắn…
e) Bảo quản,
tu sửa thường xuyên các dụng cụ, phương tiện vận chuyển, máy móc, thiết bị thường
dùng trong công tác hàng ngày, các dụng cụ tập thể, bàn ghế, giường tủ…
Chương
5:
CÔNG TÁC SỬA CHỮA VỪA
1. Mặt đường, nền đường:
Điều 27. – Công tác sửa chữa vừa mặt đường và nền đường gồm
có:
a) Mặt đường:
- Rải mặt đường
cấp phối, đá dăm theo lối xáo xới từng đoạn có thêm vật liệu mới từ 100 đến 250
lit/mét đường.
b) Nền đường:
- Đắp phụ nền
đường bị khuyết liệt, khối lượng đất đào đắp không quá 300m3/cây số;
- Sửa lại
toàn bộ rãnh dọc và rãnh ngang; đào thêm rãnh thoát nước; sửa chữa rãnh thoát
nước;
- Sửa chữa đường
ngầm, xếp thêm đá, đóng thêm cọc, củng cố các cũi bằng gỗ bỏ đá hộc, xây lại kè
bảo vệ mép đường;
- Sửa chữa
các chỗ nền đường bị hư hỏng nặng do mưa lũ hay một nguyên nhân nào khác; hốt đất
trụt khối lượng không quá 30m3.
2. Cầu, cống:
Điều 28. – Công tác sửa chữa vừa các công trình cầu cống
gồm có:
a) Sửa chữa,
thay thế một số rầm, cọc, nạnh chống, gỗ gối. Thay thế toàn bộ ván mặt cầu,
băng lăn, lan can, tay vịn.
b) Sửa chữa
những chỗ nứt vỡ ở mặt cầu bê-tông, nối cốt thép mới để thay cốt thép bị han rỉ
nhiều.
c) Thay thế một
số bộ phận hư hỏng của cầu sắt.
d) Sơn phòng
rỉ toàn bộ cầu sắt thép, hoặc toàn bộ các bộ phận sắt thép của các cầu khác.
e) Sửa chữa mố
trụ bị nứt rạn.
g) Phòng mục
lại toàn bộ cầu gỗ. Phòng hà các bộ phận bằng gỗ mà lúc làm mới chưa được phòng
hà.
3. Bến phà, phà, ca-nô.
Điều 29. – Công tác sửa chữa vừa bến phà, phà, ca-nô gồm
có:
a) Bến
phà:
Sửa chữa, củng
cố bến phà cũ, rải lại mặt đường xuống bến phà.
b) Phà,
ca-nô:
Sửa chữa các
bộ phận của phà, vỏ ca-nô, phòng hà phà và vỏ ca-nô, thui xãm thường kỳ
phà và vỏ ca-nô (bến nước ngọt: sáu tháng một lần; bến nước mặn: bốn tháng một
lần; bến nước giao: ba tháng một lần). Thay đáy phà, đáy ca-nô, mui ca-nô.
c) Máy ca-
nô:
Sau 2500 giờ
máy chạy, xét lại toàn bộ máy và nếu cần thì doa xi-lanh, thay toàn bộ
séc-măng, thay pit-tông, thay xu-páp, làm lại bi-en và pa-li-e. Thay các bộ phận
hư hỏng thay trục, chân vịt, côn số…
4. Nhà cửa và các thiết bị an toàn.
Điều 30. – Công tác sửa chữa nhà cửa và các thiết bị an
toàn gồm có:
a) Sửa chữa
toàn bộ nóc nhà.
b) Sửa chữa
tường ngăn cách các phòng.
c) Thay cửa
chính và cửa sổ.
d) Làm lại
hàng rào, giếng nước.
e) Làm thêm
các thiết bị trong nhà (bàn, ghế, giường, tủ, v.v…)
g) Làm thêm nhà
phụ thuộc (nhà bếp,nhà xí,nhà tắm...)
h) Làm mới cột
cây số, biển báo hiệu, các thiết bị an toàn khác.
Chương
6:
CÔNG TÁC SỮA CHỮA LỚN
1. Mặt đường, nền đường:
Điều 31. – Công tác sửa chữa lớn mặt đường gồm có:
a) Rải lại mặt
đường cấp phối, đá dăm, đá ong có phụ thêm đá móng hoặc không phụ.
b) Cuốc đi rải
lại mặt đường nhựa quá hư hỏng bằng đá dăm hoặc cấp phối.
c) Rải lại bằng
đá dăm bùn lên mặt đường cấp phối hay đá dăm nước, hoặc rải lại bằng đá dăm nước
trên mặt đường, đá dăm bùn, tuỳ theo yêu cầu của mặt đường và nguyên vật liệu.
d) Láng nhựa
mặt đường nhựa bạc đầu, rạn chân chim.
Điều 32. – Công tác sửa chữa lớn nền đường gồm có:
a) Đắp phụ nền
đường bị khuyết liệt, mở rộng, tôn cao, nắn cong, hạ dốc (có kết hợp cải thiện
tiêu chuẩn cấp đường với những đoạn ngắn lẻ tẻ) khối lượng đất đào đắp không
quá 500m3/cây số.
b) Xây dựng
những công trình và thiết bị phòng đất trụt lở, phòng nước ngầm lầy lội.
c) Xây dựng
kè bằng đá.
d) Hốt đất trụt
hoặc những đoạn đường sắp trụt khối lượng trên 300m3/cây số.
e) Xây lại hoặc
làm mới đường ngầm.
g) Xây dựng
các công trình phụ thuộc để bảo vệ các công trình lớn để với kinh phí không quá
mười nghìn đồng 10.000đ.
2. Cầu, cống:
Điều 33. – Công tác sửa chữa lớn cầu, cống gồm có:
a) Sửa chữa và
tăng cường cầu, cống hư hỏng trên cơ sở cũ, mở rộng và xây dựng các thiết bị bảo
vệ nhằm nâng cao tiêu chuẩn công trình.
Những công
tác dưới đây cũng được coi như là công tác sửa chữa lớn cầu, cống:
b) Khôi phục
cầu hạng trung trên cơ sở mố trụ cũ sẵn có, kinh phí không quá sáu mươi nghìn đồng
(60.000đ).
c) Làm mới cầu
gỗ các loại;
d) Làm cầu
bàn vĩnh cửu và vĩnh cửu khẩu độ từ 12m trở xuống, kinh phí không quá sáu mươi
nghìn đồng (60.000đ).
e) Làm mới
các loại cống đúc, cống xây, cống tứ bất dụng, cống bê-tông và bê-tông cốt
thép.
3. Bến phà, phà, ca-nô:
Điều 34. – Công tác sửa chữa lớn bến phà, phà, ca-nô gồm
có:
a) Bến
phà:
- Xây dựng lại
bến phà cũ, xây thêm, sửa chữa và mở rộng để cải thiện bến phà với kinh phí từ
năm mươi nghìn đồng (50.000đ) trở xuống. Hốt bùn, cát bồi lấp bến phà.
b) Phà và
ca- nô:
Đóng lại phà
và vỏ ca-nô bằng gỗ (tháo phà và ca-nô cũ đã qua sửa chữa vừa, sử dụng vật liệu
cũ còn tốt và thêm vật liệu mới để đóng lại).
c) Máy ca-
nô:
Sau 5.000 giờ
máy chạy: thay và sửa chữa lớn các bộ phận của máy, kể cả tay lái và chân vịt.
