ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------
|
Số:
78/BC-UBND
|
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 07 năm 2009
|
BÁO CÁO
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC
HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 16/2008/NQ-CP NGÀY 31 THÁNG 7 NĂM 2008 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ TỪNG
BƯỚC KHẮC PHỤC ÙN TẮC GIAO THÔNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giao thông vận
tải tại Công văn số 3746/BGTVT-VT ngày 08 tháng 6 năm 2009, Ủy ban nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/2008/NQ-CP
ngày 31 ngày 7 năm 2008 của Chính phủ về từng bước khắc phục ùn tắc giao thông
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Phần I.
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG
Trong thời gian gần đây, tình hình ùn tắc giao thông trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. Tình trạng ùn ứ
giao thông vẫn xảy ra trên nhiều tuyến đường do hiện trạng của hệ thống hạ tầng
giao thông đường bộ đã quá tải so với số lượng phương tiện và mật độ lưu thông
thực tế. Mặt khác, ý thức tự giác chấp hành luật pháp giao thông của nhiều
người dân khi tham gia giao thông vẫn còn kém, đã ảnh hưởng nhiều đến việc gây
ra ùn tắc, làm chậm tốc độ trong giao thông. Theo thống kê, cả năm 2008 trên
địa bàn thành phố đã xảy ra 48 vụ ùn tắc giao thông lớn, kéo dài trên 30 phút
(tăng 19 vụ so với năm 2007); riêng trong 6 tháng đầu năm 2009, đã xảy ra 25 vụ
ùn tắc giao thông lớn (tăng 03 vụ so với cùng kỳ năm 2008). Thực tế từ sau Tết
Nguyên Đán 2009, nhiều công trình xây dựng hệ thống thoát nước thuộc các dự án
vốn ODA như dự án Vệ sinh môi trường thành phố (lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè),
dự án Cải thiện môi trường nước thành phố, dự án Nâng cấp đô thị thành phố… đã chiếm
dụng lòng đường làm mặt bằng thi công, triển khai đồng loạt trên nhiều trục
đường chính, thu hẹp diện tích mặt đường dành cho giao thông vốn đã thiếu trên
địa bàn, làm ảnh hưởng đáng kể đến sự đi lại; ùn tắc giao thông đã xảy ra
thường xuyên hơn tại nhiều khu vực, nhất là vào các giờ cao điểm, cản trở sự
tăng trưởng kinh tế - xã hội và hạn chế chất lượng cuộc sống, gây nhiều bức xúc
trong nhân dân.
Để giải quyết vấn đề trên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 16/2008/NQ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2008 về từng bước khắc phục ùn tắc giao
thông tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết 16/CP).
Để triển khai thực hiện Nghị quyết 16/CP, Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Thành phố) đã ban hành Quyết định số
94/QĐ-UBND ngày 10 tháng 01 năm 2009 về “Kế hoạch của thành phố Hồ Chí Minh triển
khai Nghị quyết số 16/2008/NQ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2008 của Chính phủ về từng
bước khắc phục ùn tắc giao thông tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh”.
Kế hoạch này xác định những nhiệm vụ, công việc cụ thể mà
các cấp chính quyền, các sở - ban - ngành thành phố và Ủy ban nhân dân các quận
- huyện cần tập trung phối hợp thực hiện để từng bước khắc phục tình trạng ùn
tắc giao thông trên địa bàn, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của thành phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển nhanh
và bền vững. Kế hoạch bao gồm 04 nội dung cơ bản (Mục tiêu, Nguyên tắc chỉ đạo
thực hiện, Những giải pháp chủ yếu và Tổ chức thực hiện) và 05 phụ lục kèm
theo, được xây dựng sát nội dung theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết
16/CP, của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, Bộ Giao thông vận tải về công
tác kéo giảm ùn tắc giao thông; có tính đến đặc thù riêng của thành phố Hồ Chí
Minh.
Phần II.
CÁC KẾT QUẢ THỰC HIỆN BƯỚC
ĐẦU
A. VỀ QUY HOẠCH PHÁT
TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG ĐÔ THỊ:
1. Công bố và triển
khai thực hiện Quy hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020 (sau đây gọi tắt là QHGT):
Ngày 12 tháng 3 năm 2008, Thành phố đã tổ
chức hội nghị công bố rộng rãi QHGT, thông tin sâu rộng đến các cấp, các ngành
và trong nhân dân; chỉ đạo các cơ quan, đơn vị quản lý quy hoạch, xây dựng
trưng bày các bản vẽ về QHGT tại trụ sở, tổ chức cập nhật và thông tin rộng rãi
về QHGT, về các đề án, dự án phát triển trên các website của cơ quan, đơn vị.
Về thực hiện QHGT, Thành phố đã triển khai
lồng ghép QHGT vào đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hồ Chí
Minh đến năm 2025 và đang được Bộ Xây dựng xem xét, thẩm định trình Thủ tướng
Chính phủ; đồng thời chỉ đạo cập nhật QHGT vào các đồ án điều chỉnh, hoàn thiện
quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết địa bàn các quận - huyện. Đối với một số đồ
án quy hoạch của quận - huyện chưa cập nhật được ranh đất của một số công trình
kết cấu hạ tầng giao thông theo QHGT do ranh các công trình này (các nút giao
thông, các tuyến đường bộ trên cao và các nhánh kết nối lên, xuống, một số
tuyến đường sắt đô thị và các nhà ga, depot, các công trình vượt sông…) chưa được
xác định cụ thể trong QHGT, Thành phố đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị phối hợp
với các nhà đầu tư, đơn vị tư vấn có liên quan để triển khai quy hoạch chi
tiết, cắm mốc quản lý ranh đất cho các tuyến đường sắt đô thị, lập đề xuất dự
án xây dựng các tuyến đường bộ trên cao số 1, số 2 và số 4; chỉ đạo triển khai
quy hoạch chi tiết cho các nút giao thông lớn và một số công trình kết cấu hạ
tầng giao thông khác… để làm cơ sở cập nhật hoàn chỉnh quy hoạch của quận -
huyện.