4. Nhà cửa:
Điều 35. – Công tác sửa chữa lớn nhà cửa gồm có:
a) Sửa chữa
toàn bộ nhà ở của các Cung, Hạt, Đoạn, bến phà, có mở rộng và làm thêm nhà phụ
thuộc, nhà bếp, nhà tắm, nhà xí.
b) Làm nhà ở
cho cán bộ công nhân Đoạn, Hạt, Cung, bến phà, kinh phí không quá mười nghìn đồng
(10.000đ)
PHẦN 3:
KỸ THUẬT CÔNG TÁC SỮA CHỮA
Chương
7:
NỀN ĐƯỜNG, MẶT ĐƯỜNG
A. NỀN ĐƯỜNG
Điều 36. - Nền đường là bộ phận chủ yếu của đường, mặt đường
đẹp hay xấu là do nền đường có vững chắc hay không; nền đường vững chắc hay
không là do xây dựng, chăm nom và sửa chữa thiết bị thoát nước tốt hay xấu quyết
định một phần lớn. Do đó công tác sửa chữa rãnh thoát nước là làm thế nào để
duy trì trạng thái tốt đẹp của nó để nước chạy được thông. Trước mùa mưa, phải
sửa sang các thiết bị thoát nước được hoàn bị, và sau mỗi trận mưa thì cần dọn
sạch những chỗ đọng bùn, rác rưởi ảnh hưởng đến sự thoát nước.
Công nhân sửa
chữa đường cần phải tuần tra và xem xét để khai thông các thiết bị thoát nước kịp
thời (rãnh thoát nước dọc theo đường, rãnh xương cá ngang lề đường rãnh đỉnh
trên ta -luy, cống ngầm…)
Khi dọn rãnh
thoát nước thì nên dọn từ cửa nước chạy ra rồi dần dần lên phía trên, và phải dọn
các rãnh cho đúng hình cắt ngang cũ và độ dốc cũ. Nếu cần thì tăng hay giảm độ
dốc (tăng độ dốc là để nước thoát mau chóng, giảm độ dốc là để giảm bớt tốc độ
nước chạy xói lòng rãnh có thể làm trụt ta-luy rãnh).
Điều 37. - Lề đường cần phải bằng phẳng và vững chắc, có
độ dốc ra rãnh thoát nước từ 4 – 5%. Mặt lề đường tiếp giáp với mặt đường cần
phải bằng phẳng để không cản trở việc thoát nước ở mặt đường xuống rãnh.
Điều 38. - Lề đường phải được san cho bằng phẳng khi có vệt
bánh xe, dấu chân súc vật đi lại. Đất dùng để đắp lề đường phải là đất tốt và
chắc, hoặc loại đất giống như chất đất của lề đường. Đất đắp phải làm từng lớp
dày 15-20cm đầm, nền kỹ. Nếu đất khô thì nên tưới nước để đầm cho dễ. Ở những
đoạn đường mà lề đường thường bị xe cộ tránh nhau làm hỏng thành vệt hoặc bị
người và súc vật đi lại làm trụt lở thì lề đường cần phải được chăm nom và sửa
chữa thật chắc; trên lề đường rải cấp phối dày độ 5cm.
Điều 39. – Ta-luy đường đào không được để trụt lở. Khi thấy
ta-luy đường đào bị hư hỏng hoặc trụt lở cần tìm nguyên nhân xem là do đất xấu,
hay đào chưa đúng độ thoải hoặc là bị nước ngầm xuyên qua ta-luy. Phương pháp sửa
chữa là đào ta-luy thêm độ thoải, xây kè, lát đá mái ta-luy, trồng cỏ, làm công
trình dẫn nước ngầm đi lối khác, xây rãnh ngầm…
Điều 40. – Ta-luy đường đắp bị hư hỏng, nguyên nhân chính
do đất thấp, đầm, nện không kỹ cho nên bị lún và trụt lở ta-luy, dốc đứng quá,
chất đất đắp xấu. Phương pháp sửa chữa là đắp mái ta-luy, trồng cỏ, lát đá mái
ta- luy, xây kè chân ta-luy…
Điều 41. - Ở những đoạn đường cong cần chú ý phát cây cối
hai bên đường để bảo đảm tầm nhìn đã quy định. Ở trên đỉnh ta-luy cần chặt những
cây ở sát mép ta-luy đề phòng cây đổ làm trụt ta-luy, cản trở giao thông hoặc
gây ra tai nạn.
Điều 42. – Thùng đấu lấy đất sửa chữa đường không được
đào sâu quá 1m và mép thùng đấu phía chân ta-luy phải cách xa chân ta-luy tối
thiểu bằng năm lần bề sâu thùng đấu.
B. MẶT ĐƯỜNG
1. Mặt đường
đất:
Điều 43. – Đường đất là loại đường chưa ổn định; thời tiết
thay đổi rất ảnh hưởng đến tình hình xấu tốt của mặt đường. Vì tính chất chưa ổn
định, cho nên việc thoát nước đối với đường đất rất quan trọng. Luôn luôn phải
giữ gìn rãnh thoát nước được sạch sẽ, không bị cỏ lấp, bùn đọng; các cống ngầm
được thông suốt.
Điều 44. – Mặt đường luôn luôn phải được sửa chữa cho bằng
phẳng. Độ nghiêng mui luyện của mặt đường từ 3 – 4%. Lề đường phải có độ
nghiêng 4 – 5%. Mặt đường và lề đường luôn luôn phải được giữ gìn không hư hỏng
và nện chặt.
Điều 45. – Công tác chăm nom sửa chữa mặt đường đất qua
các mùa:
a) Sau mùa
mưa, đường đất thường thường có nhiều ổ gà và vệt lăn bánh xe do trong mùa mưa
mặt đường ẩm ướt mà bị tổn hại. Đến lúc mặt đường khô ráo những vệt lăn bánh xe
và ổ gà làm cho mặt đường rất xấu, xe chạy khó khăn.
Phương pháp sửa
chữa là dùng đất tại chỗ mà lấp các ổ gà, rồi dùng xẻng mà cạo mặt đường cho bằng
phẳng, làm mất hết các chỗ lồi lõm: Nếu có máy san thì dùng mà san mặt đường
cho bằng phẳng.
b) Trong mùa
nắng to, đất quá khô, xe chạy cạo đất mặt đường thành bụi làm hư hại mặt đường,
do đó cần phải tưới nước rồi dùng trục lăn mà nén, nếu có trục máy càng tốt.
Điều 46. – Trước mùa mưa, cần chú trọng sửa chữa các thiết
bị thoát nước (rãnh xương cá, rãnh thoát nước dọc lề đường, cống ngầm...).
Chuẩn bị vật
liệu để chống đường trơn và chống lầy cho mùa mưa sắp tới.
Điều 47. – Trong mùa mưa, cần luôn luôn giữ mặt đường khỏi
nước ứ đọng. Trong những ngày tạnh ráo, tranh thủ cạo mặt đường cho bằng phẳng.
Nếu có hiện tượng trơn trượt làm cho xe khó chạy, thì phải dùng cát hay sỏi rải
lên mặt đường.
Điều 48. – Nếu mặt đường sinh ra lầy lội nghiêm trọng thì
phải chống lầy. Trước khi chống lầy phải tìm nguyên nhân lầy lội sinh ra do xây
dựng hay do chăm nom sửa chữa.
Muốn sửa chữa
những đoạn lầy lội nghiêm trọng, cần phải điều tra nghiên cứu kỹ tình hình
thiên nhiên và quá trình những biến đổi của lầy lội để định ra biện pháp cụ thể.
Điều 49. – Nguyên nhân lầy lội và tình trạng lầy lội được
xác định như sau:
a) Nguyên
nhân lầy lội về mặt xây dựng là do thiết kế và thi công không đúng kỹ thuật, cụ
thể là:
- Sự cấu tạo
của mặt đường và nền đường không thích ứng với nhu cầu lưu lượng và sức nặng của
xe cộ;
- Dùng những
vật liệu không tốt để làm mặt đường.
- Không xây dựng
đầy đủ thiết bị thoát nước;
- Ở những
vùng đồng bằng thoát nước khó khăn, mức nước lụt cao nhưng bề cao nền đường
không đủ.
b) Nguyên
nhân lầy lội về mặt chăm nom sửa chữa là do không chu đáo, không theo đúng quy
tắc, cụ thể là:
- Cỏ mọc đầy
rãnh làm cho nước ứ tắc; ta-luy đổ trụt, rãnh ngầm không thông mặt đường, lề đường
gồ ghề không bằng phẳng, không có độ nghiêng làm cho nước không thoát được, mặt
đường ẩm ướt;
- Trâu kéo gỗ
dọc theo đường; xe quẹt, xe bò, xe ngựa vành bánh sắt nhỏ bản, máy kéo bánh
xích đi trên đường, cây mọc hai bên đường quá rậm rạp che kín mặt đường làm cho
mặt đường trời mưa ẩm ướt, trời nắng lâu khô;
- Không chú
trọng đến các đoạn đường lầy lội để chuẩn bị vật liệu cần thiết cho việc chống
lầy kịp thời.