Thành phố đã và đang chỉ đạo thực hiện đầu
tư nhiều dự án kết cấu hạ tầng giao thông theo QHGT, ưu tiên cho các dự án
thuộc mạng lưới đường sá cơ sở, phát triển các trục đường chính nội đô, đường
kết nối đến các cảng biển, các công trình đầu mối giao thông liên vùng (bến xe,
sân bay…), các trung tâm hành chính, thương mại, khu công nghiệp, khu đô thị…,
gắn kết chặt chẽ với các Tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để từng
bước đưa quy hoạch này vào cuộc sống. Đồng thời, tập trung thực hiện công tác
chuẩn bị đầu tư, kêu gọi đầu tư đối với các dự án giao thông có vai trò quan
trọng, đột phá (các tuyến đường sắt đô thị, các đường vành đai, các đường ô tô
cao tốc và cao tốc đô thị, các trục đường hướng tâm) nhằm phòng tránh ùn tắc
giao thông đô thị, phục vụ phát triển và khai thác tốt nhất thế mạnh kinh tế -
xã hội tổng hợp của toàn vùng thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố cũng đã thường
xuyên chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung các dự án, phân kỳ tiến độ đầu tư
sao cho phù hợp với tình hình thực tế; cân đối bố trí kế hoạch vốn hàng năm bám
sát lộ trình triển khai thực hiện quy hoạch, đáp ứng nhu cầu phát triển ở từng
nơi, tại từng thời điểm; ưu tiên tập trung vốn cho các công trình trọng điểm.
2. Về lập quy hoạch xây
dựng các bến, bãi đậu xe; xúc tiến thực hiện các dự án xây dựng điểm đậu xe ngầm
hoặc nhiều tầng;
a) Từng bước hoàn
thiện quy hoạch xây dựng các bến, bãi đậu xe và các cơ chế chính sách đầu tư:
Trên cơ sở QHGT, Thành phố đang chỉ đạo rà
soát việc thực hiện các quy hoạch chi tiết về bến, bãi đậu xe bao gồm Quy hoạch
sử dụng không gian ngầm khu vực trung tâm thành phố, Quy hoạch mạng lưới các
bãi chứa, nhà để xe ô tô nhiều tầng khu vực nội đô thành phố, Quy hoạch phát
triển vận tải hành khách công cộng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và định hướng đến 2025, Quy hoạch hệ thống bến
xe khách, điểm đậu, dừng xe đưa đón khách trên địa bàn thành phố, Quy hoạch
phát triển bến bãi vận tải hàng hóa đường bộ liên tỉnh thành phố Hồ Chí Minh,
Quy hoạch phát triển hệ thống taxi, điểm đậu xe taxi trên địa bàn thành phố...
Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện các chính sách về bến, bãi đậu xe, phí đậu xe,
quy định về dừng, đậu xe khu vực trung tâm thành phố; nghiên cứu thành lập đơn
vị kinh doanh khai thác các bến, bãi đậu xe trên địa bàn thành phố.
b) Về xúc tiến các
dự án xây dựng điểm đậu xe ngầm hoặc nhiều tầng:
Thành phố đã chỉ đạo nghiên cứu, lập Quy
hoạch sử dụng không gian ngầm khu vực trung tâm thành phố để có cơ sở quản lý,
đầu tư, khai thác các công trình ngầm theo quy định. Đồng thời tổ chức rà soát
hiện trạng quỹ đất, đề xuất các địa điểm có thể đưa vào kêu gọi đầu tư xây dựng
thành các điểm đậu xe cao tầng trên mặt đất. Tình hình cụ thể của một số dự án
đã thực hiện cụ thể:
- Dự án BOT Xây dựng, khai thác tầng ngầm
làm bãi đậu xe và dịch vụ công cộng tại khu vực Công viên Lê Văn Tám, quận 1,
thành phố Hồ Chí Minh do Cổ phần Đầu tư phát triển không gian ngầm (IUS) làm chủ
đầu tư đã được Bộ Xây dựng tổ chức xem xét, thẩm định. Thành phố và chủ đầu tư
đang giải trình bổ sung.
- Dự án Bãi đậu xe ngầm tại khu vực sân
bóng đá Tao Đàn do Tổng Công ty Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Việt
Nam (IDICO) làm chủ đầu tư đang được Thành phố xem xét hồ sơ đề xuất dự án; bãi
đậu xe ngầm sân vận động Hoa Lư, bãi đậu xe ngầm tại khu Trống Đồng (Tao Đàn)
của Công ty Đông Dương.
3. Về xây dựng, cải
tạo, mở rộng các quốc lộ, các đường hướng tâm, đường ô tô cao tốc, đường vành
đai, các trục chính đô thị, các nút giao thông, đường sắt đô thị; đẩy nhanh
tiến độ đầu tư các công trình giao thông đô thị theo kế hoạch:
3.1. Các
trục hướng tâm đối ngoại:
3.1.1. Các quốc lộ hướng tâm: Các
quốc lộ (QL) hướng tâm hiện tại (QL.1A, QL.1K, QL.13, QL.22, QL.50) đều đã và
đang thực hiện dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp:
+ QL.1A đang được khai thác với 04 làn xe
chính, QL.1 phía Đông và Xa lộ Hà Nội đang được nghiên cứu mở rộng với quy mô
từ 08 đến 12 làn xe theo hình thức đầu tư BOT do Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng
kỹ thuật thành phố (CII) làm chủ đầu tư. Hiện nay, Dự án đang trong giai đoạn
lập Nghiên cứu khả thi và đàm phán Hợp đồng. Thành phố đã chủ trương cho CII
đầu tư trước một phần tuyến chính từ cầu Rạch Chiếc đến Ngã ba Tây Hòa kết hợp
với việc di dời trạm thu phí giao thông trên xa lộ Hà Nội; dự kiến sẽ hoàn
thành vào tháng 9 năm 2009;
+ QL.1K đã được Bộ Giao thông vận tải chỉ
đạo, hoàn thành đầu tư nâng cấp giai đoạn 1 theo hình thức BOT trong nước với
quy mô 04 làn xe; đang khai thác và tổ chức thu phí.
+ QL.13 (đoạn từ Ngã tư Bình Phước đến Ngã
năm Đài Liệt sĩ thuộc dự án BOT Cầu đường Bình Triệu II) đang được khai thác
với 06 làn xe. Thành phố đã giao cho CII đầu tư giai đoạn 2, mở rộng tuyến lên
10 làn xe. Chủ đầu tư đã hoàn chỉnh hồ sơ Thiết kế cơ sở của dự án; đang trong
giai đoạn lập Nghiên cứu khả thi và đàm phán Hợp đồng. Thành phố đã chủ trương
cho CII đầu tư trước các hạng mục Nâng cấp mở rộng cầu Bình Triệu cũ, Xây dựng
thêm nửa trạm thu phí trên QL.13 và đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy
Chứng nhận đầu tư; hiện đang thi công.