Điều 50. – Phương pháp để phòng và chống lầy lội:
a) Ở những đoạn
đường mà độ dốc tương đối nhỏ (1-2%) hoặc những đoạn đường nhiều dốc thì cứ
cách 50m phải có một rãnh thoát nước từ rãnh dọc ra ngoài.
b) Mặt đường
khi nào cũng phải bằng phẳng có mui luyện cần thiết từ 3 đến 4% để việc thoát
nước được dễ dàng; trên mặt đường không có nước ứ đọng.
c) Mỗi khi xe
chạy gây thành những vệt sâu theo lằn bánh xe thì cần phải san phẳng và sửa chữa
bằng cách gia cố thêm số lượng vật liệu, hay gia cố với vật liệu tốt hơn.
d) Trên những
đoạn đường lầy lội nghiêm trọng chưa có thể sửa chữa hay ổn định ngay được thì
có thể dùng mấy phương pháp sau đây:
- Vét hết
bùn, cho cát xuống đầm nện kỹ; làm rảnh xương cá thoát nước (dùng cát to hạt
không pha đất);
- Vét hết
bùn, xây đá hộc cỡ 15 x 20cm, đổ sỏi sạn hay đá dăm, chèn các lỗ, kẽ;
- Làm cầu cạn
rồi đổ lên trên một lớp cát hay sỏi.
Điều 51. – Gia cố mặt đường đất:
a) Qua các
mùa tuy có phương pháp sửa chữa thường xuyên nhưng cũng khó bảo đảm cho xe chạy
thuận lợi, cho nên đối với loại đường đất cần cải thiện hoặc làm vững chắc bằng
cách gia cố với vật liệu sẵn có tại chỗ;
- Mặt đường
là đất sét, đến mùa mưa, ẩm ướt trơn lầy, thì nên dùng cát to hạt, đá cuội, sạn,
sỏi, gạch ngói vụn, xỉ lò cao, đất sét nung.
- Ở những đoạn
đường đất cát đến mùa nắng sinh bụi thì dùng đất sét nhão mà gia cố;
b) Bề dày gia
cố, tuỳ theo chất đất xấu tốt của đường và lưu lượng xe cộ mà quyết định.
- Nếu lượng
xe chạy tương đối nhiều trên những đoạn đường đất đắp thì bề dày có thể là
20cm.
- Nếu lượng
xe chạy ít và ở những đoạn đất đào thì bề dày độ 15cm;
- Trong mọi
trường hợp, bề dày gia cố tối thiểu phải là 10cm.
2. Mặt đường
cấp phối;
Điều 52. – Mặt đường cấp phối về mùa khô ráo, chất dính vỡ
ra thành bột, các nguyên liệu (sỏi, sạn) rời rạc, xe chạy làm bỏng mặt đường. Về
mùa mưa lụt, chất dính bị thấm nhiều nước thành nhão, xe chạy làm cho mặt đường
bị lún, sinh ổ gà.
Do đó, mặt đường
cấp phối phải được giữ gìn với độ ẩm thích hợp. Mùa khô cần phải tưới nước; mùa
mưa phải làm cho thoát nước để mặt đường được khô ráo; và trong cả hai mùa cần
rải lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm với sỏi nhỏ hạt từ 2 đến 5mm. Cần chú ý luôn
luôn quét vào lòng đường lớp sỏi bảo vệ bị xe chạy làm văng ra rìa đường.
Điều 53. - Ổ gà phát sinh nhiều trên mặt đường cấp phối.
Muốn vá ổ gà, trước tiên dọn sạch những tạp vật ở trong ổ gà và vét đất đá bong
ra xung quanh ổ gà. Đào các ổ gà theo hình góc, đào sâu hơn bề sâu ổ gà 2cm sắc
cạnh đứng thành; tưới nước cho ẩm đáy ổ gà. Trộn cấp phối bằng vật liệu và theo
tỷ lệ cấp phối của mặt đường rồi đắp vào và đầm nện kỹ. Ổ gà sâu từ 8cm trở xuống
thì vá cấp phối một lớp; nếu ổ gà sâu quá 8cm thì vá hai lớp, lớp trên bằng 1/3
lớp dưới.
Điều 54. – Nếu trên một đoạn đường có nhiều hố, hoặc cấp
phối bong ra vung vãi thì phải sửa chữa toàn bộ mặt đường theo hai phương pháp
sau đây:
a) Nếu bề dầy
cấp phối còn thích hợp, thì không cần thêm vật liệu.
Quét sạch tất
cả các tạp vật trên đường.
Xới mặt đường,
thêm chất dính, trộn đều, san bằng có mui luyện 3 – 4%.
- Tưới nước
và dầm nện, nếu có trục nặng 5T mà lên thì tốt;
- Rải lớp bảo
vệ dày từ 5 đến 8mm với sỏi hạt nhỏ từ 2 đến 5mm.
b) Nếu bề dày
cấp phối không còn thích hợp, thì cần phải thêm vật liệu:
- Chuẩn bị vật
liệu để vá ổ gà và để rải lớp dầy thêm;
- Vá các ổ
gà;
- Quét sạch
các tạp vật trên mặt đường;
- Rải lớp dày
thêm độ 3 đến 6cm;
- Rải lớp bảo
vệ.
3. Mặt đường
đá dăm:
Điều 55. – Mặt đường đá dăm sau khi mới làm xong, chưa được
ổn định. Cho nên công trường rải đá dăm sau khi làm xong, phải tiếp tục chăm
nom thêm một tháng bằng cách hàng ngày tưới nước và rải lớp bảo vệ. Sau đó mới
giao lại cho công nhân sửa chữa đường.
Điều 56. - Để bảo vệ mặt đường đá dăm thường hay bị bong
đá, dần dần sinh ra ổ gà, mặt đường luôn luôn phải được giữ gìn sạch sẽ và rải
một lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm có hạt từ 2 đến 5mm. Có thể tận dụng nguyên vật
liệu sẵn có tại chộ như cát, sỏi, sạn, đá mạt, biên hoà, đá sít già…
Điều 57. – Mặt đường đá dăm có ổ gà sửa chữa theo những
phương pháp sau đây:
- Bới sạch những
đất đá nằm lỏng chỏng trong lòng ổ gà, những hòn đá to thì đập thành đá nhỏ độ
2cm;
- Đào vuông cạnh
đứng thành; đào sâu hơn bề sâu ổ gà tối thiểu là 2cm và bề sâu tối thiểu của ổ
gà sau khi đã đào thêm phải là 8-10cm, lúc đào phải để lại ở đáy ổ gà một lớp
đá cũ;
- Đắp đá mới
cỡ 3 – 4cm cho đầy ổ gà, tưới nước và đầm nện thật chặt;
- Dùng đá nhỏ
cỡ 2cm (đá cũ đã đập sẵn nói trên chèn cho các kẽ hở cho chắc chắn);
- Rải và quét
chất dính vào đầy các kẽ hở của đá, tưới nước và đầm nện, làm độ ba bận cho chất
dính lấp đầy các kẽ;
- Rải lên
trên cùng một lớp cát to hạt, đầy độ 5 – 8mm và đầm lại.
Điều 58. - Nếu mặt đường có nhiều ổ gà gần nhau thì nên kết
hợp hai, ba ổ gà làm một mà vá, như vậy chắc chắn hơn và xe chạy đỡ xóc hơn.
Điều 59. - Nếu ổ gà sâu đến đất nền đường thì cũng phải
đào sạch như vá ổ gà thường. Đầm nện đất đáy cho chắc chắn rồi mới vá ổ gà bằng
đá dăm. Nếu thấy đất nền đường xấu thì phải lát đá mỏng cỡ 10 – 15cm rồi mới vá
bằng đá dăm.
Điều 60. – Vá ổ gà thì nên dùng đá cùng một loại với đá
cũ của mặt đường. Đá thường dùng có ba loại:
- Đá hoa
cương,
- Đá cối xay,
- Đá vôi.
Loại đá vôi
thích hợp và phổ biến hơn cả.
Điều 61. - Nếu mặt đường đá dăm đã có nhiều ổ gà hoặc đã
bị bong nhiều thì phải tiến hành sửa chữa lại toàn bộ mặt đường bằng cách xào xới
(thêm vật liệu từ 100 lít đến 250 lít/mét dài).
Phương pháp rải
xáo xới như sau:
a) Trường hợp
mặt đường có nhiều ổ gà sâu:
- Cuốc toàn bộ
mặt đường lên, nhưng phải để lại một lớp đá cũ dày 3 – 7cm;
- Vá các ổ
gà;
- San đá cũ
cho đều, có mui luyện;
- Rải đá mới
lên trên, san đều, có mui luyện;
- Tiến hành
lu lèn theo quy phạm rải đá dăm.
b) Trường hợp
mặt đường bong đá, ổ gà cạn:
- Cuốc toàn bộ
mặt đường, nhưng phải để lại một lớp đá cũ dày độ 3 – 7cm;
- San đá cũ
cho đều, có mui luyện;
- Rải đá mới
lên trên, san đều, có mui luyện.
- Tiến hành
lu lèn theo quy phạm rải đá dăm.
Điều 62. - Nếu mặt đường đá dăm đã mòn đến mức độ không bảo
đảm lưu lượng và sức nặng của xe chạy trên đường, thì phải thiết kế mặt đường để
rải lại một lớp mới lên trên mặt đường cũ. Vật liệu rải mới không dưới 350
lít/mét dài đối với mặt đường rộng 3,50m và không dưới 550 lít/mét dài đối với
mặt đường rộng 5,50m.
Phương pháp
tiến hành công tác như sau:
- Vá ổ gà nếu
có;
- Sửa chữa mặt
đường cũ cho có mui luyện cần thiết, bằng cách đào chân khay hai mét đường đứng
thành, bề sâu bằng bề dầy lớp đá sắp rải, gọt mui luyện;
- Cuốc từng
rãnh ngang trên mặt đường cũ, cứ cách 0,50m một rãnh, mục đích là để cho lớp đá
mới gắn liền với mặt đá cũ;
- Tiến hành rải
lớp đá mới theo quy phạm rải mặt đường đá dăm.
4. Mặt đường
đá ong:
Điều 63. – Mặt đường đá ong về mùa nắng sinh nhiều bụi,
cho nên cần chú ý thường xuyên tưới nước.
Về mùa mưa mặt
đường có thể trơn lầy cần bảo đảm mui luyện để thoát nước dễ dàng, giữ mặt đường
được khô ráo.
Điều 64. - Lề đường phải bằng phẳng, có độ nghiêng 4 – 5%
không cản trở nước ở mặt đường chạy ra mương dọc. Hệ thống thoát nước như mương
dọc, rãnh ngang, rãnh ngầm luôn luôn phải được thông suốt, không để nước ứ đọng.
Điều 65. – Khi thấy hai vết bánh xe mòn sâu thì rải lên
trên một lớp đá ong đồng loại với đá ong của mặt đường, san đều và lợi dụng sức
nặng của xe cộ qua lại để lèn chặt, mà không cần phải đầm nện. Trước khi rải lớp
sỏi ong mới, cần tưới nước mặt đường cũ cho ẩm để bảo đảm sự dính kết tốt giữa
vật liệu cũ và mới.
Điều 66. – Vá ổ gà trên mặt đường đá ong tiến hành như
sau:
- Quét dọn hết
tạp vật và sỏi ong rời rạc trong ổ gà;
- Đào vuông cạnh
đứng thành, sâu hơn bề sâu của ổ gà 2cm; và bề sâu tối thiểu của ổ gà sau khi
đã được đào thêm phải là 5cm.
Dùng sỏi ong
cùng một loại với sỏi ong của mặt đường cho vào ổ gà, tưới nước, đầm nện thật kỹ.
Điều 67. – Nếu mặt đường đá ong đã mòn nhiều không bảo đảm
lưu lượng và sức nặng xe chạy, thì phải thiết kế lại mặt đường để rải lại một lớp
mới lên trên mặt đường cũ.
Phương pháp
tiến hành rải lớp mới như sau:
- Vá ổ gà nếu
có.
- Cuốc chân
khay mép đường bề sâu bằng bề dày lớp mới định rải.
- Gọt mui luyện
3 – 4%.
- Tưới nước
cho ẩm mặt đường cũ, rải vật liệu mới, san đều, có mui luyện, tưới nước và dùng
lu 5T lèn đến độ 3T5 m3/cây số.
5. Mặt đường
nhựa.
Điều 68. – Mùa nắng nhiệt độ trên mặt đường nhựa lên đến
50 - 650C, mà thường thường nhiệt độ mềm của nhựa rải đường thấp hơn
nhiệt độ trên mặt đường cho nên nhựa chảy ra, xe chạy qua, nhựa dính vào bánh
xe bị kéo lên từng lớp, làm hỏng mặt đường.
Để đề phòng
hư hỏng mặt đường nhựa lúc trời nắng, cần dự trữ hai bên đường sỏi cỡ 5 – 15mm
hoặc đá mạt để lúc nào thấy nhựa chớm chảy thì té ra mặt đường. Luôn luôn quét
vun thành đống những sạn sỏi do xe chạy gạt ra hai bên đường để rồi té trả lại
trên mặt đường.
Điều 69. - Nếu mặt đường nhựa có ổ gà thì phải tiến hành
vá các ổ gà kịp thời khi mới phát sinh, nếu để ổ gà phát triển rộng và sâu thì
việc sửa chữa sẽ rất tốn kém.
Công tác vá ổ
gà mặt đường đá dăm rải nhựa tiến hành như sau:
Phương
pháp thứ nhất:
a) Tiến hành
vá ổ gà như vá ổ gà đá dăm thường.
b) Sau khi vá
ổ gà bằng đá dăm xong, tuỳ theo tình hình mặt đường cũ đã được rải nhựa thấm
sâu, thấm nửa chừng, hoặc mới thấm trên mặt mà tiến hành rải nhựa mới.
- Nếu mặt đường
rải nhựa đã thấm sâu và thấm nửa chừng thì sau khi vá ổ gà bằng đá dăm rồi,
không cho chất dính vào kẽ đá, mà đổ nhựa cho đầy các kẽ hở của đá.
Nếu mặt đường
rải nhựa mới thấm trên mặt thi cho chất dính vào các kẽ hở của đá như vá ổ gà
thường nhưng chữa lại độ 5 – 8mm bề sâu các kẽ đá và rải nhựa lên trên.
- Sau khi rải
nhựa xong, rải ngay sỏi cỡ 5 – 15mm lên trên và đầm nện.
Phương
pháp thứ hai:
a) Đào lòng ổ
gà cũng như chuẩn bị vá ổ gà thường.
b) Trộn nhựa
với sỏi và cát tỷ lệ: (sỏi 10 phần, nhựa 3 phần, cát 0,3 phần) đắp vào ổ gà và
đầm nện.
Trong cả hai
phương pháp, có thể dùng nhựa đặc hay nhựa nước. Nhựa đặc thì phải nấu và trộn
nóng. Nhựa nước thì trộn nguội. Trộn nóng hoặc trộn nguội đều phải rải nguội.
Nhựa đặc thì chỉ rải được lúc trời nắng ráo; nhựa nước thì rải được cả lúc trời
mưa nhỏ.