+ QL.22 - Đường Xuyên Á (đoạn từ An Sương
tới cầu vượt Củ Chi) đang được khai thác với 04 - 06 làn xe. Thành phố đang xem
xét Đề xuất dự án của Tổng Công ty Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp
Việt Nam (IDICO) về quy hoạch chi tiết, đề xuất phương án đầu tư nâng cao năng
lực thông xe trên tuyến theo quy hoạch.
+ QL.50 (đoạn từ đường Nguyễn Văn Linh đến
ranh Tỉnh Long An) đang được khai thác với quy mô 02 - 03 làn xe. Dự án đầu tư
nâng cấp tuyến đường lên 04 làn xe do Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo, đang chuẩn
bị khởi công trong năm 2009 và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2010.
3.1.2. Các tỉnh lộ hướng tâm: Các
tỉnh lộ (TL) hướng tâm hiện hữu bao gồm TL.2, TL.10, TL.12, TL.14, TL.15, LTL.15,
TL.16 đều đang được khai thác với 02 - 03 làn xe; trong đó TL.10 đang có dự án
mở rộng lên 04 làn xe và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2009; dự án xây dựng tuyến
song hành TL.10 với 06 làn xe và dự kiến hoàn thành trong năm 2010; TL.14, đoạn
qua địa bàn quận 12 có dự án mở rộng lên 04 làn xe, đoạn qua địa bàn huyện Hóc
Môn đang được nghiên cứu mở rộng tối thiểu 04 làn xe; TL.15 và TL.12 đang được
nghiên cứu mở rộng (hoặc mở tuyến mới song hành) với quy mô 06 làn xe; các dự
án này dự kiến sẽ hoàn thành sau năm 2010; Đường Rừng Sác (huyện Cần Giờ) đang
được thực hiện dự án mở rộng lên 04 - 06 làn xe và dự kiến hoàn thành trong năm
2010.
3.2. Các đường ô
tô cao tốc do Bộ Giao thông vận tải quản lý, chỉ đạo:
- Các tuyến đang xây dựng: Tuyến Thành phố
Hồ Chí Minh - Trung Lương dự kiến sẽ được thông xe vào cuối năm 2009; Tuyến
Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây đang được chuẩn bị khởi công và
dự kiến hoàn thành giai đoạn 1 vào năm 2012.
- Các tuyến đang được chuẩn bị đầu tư: Tuyến
Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu, tuyến Bến Lức - Long Thành.
3.3. Các đường
vành đai
- Đường Vành đai 1 đã được điều chỉnh
không còn chức năng đường vành đai mà chuyển thành đường trục đô thị.
- Đường Vành đai 2 đang được triển khai
thực hiện bằng nhiều nguồn vốn và dự kiến hoàn thành xây dựng, khép kín trong
năm 2013:
+ Đoạn từ cầu An Lập đến đường Nguyễn Văn
Linh: Thành phố đã giao cho Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng và đô thị dầu khí
(Petroland) nghiên cứu đầu tư theo hình thức BOT kết hợp BT, dự kiến khởi công
vào năm 2010 và hoàn thành vào năm 2013.
+ Nút giao thông tại khu A Nam Sài Gòn và
Đường nối từ nút Khu A đến cầu Phú Mỹ (quận 7): Thành phố đã giao cho Công ty
Cổ phần BOT Cầu Phú Mỹ nghiên đầu tư theo hình thức BT, dự kiến hoàn thành vào
tháng 6 năm 2010.
+ Cầu Phú Mỹ do Công ty Cổ phần BOT Cầu
Phú Mỹ đầu tư thực hiện theo hình thức BOT trong nước. Công trình dự kiến sẽ
hoàn thành thông xe vào đầu tháng 9 năm 2009.
+ Đường Vành đai phía Đông thành phố (quận
2 - quận 9): Đoạn từ cầu Phú Mỹ đến cầu Rạch Chiếc mới do Công ty Cổ phần BOT
Cầu Phú Mỹ đầu tư theo hình thức BT, bao gồm 02 đoạn, dự kiến sẽ hoàn thành thông
xe đoạn từ cầu Phú Mỹ đến LTL.25B cùng với cầu Phú Mỹ và đoạn còn lại đến cầu
Rạch Chiếc mới sẽ thông xe vào khoảng tháng 6 năm 2010. Đoạn từ cầu Rạch Chiếc
mới đến Gò Dưa – QL.1A (kể cả cầu Rạch Chiếc mới) đang được Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB) tài trợ một dự án Hỗ trợ kỹ thuật để nghiên cứu đầu tư.
- Các đường vành đai số 3 và số 4 đang
được Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo nghiên cứu đầu tư.
3.4. Các trục
xuyên tâm:
3.4.1. Trục xuyên tâm trên mặt đất:
- Đại lộ Đông - Tây thành phố đang được
tập trung xây dựng, bao gồm 01 hầm dìm Thủ Thiêm qua sông Sài Gòn, 02 nút giao
thông khác mức hoàn chỉnh ở hai đầu, cuối tuyến (giao với Quốc lộ 1A và với Xa
lộ Hà Nội). Một số hạng mục của dự án đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng như
cầu Khánh Hội, cầu Calmette, cầu Chữ Y, cầu Chà Và…, dự kiến sẽ hoàn thành
thông xe đoạn tuyến từ Quốc lộ 1A đến quận 1 vào tháng 9 năm 2009 và thông xe toàn bộ công trình trong năm 2010.
- Đường trục Bắc - Nam thành phố: Đoạn từ đường Nguyễn Văn Linh đến cầu Bà Chiêm đã được hoàn thành mở rộng từ
02 làn xe lên 04 làn xe, đưa vào khai thác từ cuối tháng 4 năm 2009. Đoạn từ
cầu Bà Chiêm đến Khu công nghiệp Hiệp Phước đang được thực hiện và dự kiến hoàn
thành trong năm 2009. Giai đoạn hoàn chỉnh mở rộng đủ mặt cắt ngang 60 m -10 làn
xe của đoạn tuyến từ đường Nguyễn Văn Linh đến Nút giao bờ Nam cầu Bà Chiêm dự
kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2011. Riêng đoạn tuyến qua địa bàn quận 4 sẽ được
xem xét đầu tư xây dựng kết hợp với các dự án chỉnh trang đô thị, dự kiến phấn
đấu hoàn thành vào năm 2012.
3.4.2. Các trục xuyên tâm trên cao
(hệ thống đường bộ trên cao-cầu cạn):
Theo QHGT có 4 tuyến đường trên cao. Thành
phố đã giao cho các nhà đầu tư nghiên cứu các tuyến số 2 (Tập đoàn Wijaya Baru, Malaysia) và tuyến số 4 (Tổng Công ty Xây dựng số 1 - Bộ Xây dựng). Qua nghiên
cứu, các nhà đầu tư đề xuất điều chỉnh cục bộ phương án tuyến của các đường
trên cao này để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với thực tế; Thành phố đang xem
xét các đề xuất này để phấn đấu triển khai xây dựng và hoàn thành vào năm 2015.
Đối với tuyến số 1, Tập đoàn GS E&C (Hàn Quốc) đã xin ngừng, không tiếp tục
nghiên cứu dự án do có khó khăn về tài chính. Riêng tuyến số 3 chưa có nhà đầu
tư.
3.5. Các trục
chính đô thị:
Một số tuyến đường phố chính trong nội đô
đang được đầu tư cải tạo, nâng cấp theo QHGT như Tuyến đường Nguyễn Văn Trỗi -
Nam Kỳ Khởi Nghĩa đang được thi công và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2009,
Cầu đường Nguyễn Văn Cừ đã được hoàn thành thông xe vào cuối tháng 4 năm 2009,
Đường nối Tân Sơn Nhất - Bình Lợi - Vành đai ngoài đang được Tập đoàn GS E&C
(Hàn Quốc) đầu tư thực hiện theo phương thức BT và dự kiến sẽ hoàn thành vào
cuối năm 2012, Đường Chánh Hưng nối dài đang được thi công và dự kiến hoàn
thành trong năm 2009, Đường Lũy Bán Bích - Tân Hóa dự kiến được hoàn thành
trong năm 2010.
3.6. Các nút
giao thông:
Các nút giao thông trên tuyến đường Xuyên
Á hiện đã và đang được xây dựng hoàn thiện như nút Thủ Đức (Ngã ba Trạm 2 cũ),
Gò Dưa, Bình Triệu, Hà Huy Giáp, Tân Thới Hiệp, Quang Trung, Củ Chi; các nút
giao thông Cát Lái (Xa lộ Hà Nội) và Quốc lộ 1A thuộc dự án Đại lộ Đông - Tây
thành phố; các nút giao thông trên đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung
Lương; Thành phố đang chỉ đạo nghiên cứu đầu tư các nút giao thông đại lộ Nguyễn
Văn Linh/đường trục Bắc - Nam, nút giao An Lập trên đường Vành đai 2 phía Nam,
lập quy hoạch các nút giao thông trên tuyến đại lộ Nguyễn Văn Linh, nút giao
thông QL.1A/TL.10, các nút giao thông trên tuyến QL.1A và QL.22 …
3.7. Các cầu
lớn, hầm vượt sông:
- Cầu vượt sông Nhà Bè, Lòng Tàu, Thị Vải:
Cầu Bình Khánh, cầu Phước Khánh, cầu Phước An thuộc dự án Đường cao tốc Bến Lức
- Long Thành hiện đang được Ban Quản lý các dự án đường cao tốc phía Nam nghiên
cứu, lập dự án.
- Cầu vượt sông Đồng Nai: Cầu Đồng Nai mới
(trên Quốc lộ 1A) đã được khởi công vào tháng 6 năm 2008 và dự kiến hoàn thành
vào tháng 6 năm 2010; cầu Long Thành được xây dựng cùng với dự án Đường cao tốc
Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây và dự kiến hoàn thành vào năm
2012; cầu Nhơn Trạch (thuộc dự án Đường Vành đai 3 thành phố do Ủy ban nhân dân
tỉnh Đồng Nai quản lý, đang tổ chức lập dự án và kêu gọi đầu tư, dự kiến hoàn
thành trong giai đoạn từ nay đến 2015; các dự án cầu Thủ Biên (thuộc dự án
Đường Vành đai 4 thành phố), cầu Hóa An 2 (trên Quốc lộ 1K) đang được nghiên
cứu đầu tư.
- Cầu vượt sông Sài Gòn:
+ Các cầu, hầm đang được xây dựng: Hầm Thủ
Thiêm, cầu Phú Mỹ, cầu Phú Long (dự kiến hoàn thành năm 2010), cầu Bình Lợi 2
(dự kiến hoàn thành năm 2012).
+ Cầu Sài Gòn 2 (xa lộ Hà Nội), cầu Thủ Thiêm
2 (đường Tôn Đức Thắng): đang được nghiên cứu, lập dự án đầu tư, dự kiến hoàn
thành vào năm 2013; Thành phố đã có chủ trương xem xét kêu gọi đầu tư các dự án
cầu Bình Quới và các cầu kết nối bán đảo Thanh Đa, cầu Thủ Thiêm 3 (nối quận
4), cầu Thủ Thiêm 4 (nối quận 7) trong giai đoạn từ nay đến năm 2015.
+ Các cầu Phú Thuận (đường Vành đai 4),
cầu Bình Gởi (đường Vành đai 3) đang được Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo nghiên
cứu đầu tư.
3.8. Hệ thống giao
thông đường sắt đô thị:
3.8.1. Hệ thống tàu điện ngầm
(metro):
- Tuyến số 1 (Bến Thành - Suối Tiên) đang
được triển khai bằng nguồn vốn ODA Nhật Bản và vốn đối ứng từ Ngân sách thành
phố. Công trình đang được tập trung giải phóng mặt bằng toàn tuyến (dự kiến
hoàn thành trong năm 2009), đang thi công hạng mục San lấp và xây dựng hàng rào
depot tại quận 9; đang bổ sung hoàn thiện thiết kế cơ sở, đấu thầu tuyển chọn
nhà thầu thiết kế - xây dựng đối với các gói thầu chính, đồng thời lập thủ tục
trình phê duyệt điều chỉnh dự án. Dự kiến công trình sẽ được hoàn thành, đưa
vào khai thác chính thức vào năm 2014.
- Tuyến số 2 (Bến Thành - Tham Lương): Thủ
tướng Chính phủ đã chấp thuận phương án vay nguồn hợp vốn của Ngân hàng Tái
thiết Đức (KfW), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) để đầu tư công trình. Trong đó, cấp phát cho Thành phố phần chi phí xây
dựng kết cấu hạ tầng, cho Thành phố vay lại phần chi phí mua sắm thiết bị (đầu
máy, toa xe). Thành phố đang chỉ đạo Ban Quản lý đường sắt đô thị hoàn tất các
thủ tục theo quy định để có thể ký kết Hiệp định vay vốn trong năm 2009. Dự
kiến hoàn thành công trình vào năm 2015.
- Tuyến số 3: Đang được đề xuất tách thành
02 tuyến: Tuyến số 3a (Bến Thành - Bến xe miền Tây) và Tuyến số 3b (Bến Thành -
Hiệp Bình Phước).