Điều 70. – Trên mặt đường nhựa, về mùa rét nhựa co lại hoặc
vì nhựa đường rải lâu ngày đã thoái hoá, những chất dễ bốc đã bốc hơi, mặt đường
trở nên không tốt tạo thành những vết nứt rạn. Khi trời mưa, nước chạy vào các
kẽ hở ấy ngấm xuống thân đường; khi nắng lên nhựa lại dãn ra lấp các kẽ nứt,
nước trong thân đường không bốc hơi được để thoát ra. Lần này qua lần khác, nước
ngấm nhiều vào nền đường làm nền đường yếu, lún xuống sinh hỏng mặt đường. Vậy
mỗi lúc nhựa bị nứt rạn thì phải lấy nhựa trát kín ngay các đường nứt. Nếu nứt
từng miếng lớn thì phải láng toàn mặt cả miếng. Nếu toàn bộ mặt đường bị nứt
nhiều hoặc bạc đầu thì phải tiến hành láng toàn bộ mặt đường. Tiêu chuẩn láng
nhựa là 1kg200 – 1kg500/m2. Sỏi dùng để phủ nhựa là sỏi sông, sạch
và hạt đồng đều cỡ 15 – 20mm theo tiêu chuẩn 15 – 18 lít/m2.
Điều 71. – Làm công tác rải mặt đường nhựa, phải chọn lúc
trời nắng ráo, có nhiệt độ từ 20 đến 35oC mới có kết quả (không rải
nhựa lúc nhiệt độ dưới 150C) nếu dùng nhựa nước thì có thể tiến hành
lúc trời mưa phùn (mưa to không làm được).
Chương
8:
CẦU, CỐNG
Điều 72. - Cầu cống cần luôn luôn giữ gìn sạch sẽ đất
bùn, phân súc vật, cỏ rác phải dọn ra khỏi mặt cầu mà không nên quét xuống dưới
gầm cầu làm đọng lại trên rầm cầu hoặc các bộ phận khác, sinh ra nguyên nhân
han rỉ, mục, mọt, phá hoại cầu và do đó dễ gây ra tai nạn.
Điều 73. – Sau mỗi trận mưa, có nước đọng trên mặt cầu
thì phải lập tức quét cho khô ráo.
Điều 74. - Ở dưới gầm cầu, phải phát dọn cây cối để có diện
thoát nước đầy đủ, giòng nước mưa lũ không bị cản trở, phá hoại móng mố cầu.
Điều 75. – Trong cống phải vét hết cỏ rác, xúc hết đất,
cát, bùn ứ đọng làm tắc cống. Về mùa mưa lũ, cần ngăn ngừa cây củi trôi, va chạm
cột cầu, mố cầu. Cần vớt hết rác bám vào cột trụ cầu.
Điều 76. – Đối với cầu gỗ, phải luôn luôn lấy nấm và cạo
mối.
Điều 77. – Ván mặt cầu hay ván băng lăn trên mặt cầu phải
đầy đủ. Đinh phải đóng chặt xuống ván và đầu đinh phải chìm xuống ván để khỏi
tác hại đến lốp xe.
Điều 78. – Trên những mặt cầu rải bằng cấp phối hoặc đá dăm
thì không được để có ổ gà. Nếu có đá bong lên thì phải quét dọn ngay ra ngoài mặt
cầu.
1. Phòng hoả:
Điều 79. - Tất cả các cầu, nhất là cầu gỗ, hoặc có bộ phận
bằng gỗ đều phải được phòng hoả. Dụng cụ vật liệu phòng hoả là những thùng chứa
nước, chứa cát và bình chứa chất liệu làm tắt lửa. Tuỳ theo tính chất quan trọng
của mỗi công trình mà trang bị.
Điều 80. – Để phòng hoả trên các cầu gỗ, cần chú ý những
điểm sau đây:
Cấm đốt lửa
cách cầu dưới 100m; cấm dụi tàn lửa lên cầu.
- Không được
rải những chất dễ cháy trên mặt cầu.
- Cấm phơi cỏ,
rơm rạ…trên cầu.
- Trên cầu và
trong lòng cống, sau khi làm xong công việc sửa chữa thì phải quét dọn sạch sẽ
gỗ vụn, mùn cưa, vỏ bào…
2. Phòng mục:
Điều 81. - Gỗ bị mục là loại gỗ tạp, gỗ hồng sắc, gỗ giác
(gỗ tứ thiết “lỏi” không bị mục) dùng tươi hoặc khô, nhưng bị ẩm ướt sinh ra nấm.
Nguyên nhân
chủ yếu phát triển nấm là do trong tế bào gỗ có chất đường và chất bột là những
chất chủ yếu nuôi nấm. Do đó các công trình mới làm bằng gỗ cần được phòng mục
để giữ công trình được bền, chắc.
Điều 82. – Có rất nhiều phương pháp phòng mục. Dưới đây
là hai phương pháp thích hợp với điều kiện trang bị và thi công hiện nay của
ta:
a) Phương
pháp thứ nhất: Ngâm gỗ dưới nước ngọt (ao, hồ) một thời gian để chất đường
và bột tan trong nước như vậy nấm không tìm được thức ăn để nuôi sống, do đó gỗ
sẽ không bị mục. Ngâm xong phải để gỗ khô rồi mới dùng.
Phương pháp
này là một phương pháp cổ truyền, ít tốn kém, nhưng mất nhiều thời gian (từ sáu
tháng đến một năm).
b) Phương
pháp thứ hai: Quét thuốc cao phòng mục. Có nhiều thứ cao nhưng hiện nay thứ
cao phòng mục làm bằng bộ NAF là phổ biến hơn cả.
Công thức cao
bột NAF như sau:
- Bột NAF
50%
- Nhựa đường
số 4
40%
- Dầu hoả xấu
hoặc ma-dút
10%
Tiêu chuẩn
quét cao trung bình là từ 700gr đến 900gr/m2.
Điều 83. – Những cầu cũ chưa được phòng mục thì phải lợi
dụng lúc tiến hành công tác sửa chữa thường xuyên và sửa chữa vừa mà làm công
tác phòng mục cho các bộ phận cũ và mới.
Điều 84. – Công tác phòng mục không phải làm một lần là đủ
mà phải luôn luôn theo dõi những chỗ mới phát sinh nấm để cạo đi và quét thuốc
phòng mục.
3. Phòng mọt:
Điều 85. – Nguyên nhân chủ yếu sinh ra trong mọt là do
trong tế bào gỗ, nhất là gỗ tươi, có chất đường và chất bột làm thức ăn cho mọt.
Vấn đề phòng
mọt và chống mọt rất khó khăn và phức tạp, ta chưa có điều kiện làm được; chỉ
dùng phương pháp cổ truyền là ngâm gỗ vào nước ngọt độ sáu tháng đến một năm,
đem lên phơi thật khô trước khi dùng.
4. Phòng mối:
Điều 86. – Các công trình bằng gỗ thường bị mối ăn,
nguyên nhân cũng do trong gỗ có chất đường và chất bột làm thức ăn cho mối.
Mối sinh ra
và phát triển, trước hết ở đất ẩm ướt, đất xốp, đất có lộn nhiều cây, cỏ, lá mục.
Vì vậy, chống mối có mấy việc phải làm:
- Đất tiếp
giáp với công trình phải là đất tốt, đầm nền kỹ;
- Các cọc gỗ
tiếp giáp với đất, nếu có điều kiện và xét cần thiết thì phải bọc bằng bê- tông
cao khỏi mặt đất độ 30 – 40cm;
- Các bộ phận
rầm, ván, sau khi đã phòng mục rồi thì phải sơn phòng nước thật kỹ;
- Luôn luôn
theo dõi để cạo mối kịp thời.
5. Phòng rỉ:
Điều 87. – Đối với cầu sắt thép thường xuyên tiếp xúc với
không khí, mưa, nắng, hơi nước mặn (ở miền biển), phải có biện pháp phòng rỉ để
đề phòng sắt thép chống rỉ hư hỏng.
Riêng đối với
cầu sắt ở vùng nước mặn, cần thường xuyên kiểm tra (sáu tháng một lần) để kịp
thời có biện pháp chống rỉ.