Thành phố đang chỉ đạo thực hiện công tác
khảo sát nghiên cứu lập dự án đầu tư và lập Báo cáo đánh giá tác động môi
trường của từng tuyến (dự kiến hoàn thành trong năm 2009).
Thực hiện ý kiến của Thủ tướng Chính phủ
tại Công văn số 1662/TTg-KTN ngày 03 tháng 10 năm 2008, Thành phố đã chỉ đạo
Ban Quản lý đường sắt đô thị tổ chức lập Đề cương chi tiết và đăng ký kế
hoạch huy động vốn từ nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Nhật Bản,
tài khóa năm 2009 cho các tuyến số 3a và số 3b.
Dự kiến thời gian thực hiện các dự án:
2010 - 2016.
- Các tuyến số 4, số 5 và số 6:
Thành phố đã chỉ đạo tổ chức thực hiện
công tác nghiên cứu lập dự án đầu tư và lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường
(dự kiến hoàn thành trong năm 2009).
Thực hiện ý kiến chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 23/TB-VPCP ngày 20 tháng 01
năm 2009 của Văn phòng Chính phủ, Thành phố đang xúc tiến vận động nguồn
vốn ODA để đầu tư 03 tuyến này; trong đó tuyến số 4 huy động từ nguồn
tài trợ của Chính phủ Tây Ban Nha và ADB; thực hiện đàm phán với phía
Tây Ban Nha đối với các tuyến số 5 và số 6.
Dự kiến xây dựng hoàn thành
cả 03 tuyến trước năm 2020.
3.8.2. Xe điện trên mặt đất (LRT) hoặc monorail:
- Tuyến số 1 (Sài Gòn - Chợ
Lớn - Bến xe miền Tây): Thành phố đã giao cho Liên danh Công ty TNHH Xây dựng
và Thương mại Thanh Danh và Titanium Management nghiên cứu đầu tư dự án theo
hình thức BOT. Dự án đã được Cục Đường sắt Việt Nam thông qua Thiết kế cơ sở
tại Công văn số 75/CĐSVN-CSHT ngày 31 tháng 3 năm 2009, đang được hoàn chỉnh Nghiên
cứu khả thi và đàm phán Hợp đồng. Dự kiến hoàn thành trong năm 2011.
- Tuyến số 2 và 3: Trước đây,
Thành phố đã giao cho Tập đoàn Berjaya Corporation Berhad (Malaysia) nghiên cứu
đầu tư 02 tuyến này từ tháng 3 năm 2007. Tuy nhiên, hiện nay Tập đoàn Berjaya
Corporation Berhad (Malaysia) không còn xúc tiến công việc dự án và Thành phố
đang xem xét kêu gọi nhà đầu tư khác. Dự kiến hoàn thành đầu tư các tuyến trong
năm 2012.
4. Chỉ
cho phép xây dựng các khu chung cư cao tầng hoặc các cơ sở dịch vụ nếu đảm bảo
được diện tích để xe mô tô, xe gắn máy, ô tô theo quy định:
4.1. Thành phố đã chỉ đạo nghiên cứu ban hành Quy định tạm thời về tiêu
chuẩn về số chỗ đậu xe máy tối thiểu tại các công trình cao tầng, cao ốc văn
phòng, thương mại dịch vụ… để hướng dẫn, quản lý, áp dụng trên địa bàn thành
phố trong năm 2009.
4.2. Về quy định chỗ đậu xe ô tô đối với các công trình cao tầng, Thành
phố đã chỉ đạo các cơ quan chức năng, khi thẩm định Thiết kế cơ sở của các dự
án đầu tư xây dựng công trình nhà cao tầng như cao ốc văn phòng, chung cư,
trung tâm thương mại dịch vụ … hoặc các cơ sở dịch vụ, phải yêu cầu đảm bảo đủ
diện tích để xe ô tô theo quy định tại Quy chuẩn xây dựng Việt Nam 01:2008/BXD.
Đồng thời có kế hoạch rà soát khả năng đáp ứng về diện tích để xe của các công
trình so với quy định; công trình nào chưa đáp ứng được Quy chuẩn thì yêu cầu
các chủ đầu tư phải có giải pháp bổ sung để đảm bảo trước khi đưa vào sử dụng;
kiên quyết không đưa vào khai thác đối với những công trình không đáp ứng được
yêu cầu.
Tăng cường kiểm tra, xử phạt
những trường hợp công trình cao tầng đã đưa vào sử dụng ở Khu vực trung tâm
thành phố mà để xảy ra tình trạng đậu xe tràn làn trên vỉa hè, dưới lòng đường
trái quy định do không đảm bảo diện tích để xe theo quy định.
4.3. Nghiên cứu tăng thêm quy mô diện tích mặt đường cho giao thông
tĩnh: Thành phố đã chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp nghiên cứu thực hiện
các công trình sửa chữa cải tạo vỉa hè cho hợp lý, tập trung xử lý cải tạo kích
thước hình học tại các giao lộ, các khu vực thường xuyên xảy ra ùn tắc giao
thông.
4.4. Về cấp phép hoạt động các loại hình kinh doanh thương mại, dịch vụ trên
các tuyến đường có mật độ giao thông cao:
Để góp phần phòng tránh ùn
tắc giao thông trên các tuyến đường có mật độ giao thông cao, Thành phố chủ trương
ban hành hàng năm về Danh mục các tuyến đường, đoạn đường, khu vực không giải
quyết cấp phép đăng ký kinh doanh các loại hình dịch vụ, thương mại tập trung
đông người như siêu thị, nhà hàng, trung tâm tiệc cưới, trung tâm thương mại,
trung tâm đào tạo, trung tâm ngoại ngữ... trên địa bàn thành phố.
5. Xây
dựng hệ thống cầu vượt, hầm chui cho người đi bộ, thiết kế lại giao thông hợp
lý tại các điểm có cầu vượt, hầm cho bộ hành, nâng cấp, bổ sung thiết bị điều
khiển giao thông tại các nút giao thông thường xảy ra ùn tắc:
Thành phố đã chỉ đạo nghiên
cứu lập Kế hoạch đầu tư xây dựng các cầu vượt, hầm chui cho người đi bộ từ nay
đến 2010 và giai đoạn 2010 - 2015; đề xuất khả thi các phương án xã hội hóa đầu
tư trong lĩnh vực này; nghiên cứu các biện pháp để cải thiện môi trường đi lại
cho người đi bộ và người sử dụng xe đạp.
Từng bước nâng cấp, bổ sung trang thiết
bị điều khiển giao thông tại các nút giao thông thường xuyên xảy ra ùn tắc giao
thông (lắp đặt đèn đếm lùi, thiết bị điều khiển giao thông như camera quan sát và
các biển quang báo).
6.
Hiện đại hóa các trung tâm điều hành giao thông đô thị:
Hiện nay, Thành phố đã đầu
tư xây dựng, đưa vào khai thác Trung tâm Điều khiển đèn tín hiệu giao thông do
catp quản lý, điều hành 02 hệ thống đèn tín hiệu giao thông tiếp nhận từ các dự
án hỗ trợ của Chính phủ Pháp (năm 2000) và dự án tăng cường năng lực giao thông
(vay vốn Ngân hàng Thế giới, năm 2003). Để phát huy hiệu quả của trung tâm trong
điều khiển giao thông, kéo giảm ùn tắc giao thông Để nâng cao hiệu quả hoạt
động của Trung tâm này, Thành phố đã chỉ đạo tiếp tục rà soát, đề xuất đầu tư
bổ sung, mở rộng cho phù hợp với yêu cầu, sử dụng những ứng dụng công nghệ tiên
tiến nhất của hệ thống giao thông thông minh (ITS) để tích hợp quản lý, điều
khiển các hệ thống đèn tín hiệu giao thông, hệ thống camera quan sát và biển
quang báo điện tử trên địa bàn.
7. Tập
trung quản lý, lập lại trật tự hành lang an toàn đường bộ, đường sắt theo Quyết
định số 1856/QĐ-TTg ngày 27 tháng 12 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ:
Thành phố đã ban hành Quyết
định số 3332/QĐ-UBND ngày 02 tháng 8 năm 2008 về Kế hoạch phối hợp lập lại trật
tự hành lang an toàn đường sắt trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008 để
triển khai thực hiện Quyết định số 1856/QĐ-TTg ngày 27 tháng 12 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời đang xem xét
ban hành Chỉ thị về tăng cường lập lại trật tự hành lang an toàn đường bộ,
đường sắt trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
B.
QUY HOẠCH VÀ THỰC HIỆN DI DỜI TRỤ SỞ CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC, CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG, DẠY NGHỀ, BỆNH VIỆN LỚN RA NGOÀI KHU VỰC TRUNG TÂM:
1. Về
nghiên cứu di dời các cơ quan hành chính:
Hiện nay, trụ sở các cơ
quan hành chính của Thành phố tại khu vực trung tâm đã được tổ chức, bố trí
tương đối hợp lý, thuận tiện cho việc đi lại, phối hợp công tác giữa các đơn vị
phục vụ nhân dân, doanh nghiệp. Phần lớn trụ sở các cơ quan hành chính hiện nay
của Thành phố không nằm trong các khu vực có nguy cơ xảy ra ùn tắc giao thông
nên chưa có kế hoạch di dời.
2.
Về nghiên cứu di dời các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, bệnh viện lớn ra
ngoài khu vực trung tâm thành phố:
Từ cuối năm 2007, Thành phố
đã chủ trương chỉ cho phép sửa chữa, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị, phương
tiện để hiện đại hóa ngang tầm khu vực và quốc tế đối với các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các bệnh viện, cơ sở y tế có bệnh nhân lưu
trú (gọi tắt là cơ sở y tế) ở khu vực trung tâm thành phố và các quận nội thành
cũ; không quy hoạch xây dựng mới mà từng bước chuyển thành các trung tâm, cơ sở
nghiên cứu đào tạo chuyên sâu, cơ sở y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao; việc đầu tư
xây dựng mới chỉ được phép triển khai tại địa bàn các quận mới và các huyện
ngoại thành, các cửa ngõ ra vào thành phố.
Thành phố cũng đã chỉ đạo
ngành Y tế nghiên cứu lập quy hoạch Mạng lưới khám chữa bệnh trên địa bàn đến năm
2020, định hướng đến năm 2025 với mục tiêu chính là vừa tạo sự hài hòa, đồng bộ
giữa các cơ sở khám chữa bệnh, vừa phát triển hệ thống y tế chuyên môn sâu, kỹ
thuật cao ở các bệnh viện hiện hữu của cụm trung tâm; đồng thời xây dựng cơ sở
mới tại các cửa ngõ, ở ngoại thành. Theo đó, sẽ có 01 cụm y tế trung tâm và 04
cụm y tế tại các cửa ngõ ra vào thành phố.
Đối với các trường Đại học,
cao đẳng, dạy nghề khu vực trung tâm thành phố, Thành phố đã chỉ đạo ngành Giáo
dục và Đào tạo phối hợp với các cơ quan chức năng để rà soát, xây dựng phương
án, kế hoạch và lộ trình di dời thông qua Ban Chỉ đạo thực hiện đề án Quy hoạch
sử dụng đất cho các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung
học nghề của thành phố.
3.
Về giãn tiến độ đầu tư xây dựng các cao ốc, trung tâm thương mại ở trung tâm
thành phố, hình thành các đô thị vệ tinh và tích cực phối hợp di dời các cảng
biển:
Trong thời gian qua, Thành phố đã tập trung tối đa để tăng tốc độ đầu tư phát triển mạng lưới giao thông đô thị, điều phối
giãn tiến độ giữa việc đầu tư hạ tầng xã hội và kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
ở khu vực trung tâm thành phố cho phù hợp với điều kiện
thực tế (việc phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng không theo kịp tốc độ hình thành quá
nhanh các cao ốc…). Đồng thời tập trung
các nguồn lực để đẩy nhanh chuẩn bị đầu tư các khu đô thị
vệ tinh như Khu Nam, Khu đô thị
mới Thủ Thiêm, Khu đô thị - cảng Hiệp Phước, Khu đô thị Tây Bắc, Khu đô thị An
Phú Hưng, Khu đô thị Bình Quới - Thanh Đa..., hình
thành các đối trọng để giãn dân,
kéo giảm áp lực giao thông ở nội đô.
Tập trung chỉ đạo phối hợp thực
hiện Quy hoạch di dời các cảng biển và Nhà máy đóng tàu Ba Son đúng tiến độ,
góp phần hạn chế ùn tắc giao thông ở nội đô. Đến nay đã hoàn thành cơ bản di
dời Tân Cảng Sài Gòn ra khu vực cảng Cát Lái; di dời từng phần Cảng Sài Gòn ra
khu vực cảng Hiệp Phước, đã khởi công dự án cảng Sài Gòn - Hiệp Phước và dự kiến
hoàn thành giai đoạn 1 vào năm 2011; đang thực hiện quy hoạch chuyển đổi công
năng sử dụng đất tại địa điểm cũ của các cảng Nhà Rồng - Khánh Hội, cảng Rau
Quả, cảng Tân Thuận Đông và Nhà máy đóng tàu Ba Son.