Điều 88. – Biện pháp chống rỉ thông thường là sơn, nhằm
che kín mặt ngoài của sắt thép khỏi tiếp xúc với không khí, mưa nắng, hơi nước
mặn.
Cầu sắt thép
mới làm thì phải sơn toàn bộ và sau đó trung bình ba năm sơn lại một lần. Kỳ hạn
này không cố định và có thể ngắn hơn đối với cầu ở vùng nước mặn. Hơn nữa, kỳ hạn
này cũng còn phụ thuộc vào kỹ thuật cạo rỉ trước khi sơn và kỹ thuật sơn.
Điều 89. – Đối với các bộ phận quan trọng dễ bị han rỉ (rầm
dọc, rầm ngang, rầm thượng, rầm hạ) thì cần xét tình hình thực tế mà đề ra kỳ hạn
sơn lại ngắn hơn đối với các bộ phận khác, đồng thời nên dùng một loại sơn
tương đối bền hơn.
Điều 90. - Phải luôn luôn kiểm tra, nếu thấy có bộ phận bị
tróc sơn hoặc bị rỉ thì lập tức phải cạo rỉ và quét sơn lại. Trước khi sơn phải
quét sạch bụi bặm, đất bùn, cạo sạch lớp sơn cũ, lớp han rỉ.
Tất cả những
khe hở, những chỗ nối không được tốt giữa các thanh cầu, có thể làm đọng nước,
gió khó lọt vào, thì phải dùng sơn đặc mà bít kín.
Những chỗ lõm
vì bị rỉ ăn mòn hoặc vì bị va chạm, thì phải trát sơn cho bằng mặt.
Điều 91. - Trước khi tiến hành sơn cầu sắt, cần phải kiểm
tra kỹ những công tác chuẩn bị như: cạo sạch lớp sơn cũ, cạo rỉ đã tốt chưa.
Lớp sơn cũ hoặc
rỉ sắt không cạo sạch thì việc phòng rỉ sẽ không có kết quả; mà còn tác hại hơn
vì rỉ sẽ ăn loang dần dưới lớp sơn mới gây hư hại cho cầu mà không phát hiện được
kịp thời. Do đó cạo rỉ là một việc rất quan trọng cần đặc biệt chú ý trong công
tác sơn cầu.
Trong khi kiểm
tra công tác chuẩn bị nói trên còn cần chú ý đến các hiện tượng không tốt của cầu,
như vết nứt, bu-lông lỏng, ri-vê lỏng… để kịp thời sửa chữa trước khi sơn.
Nếu có vết nứt
thì tuỳ tình hình của vết nứt và tầm quan trọng của bộ phận bị nứt mà quyết định
phương pháp sửa chữa: hoặc thay thế cả thanh sắt, hoặc hàn lại các vết nứt.
Điều 92. – Công việc sơn cầu chỉ được tiến hành trong những
ngày khô ráo, nhiệt độ từ 150C đến 250C. Khi trời mưa hay
có sương mù thì tuyệt đối không được sơn.
Trình tự sơn
là trước hết sơn lớp hồng đơn, xong quết hai lớp sơn xám. Lớp dưới phải thật
khô mới được sơn lớp trên và tối thiểu phải để 24 giờ mới sơn lớp trên. Lớp
trên hoàn toàn che kín lớp dưới. Nếu không quy định mầu sơn đặc biệt thì nên
dùng màu sắc sáng sủa để vừa đẹp mắt, vừa dễ kiểm tra, vừa giảm bớt ảnh hưởng của
nhiệt độ ánh sáng mặt trời đối với sắt thép. Màu xám nhạt thích hợp hơn cả.
Trên các bộ
phận của cầu đã sơn, không được để sót một chỗ nào không sơn. Lớp sơn phải thật
đều, không có vết răn hoặc còn đọng lại từng giọt.
6. Phòng hà:
Điều 93. – Các công trình bằng gỗ làm ở nước mặn đều bị
hà ăn hư hỏng rất mau chóng. Ở vùng nước mặn hoàn toàn, hà ít ăn hơn vùng nước
dở mặn dở ngọt (ở các khúc sông gần biển vừa có nước mặn vừa có nước ngọt lên
xuống). Do đó trong công trình nằm dưới nước thì hà ăn hại nhiều nhất ở những bộ
phận nằm trong phạm vi nước thuỷ triều lên xuống. Vì vậy cần phải có biện pháp
phòng hà và chống hà cho các công trình bằng gỗ làm dưới nước mặn (kể cả công
trình mới và cũ).
Điều 94. – Các phương pháp phòng hà và chống hà như sau:
a) Phương
pháp thứ nhất: “Nấu nóng, ngâm lạnh” với hai loại thuốc phèn xanh và xút.
- Dùng 4 máng
bằng gỗ chứa được những thanh gỗ dài nhất và lớn nhất của công trình cộng thêm
thuốc pha chế, ngập lút gỗ.
Một máng đựng
phèn xanh với nước nóng 600C
Một máng đựng
phèn xanh với nước lã tỷ lệ 10 – 20% phèn xanh + 90 – 80% nước.
Một máng đựng
xút với nước nóng 600C.
Một máng đựng
xút với nước lã tỷ lệ 3 – 4% xút + 97 – 96% nước.
- Cho gỗ vào
máng phèn xanh nóng 600C đúng 15 phút lấy ra cho vào máng phèn xanh
lạnh đúng 5 phút. Vớt gỗ ra để 48 giờ cho gỗ thật khô. Chuyển gỗ vào máng xút
nóng 600C đúng 15 phút lấy ra cho vào máng xút lạnh đúng 5 phút vớt
ra để 48 giờ cho khô.
Nếu thấy thuốc
thấm vào gỗ độ 1cm5 – 2cm (trừ gỗ tứ thiết có thể ít hơn) là được. Trường hợp
thuốc thấm chưa đủ độ dày như trên thì phải làm lại như trước.
Sau khi phòng
hà được rồi thì để 48 giờ cho gỗ thật khô, rồi sơn phòng nước bằng hắc ín.
b) Phương
pháp thứ hai: Trường hợp cột cầu gỗ đã làm rồi bị hà ăn thì dùng phương
pháp sau đây để diệt hà và phòng hà:
- Dùng ống lù
bê-tông cốt thép dầy 5cm làm thành hai mảng bao xung quanh cột cầu; giữa ống
bê-tông và cột đổ bê-tông (1m3 cát + 200Kg xi-măng + 150Kg đất sét bột
+ 250 lít nước).
- Có thể bọc
cột gỗ bằng ống đồ gốm hoặc đồ sành nung chín như kiểu ống bọc xi- măng, hoặc bọc
kẽm lá giữa lớp kẽm lá và cột gỗ, đệm một lớp giấy tẩm nhựa đường.
c) Phương
pháp thứ ba: Dùng hoá chất. Có nhiều loại hoá chất dùng để phòng trừ hà có
hiệu quả như: cơ-rê-ô-zôt, nap-te-nat, sun-phát đồng. Dùng cơ-rê-ô-zôt hoặc
sun-phát đồng với tỷ lệ 10, 15, 20, 25%. Sau đó dùng xút để không bị hoà tan
khi gặp nước.
7. Phòng nước mặn phá hoại công trình bê-tông:
Điều 95. - Muốn bảo vệ công trình bê-tông khỏi bị hư hại
vì nước mặn phải:
- Tìm một loại
xi-măng chống được sự phá hoại của nước biển;
- Cải tiến phẩm
chất bê-tông để chống lại sự phá hại của nước biển;
- Tìm biện
pháp bảo vệ cốt thép chống rỉ, do nước biển;
- Nghiên cứu
thêm về mặt kết cấu công trình ở biển để công trình chịu đựng được với sự phá
hoại của nước mặn.
Điều 96. – Đối với công trình mới bằng bê-tông ở nước mặn.
- Dùng loại
xi-măng Pu-dơ-lan Sơn-Tây có 30% Pu-dơ-lan (xi-măng Pooc-lăng ngâm trong nước
biển bị phá hoại hơn là xi-măng Pu-dơ-lan). Đối với công trình bê-tông không cốt
thép, như móng kè, thì dùng loại xi-măng này càng có tác dụng tốt.