C.
NHÓM GIẢI PHÁP VỀ TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT, TỔ CHỨC CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY
DỰNG “NẾP VĂN HÓA GIAO THÔNG” VÀ “NẾP SỐNG VĂN MINH ĐÔ THỊ”, TĂNG CƯỜNG CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG VÀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ:
1. Về
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tổ chức cuộc vận động xây dựng “nếp văn hóa
giao thông” và “nếp sống văn minh đô thị”:
1.1.
Về tuyên truyền, phổ biến pháp luật; vận động xây dựng nếp văn
hóa giao thông:
- Ban An toàn giao thông thành
phố đã thường xuyên chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thành phố và các đoàn thể thành viên (Thành đoàn TNCS, Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động), các sở - ngành, quận -
huyện và các cơ quan báo, đài thành phố tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về trật tự an toàn giao thông, trong đó có vận động xây dựng “nếp văn hóa giao
thông” và “nếp sống văn minh đô thị”. Tuyên truyền dưới nhiều hình thức như
thực hiện các chuyên mục, chuyên trang an toàn giao thông (ATGT) trên Website
Đảng bộ thành phố, Đài Truyền hình thành phố, Đài Tiếng nói nhân dân Việt Nam,
trên báo Sài Gòn Giải Phóng, báo Giáo dục, báo Cựu Chiến binh, tạp chí Vành đai
xanh, Sổ tay Xây dựng Đảng…; thông qua hoạt động hội thi, văn nghệ quần chúng
và sinh hoạt cộng đồng; đã huy động hơn 40% diện tích panô dành cho cổ động
chính trị từ thành phố đến các quận - huyện và nhiều phương tiện khác như băng
rôn, áp phích, xe loa, tờ bướm, các đội thông tin lưu động, thông tin cơ sở… để
tuyên truyền về Luật Giao thông đường bộ (mới), phổ biến các quy định về hành
lang an toàn đường bộ, đường sắt và các quy định chế tài có liên quan.
- Giao ngành Giáo dục - Đào tạo
chỉ đạo tất cả các trường học phải duy trì sinh hoạt nội dung bảo đảm trật tự
ATGT cho học sinh trong các buổi chào cờ đầu tuần, vào các tiết học đầu tiên trong
ngày và vào các buổi sinh hoạt chủ nhiệm; tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật giao thông, vận động ham gia các hoạt động giữ gìn trật tự
ATGT trong đội ngũ cán bộ - giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh; tổ chức
các hoạt động ngoại khóa và phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức các hội
thi, hội thao, hội trại để tuyên truyền, giáo dục về ATGT cho học sinh; tiếp
tục thực hiện và đẩy mạnh cuộc vận động "Cổng trường em sạch đẹp, an
toàn"; phối hợp với lực lượng công an và chính quyền địa phương để giữ gìn
trật tự ATGT, hạn chế tình trạng ùn tắc giao thông trước cổng trường vào giờ đi
học và giờ tan trường; kiên quyết xử lý những học sinh vi phạm luật giao thông bằng
các hình thức kiểm điểm, cảnh cáo trước lớp, cảnh cáo dưới cờ, hạ bậc hạnh kiểm
khi đánh giá xếp loại trong học tập.
- Chỉ đạo Công an thành phố thường
xuyên đưa thông tin trên các bảng quang báo điện tử với nhiều nội dung phong
phú, đa dạng; phối hợp tham gia phổ biến giáo dục về pháp luật giao thông tại
các cơ quan, đơn vị và ở các địa bàn dân cư; phối hợp với các cơ quan báo, đài
để tuyên truyền và trực tiếp tuyên truyền thông qua công tác xử phạt người vi
phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông; đưa nhiều tin phóng sự về tình
hình trật tự ATGT trên địa bàn; tổ chức các lớp học và kiểm tra lại nhận thức
về pháp luật giao thông cho những người vi phạm.
1.2.
Về tuyên truyền, phổ biến pháp luật và cuộc vận động thực hiện
văn minh đô thị:
- Đã và đang triển khai và thực
hiện "Năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị" khi tham gia giao thông
theo các Tiêu chí xây dựng tuyến đường văn minh đô thị cấp thành phố, giai đoạn
2009 - 2010 đã được ban hành kèm theo Quyết định số 1620/QĐ-UBND ngày 17 tháng
4 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thành phố. Đã tổ chức tổng kết đánh giá kết quả
thực hiện các tiêu chí này đối với 15 tuyến đường mẫu vào ngày 28 tháng 4 năm
2009.
- Ngành Sở Giao thông vận
tải và các quận - huyện đang triển khai thực hiện Quy chế quản lý và sử dụng
tạm thời một phần công năng của lòng đường, vỉa hè trên địa bàn thành phố, đã
được ban hành kèm theo Quyết định số 74/2008/QĐ-UBND ngày 23 tháng 10 năm 2008
của Ủy ban nhân dân thành phố.
- Sở Giao thông vận tải đã ban
hành Quy định về thực hiện công tác đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, chỉnh
trang, quản lý vỉa hè và tăng mảng xanh, cây xanh đường phố trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh, kèm theo Quyết định số 1762/SGTVT-GT ngày 18 tháng 6 năm 2009.
Kết quả đã đạt được của
“Năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị”
- Đã rà soát, sắp xếp lại các
bãi đậu xe trên vỉa hè, dưới lòng đường cho phù hợp với tình hình giao thông
thực tế, nhất là khu vực các quận 1, quận 3, quận 5, quận 10 ...
- Đã cải thiện, không để mất
an toàn giao thông hoặc để xảy ra vụ ùn tắc giao thông kéo dài nào trên 15 tuyến
đường điểm về văn minh đô thị.
- Tình trạng lấn chiếm trái phép
vỉa hè, lòng đường để buôn bán, làm dịch vụ đã có chuyển biến, nhất là trên 04
tuyến đường kiểu mẫu về văn minh đô thị (đường Nguyễn Huệ, đường Đồng Khởi,
đường Lê Lợi và đường Lê Duẩn đều thuộc quận 1); ở các tuyến đường khác vẫn còn
tồn tại khá nhiều hàng quán buôn bán lấn chiếm vỉa hè, buôn bán hàng rong do sự
thiếu kiên quyết, thiếu lực lượng và không thường xuyên trong chỉ đạo kiểm tra
của chính quyền địa phương.