Chú ý đặc biệt
cải tiến phẩm chất bê-tông, chủ yếu là đúc bê-tông thật đông đặc và đầm thật chặt
để không ngấm nước. Do đó, đối với công trình quan trọng cần chọn vật liệu có
phẩm chất tốt, nghiên cứu thành phần bê-tông thích hợp, sử dụng lượng nước ít,
tỷ lệ nước xi-măng thấp, tận dụng cách trộn và dầm bằng máy nếu có, tận dụng
hoá chất dẻo.
- Đảm bảo
đúng phương pháp thi công, bảo dưỡng bê-tông thật cẩn thận, và tranh thủ thời
gian để bê-tông được bảo dưỡng lâu trong không khí;
- Tăng lớp
bê-tông bao bọc cốt thép từ 4 đến 8cm ở những bộ phận tiếp xúc với nước mặn. Cốt
thép phải được soát lại và sửa sang bố trí đúng theo quy định, trước khi đúc
bê-tông.
Nếu điều kiện
cho phép, bao thêm một lớp phòng nước bên ngoài như nhựa đường hoặc loại phòng
nước khác có hiệu quả, trước khi bê-tông tiếp xúc với nước mặn.
Điều 97. – Đối với công trình cũ bằng bê-tông ở nước mặn:
- Thực hiện
chế độ kiểm tra định kỳ để phát hiện kịp thời những rạn nứt hư hỏng và có biện
pháp sửa chữa thích hợp;
- Lớp phòng
nước (như nhựa đường) lâu năm có thể bị hao mất, cần chú ý sơn lại ở những nơi
có thể sơn được;
- Đối với
công trình đã bị phá hoại nghiêm trọng như vỡ bê-tông, rỉ ăn đứt cốt thép, tuỳ
tình hình cụ thể mà quyết định phương pháp sửa chữa. Có thể đục bỏ bê-tông bị
hư hỏng, cạo sạch rỉ hoặc cắt bỏ những đoạn cốt thép bị rỉ nhiều, và thay cốt
thép mới vào, dùng máy phun xi-măng vào các khe hở, các góc nhỏ và ốp thêm
bê-tông ép chặt lại ở các lỗ to.
8. Khe hở co dãn nhiệt độ, co đệm cọ xát và con đệm xoay:
Điều 98. – Các khe co dãn giữa các bộ phận bằng sắt thép,
bằng bê-tông cốt thép cần được luôn luôn chú ý không để có vật gì làm trở ngại
sự co dãn. Để bảo đảm không cho nước ứ đọng trong các khe hở co dãn; nên dùng
nhựa đường trát bằng mặt các khe này.
Phải luôn
luôn xem xét và bồi đắp tu sửa các vật liệu đệm, vì nếu để hư hỏng, nước mưa lọt
vào để gây tác hại lớn và việc sửa chữa sẽ phức tạp và tốn kém.
Điều 99. - Để cho toàn bộ cầu được co dãn đều đặn, bảo đảm
an toàn cho cầu, cần luôn luôn chú ý kiểm tra các con đệm cọ xát hay con đệm
xoay các con đệm phải có tác dụng đầy đủ.
Mặt cọ xát và
trục xoay nên luôn luôn cho dầu nhờn để các bộ phận ấy có tác dụng đầy đủ. Trước
khi bôi trơn dầu nhờn, cần chú ý lau chùi thật sạch sẽ bụi đất và rác rưởi.
Chương
9:
BẾN PHÀ, PHÀ – CA-NÔ
PHÒNG HÀ VÀ CHỐNG HÀ ĐỐI VỚI PHÀ VÀ VỎ CA-NÔ
Điều 100. – Đối với phà và vỏ ca-nô đóng mới thì trước
khi đóng, gỗ phải được phòng hà theo phương pháp thứ nhất “nấu nóng, ngâm lạnh”
nói ở điều 94 ban hành chế độ này.
Điều 101. – Đối với phà hoặc vỏ ca-nô đã có đóng rồi hoặc
đang dùng mà gỗ chưa được phòng hà thì phải phòng hà và chống hà như sau:
a) Đối với
phà hoặc vỏ ca-nô mới đóng xong chưa dùng, thì dùng thuốc mà quét trên gỗ ba lần.
Quét nóng đến quét lạnh như phương pháp ngâm.
b) Đối với
phà hoặc vỏ ca-nô đã dùng và mới bị hà chớm ăn thì tiến hành như sau:
- Kéo phà hoặc
vỏ ca-nô thui như thường lệ; thui xong, cạo cho hết than trên gỗ.
- Lật úp phà
hoặc vỏ ca-nô lại và dùng thuốc quét cho được ba lần, quét đáy và quét mạn phà
hoặc vỏ ca-nô.
Quét thuốc
phòng hà xong, nếu có điều kiện và vật liệu thì dùng kẽm bọc đáy phà và mạn phà
cũng như đáy ca-nô và mạn ca-nô ngang mớn nước.
Phần 4:
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Chương
10:
1. Quản lý công tác sửa chữa.
Điều 102. – Toàn bộ công tác sửa chữa đường ô-tô quy định
trong bản chế độ này do các Sở và Ty Giao thông vận tải quản lý.
Điều 103. – Đối với hệ thống đường quốc lộ, mỗi khu, tỉnh,
thành phố tổ chức một đoạn bảo dưỡng phụ trách công tác sửa chữa thường xuyên
các tuyến đường quốc lộ trong địa phương mình, khu, tỉnh nào mà chiều dài đường
quốc lộ trên 400Km thì có thể tổ chức thành hai đoạn.
Điều 104. – Các đoạn bảo dưỡng mặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của các Sở, Ty giao thông vận tải, đồng thời chịu sự chỉ đạo về kỹ thuật
nghiệp vụ của Cục Vận tải đường bộ thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Điều 105. - Tổ chức sản xuất trực thuộc các đoạn bảo dưỡng
gồm có:
- Các hạt đường,
- Các hạt cầu,
- Các bến
phà.
Dưới các hạt,
tổ chức thành cung.
Đối với các
công trình cầu, nơi nào có dưới 300m cầu sắt thì không có tổ chức hạt cầu, mà bố
trí một tổ công nhân chuyên trách trực thuộc đoạn.
Điều 106. - Để bảo đảm công tác sửa chữa thường xuyên,
các đoạn bảo dưỡng có những lực lượng công nhân chuyên nghiệp như sau:
Công nhân sửa
chữa đường,
Công nhân sửa
chữa cầu,
Công nhân thuỷ
thủ phà.
- Tiêu chuẩn
định viên công nhân sửa chữa đường sẽ căn cứ vào điều kiện kỹ thuật của từng loại
đường, hoàn cảnh địa lý và tình hình lưu lượng xe chạy hàng ngay trên từng đoạn
đường, tuyến đường để xác định;
- Tiêu chuẩn
định viên công nhân sửa chữa cầu sẽ căn cứ vào số lượng và chiều dài các cầu
thuộc các đoạn, điều kiện kỹ thuật của từng loại cầu và tình hình lưu lượng xe
chạy hàng ngày trên các đoạn đường để xác định;
- Tiêu chuẩn
định viên công nhân thuỷ thủ phà sẽ căn cứ vào lưu lượng xe qua phà, số lượng
phà, ca-nô, chiều rộng sông nước và tốc độ nước chảy của từng bến để xác định;
Điều 107. - Đoạn bảo dưỡng đường có những nhiệm vụ như
sau:
a) Tổ chức việc
sửa chữa thường xuyên đường sá, nhằm giữ gìn tốt đường, cầu, phà, nhà cửa và
các thiết bị an toàn trên đường để bảo đảm giao thông vận tải được thông suốt,
an toàn và không ngừng nâng cao năng lực phục vụ của đường sá, đúng theo các
quy định của bản chế độ này.
b) Tiến hành
việc đăng ký, tuần tra thường xuyên để nắm vững tình trạng đường, cầu,
phà, kịp thời phát hiện những chỗ hư hỏng và có kế hoạch sửa chữa kịp thời.
c) Quản lý tốt
các bến phà trên các tuyến đường thuộc địa phận mình, bảo đảm sự qua lại của
phương tiện vận tải, người và súc vật được an toàn, nhanh chóng, thuận tiện.
d) Tổ chức việc
trồng cây, khai thác, tận dụng đất ven đường, làm cho đường sá được tốt đẹp, bền,
đồng thời thu hoa lợi ven đường, thực hiện dần phương châm lấy đường nuôi đường.
e) Thu tiền
cước qua phà các khoản phí tổn sửa đường trong địa phương mình.
g) Nghiệm thu
các công trình sau khi đã được sửa chữa vừa hoặc sửa chữa lớn trên các đường thuộc
phạm vi quản lý của mình và các công trình xây dựng mới giao cho đoạn mình quản
lý.
h) Tuyên truyền
giáo dục nhân dân tuân theo các luật lệ giao thông, chính sách bảo dưỡng đường;
theo dõi kiểm tra việc thi hành các luật lệ chính sách đó.
i) Trong điều
kiện có thể, tổ chức việc hướng dẫn giúp đỡ nhân dân thuộc khu vực ven đường
xây dựng, phát triển và củng cố đường sá nông thôn.
k) Tổ chức và
vận động nhân dân tham gia công tác bảo vệ đường, cầu phà, chống âm mưu phá hoại
của địch, chống mưa lũ để bảo đảm giao thông.
Điều 108. – Đối với công tác phà, bến phà còn có nhiệm vụ:
- Bảo đảm vận
chuyển xe ô-tô qua sống bất cứ lúc nào, phấn đấu để thực hiện khẩu hiệu “phà chờ
xe, xe không chờ phà” trừ những bến khó khăn, những bến không thường xuyên do Bộ
Giao thông vận tải quy định riêng và những trường hợp xét nguy hiểm như lụt
bão;
- Theo dõi tốc
độ sang ngang, mức nước bến phà, mức tiêu thụ xăng, dầu, mỡ của ca-nô, lưu lượng
xe qua phà;
- Xây dựng nội
quy và đôn đốc việc thi hành nghiêm chỉnh nội quy bến phà.
Điều 109. – Các hạt đường, hạt cầu và bến phà được trang
bị đầy đủ dụng cụ và thiết bị thích ứng để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác
kịp thời tốt và an toàn.
Điều 110. – Đối với công tác sửa chữa vừa và sửa chữa lớn,
tổ chức những đội chủ lực về đường và những đội chủ lực về công trình kỹ thuật.
Quy mô tổ chức
sẽ do Bộ Giao thông vận tải quyết định tuỳ theo kế hoạch dài hạn của Nhà nước
phê chuẩn.
Điều 111. – Đối với hệ thống đường địa phương việc tổ chức
thực hiện do Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố quyết định tuỳ theo hoàn cảnh
và khả năng của từng địa phương.
2. Kiểm tra.
a) Kiểm
tra thường xuyên;
Điều 112. – Công tác kiểm tra thường xuyên do các đoạn
và hạt đường phụ trách đối với hệ thống đường quốc lộ và do các phòng giao
thông huyện phụ trách đối với hệ thống đường địa phương và thực hiện ít nhất mỗi
tháng một lần, ngoài công tác sửa chữa thường xuyên hàng ngày, nhằm:
- Dự tính những
hư hỏng sẽ phát sinh để dễ phòng trước và phát hiện những hư hỏng để có biện
pháp sửa chữa.
Đôn đốc, hướng
dẫn thực hiện những công tác sửa chữa thường xuyên đã đề ra hàng tháng, hàng
quý, chú trọng công tác trọng tâm và trọng điểm từng mùa.
Mỗi lần kiểm
tra, cán bộ phụ trách kiểm tra phải lập biên bản kiểm tra cụ thể gửi về cho Sở,
Ty Giao thông địa phương.
Điều 113. Ngoài việc kiểm tra thường xuyên hàng tháng,
công tác kiểm tra còn cần phải được tiến hành sau mỗi trận mưa lũ đối với các cống.
Đối với những cầu cống có hiện tượng lún, nứt… thì tuỳ theo mức độ nghiêm trọng
mà có thể định thêm kỳ kiểm tra.
Việc kiểm tra
thường xuyên phải chú trọng tất cả các bộ phận của công trình kỹ thuật.
b) Kiểm
tra định kỳ:
Điều 114. – Công tác kiểm tra định kỳ do các Sở, Ty Giao
thông vận tải phụ trách và thực hiện mỗi năm ba kỳ:
- Một kỳ trước
khi lập kế hoạch sửa chữa vừa và sửa chữa lớn hàng năm;
- Một
kỳ trước mùa mưa lũ để lập kế hoạch bảo vệ công trình và bảo đảm giao thông
trong mùa mưa lũ sắp đến;
- Một kỳ sau
mùa mưa lũ để xác định tình hình cầu đường và lập kế hoạch sửa chữa.
Biên bản kiểm
tra phải gửi về cho Cục vận tải đường bộ.
c) Kiểm
tra bất thường:
Điều 115. – Công tác kiểm tra bất thường được tiến hành
trong những trường hợp sau đây:
- Nghiệm thu
cầu mới.
- Nghiệm
thu cầu sau khi đã được sửa chữa lớn hoặc khôi phục.
- Khi cầu có
hiện tượng đáng nghi về sức chịu đựng của cầu không rõ ràng, cần xác định lại.
- Khi cầu xẩy
ra trường hợp nguy hiểm bất ngờ.
Điều 116. - Việc phân công kiểm tra bất thường quy định
như sau:
- Đối với cầu
làm mới, khôi phục hay sửa chữa lớn;
- Cục
vận tải đường bộ nghiệm thu các cầu hạng lớn.
- Sở Giao
thông nghiệm thu cầu hạng vừa.
Trường hợp
không có Sở Giao thông thì các Cục phụ trách.
- Ty Giao
thông nghiệm thu cầu hạng nhỏ.
Đối với những
cầu có hiện tượng yếu hoặc hư hỏng bất ngờ:
- Ty Giao
thông phụ trách kiểm tra các trường hợp này.
Nếu xét thấy
cần cấp trên kiểm tra thì Cục và Sở Giao thông phối hợp kiểm tra lại.
- Cục và Sở
Giao thông phụ trách xác định trọng tải đối với cầu bê-tông cũ.
3. Một số chế độ cần lưu ý trong công tác sửa chữa.
a) Bảo vệ
an toàn lao động:
Điều 117. – Công tác sửa chữa đường, cầu, phà là những
công tác lao động có tính chất phức tạp và dễ gây tai nạn, cho nên vấn đề bảo vệ
an toàn lao động cần phải được đề cao. Các quy định về chế độ trang bị bảo hộ
lao động phải được thi hành nghiêm chỉnh.
Đối với mỗi
loại công tác, cần phải có một nội quy thích ứng để bảo vệ an toàn lao động cho
cán bộ và công nhân trực tiếp sản xuất, cũng như để tránh tai nạn xảy ra đối với
nhân dân nói chung.
b) Bảo vệ
an toàn giao thông:
Điều 118. – Sửa chữa đường, cầu, phà là để bảo đảm giao
thông vận tải được liên tục, nhanh chóng và an toàn. Do đó vấn đề bảo vệ an
toàn giao thông luôn luôn phải được chú trọng, nhất là trong thời kỳ đường, cầu,
phà đang được tiến hành sửa chữa. Các biện báo hiệu, các cọ tiêu, các hàng rào
an ninh, phải luôn luôn được đầy đủ, rõ ràng, cắm đúng vị trí và quy tắc đã định.
Chương
11:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 119. - Bản chế độ này có hiệu lực kể từ ngày ban
hành. Những quy định trước đây trái với bản chế độ này đều bãi bỏ.
Ban hành
kèm theo Quyết định số 1077-QĐ ngày 15-9-1962