- Tình hình trật tự an toàn giao
thông khu vực trước các cổng trường học đã có chuyển biến tích cực, tình trạng
phụ huynh dừng xe đưa đón con em đã có trật tự hơn; ngành giáo dục và nhà trường
đã quản lý thời điểm tan trường của các khối lớp không còn tập trung như trước
đây, không tập trung tan trường cùng một cổng và hạn chế tan trường ở cổng nằm
trên trục giao thông chính; lực lượng dân quân của các địa phương đã tham gia
giữ gìn trật tự, điều tiết giao thông trước cổng trường.
- Tăng cường quản lý, chăm sóc
cây xanh đường phố, làm tăng thêm mỹ quan đô thị trên các tuyến đường như Lý Tự
Trọng, Bà Huyện Thanh Quan, Trường Sơn… Các điểm dừng, nhà chờ xe buýt đã được
sữa chữa nâng cấp đẹp hơn, hiện tượng buôn bán lấn chiếm tại khu vực trạm dừng,
nhà chờ cơ bản đã được giải quyết…
2. Về
tăng cường cưỡng chế thi hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông và trật
tự đô thị:
2.1.
Công an thành phố đã triển khai thực hiện các công việc sau:
- Bổ sung áp dụng các hình thức
điều khiển giao thông cho phù hợp với thực tế; có kế hoạch nâng cao năng lực và
hiệu quả của Trung tâm Điều khiển giao thông thành phố, phát hiện nhanh các
điểm ùn tắc giao thông để xử lý kịp thời.
- Kiên quyết xử phạt nghiêm các
hành vi vi phạm là nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông và gây ùn tắc giao
thông như dừng, đỗ xe, chuyển hướng, tránh, vượt sai quy định, vượt đèn đỏ, đi
vào đường ngược chiều, điều khiển xe đi trên vỉa hè, đi không đúng làn đường
quy định, dừng xe lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, không tuân theo hướng dẫn của
người điều khiển giao thông.
- Thực hiện các kế hoạch cao
điểm, kế hoạch chuyên đề và các phương án bố trí lực lượng nhằm tăng cường trực
chốt, điều khiển, tuần tra kiểm soát giao thông và xử lý vi phạm về trật tự an toàn
giao thông; nhất là hành vi không đội mũ bảo hiểm khi đi xe mô tô, xe gắn máy
khi tham gia giao thông theo quy định xử phạt của Nghị định số 146/2007/NĐ-CP
của Chính phủ.
- Tiếp tục phối hợp chặt chẽ
với Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố để thực hiện Kế hoạch liên ngành số 13/KHLN/QS-CA
ngày 16 tháng 01 năm 2008 trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông
trên địa bàn đã được Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt tại Quyết định số
1027/QĐ-UBND ngày 20 tháng 3 năm 2008.
2.2.
Sở Giao thông vận tải đã thực hiện các công việc:
- Tăng cường kiểm tra, xử phạt
đối với các trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đô thị như lập công
trường thi công trên đường mà không bố trí người điều tiết giao thông, thi công
không đúng phương án được duyệt; xe buýt, xe taxi đón trả khách không đúng quy
định…; thường xuyên phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam (VTV9), Đài Tiếng nói
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát các tin cảnh báo về vị trí, tuyến đường có
nguy cơ xảy ra un tắc giao thông để người điều khiển phương tiện điều chỉnh lộ
trình đi lại.
- Đang triển khai thực hiện Chương
trình chống kẹt xe nội thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2008 - 2010 và định
hướng đến năm 2020.
- Xây dựng kế hoạch chỉ đạo,
điều phối tiến độ thi công hợp lý, đồng bộ trên các tuyến đường bị chiếm dụng mặt
bằng để lập công trường thi công của các dự án trọng điểm nhằm hạn chế tối đa
ảnh hưởng đến sự đi lại.
- Thường xuyên rà soát, bổ sung,
điều chỉnh các phương án phân luồng, hoàn thiện các phương án tổ chức giao thông
ở nội đô.
- Thường xuyên rà soát, lắp đặt
bổ sung, nâng cấp hệ thống biển báo giao thông, hệ thống đèn tín hiệu giao thông,
biển quang báo điện tử, camera quan sát, hệ thống dãy phân cách tại các khu vực
có nguy cơ xảy ra ùn tắc giao thông.
- Thường xuyên kiểm tra,
chấn chỉnh công tác quản lý và thi công các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị
có rào chắn chiếm dụng mặt đường (thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy nhanh
tiến độ , nâng cao hiệu quả công tác tổ chức giao thông, chất lượng công tác
đào đường và tái lập mặt đường; thực hiện biện pháp chế tài, nâng cao hiệu quả
công tác tuần tra, giám sát cộng đồng…
D. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ
ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN VẬN TẢI HÀNH KHÁCH CÔNG CỘNG, HẠN CHẾ PHƯƠNG TIỆN CÁ NHÂN
THAM GIA GIAO THÔNG, TỔ CHỨC GIAO THÔNG HỢP LÝ VÀ HIỆU QUẢ:
I. GIẢI
PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN VẬN TẢI HÀNH KHÁCH CÔNG CỘNG:
1. Củng cố cơ sở hạ
tầng cho hoạt động xe buýt:
- Đã hoàn thành lắp đặt, đưa
vào sử dụng các trạm dừng, nhà chờ xe buýt trên đường Trường Chinh (đoạn từ cầu
Tham Lương đến Ngã tư An Sương), đang tiếp tục thực hiện trên đoạn còn lại từ đường
Cộng Hòa đến cầu Tham Lương.
- Đề xuất sử dụng nguồn vốn vay
ưu đãi của Hội đồng vùng Rhône - Alpes (Pháp) và Cơ quan phát triển Pháp (AFD)
để thực hiện dự án thí điểm làn đường dành riêng hoặc ưu tiên cho xe buýt trên
một phần lộ trình tuyến xe buýt số 8 (đoạn từ Ngã tư Hàng Xanh đến Ngã tư Bảy
Hiền). Đồng thời tiến hành khảo sát, nghiên cứu thí điểm làn dành riêng cho xe
buýt trên tuyến đường Vành đai 2 (đoạn từ Ngã tư An Sương đến Nút giao thông Thủ
Đức) bằng nguồn vốn trong nước.
- Đã sơn khoanh vị trí 352 ô
dừng xe buýt mới; xóa bỏ 14 ô dừng, di dời 60 trụ báo dừng, tháo dỡ 100 trụ khác
có vị trí không phù hợp; thay mới 70 hộp thông tin tại các trụ dừng đã hư hỏng
và lắp đặt 20 bảng treo tạm phục vụ công tác phân luồng giao thông. Kiểm tra,
điều chỉnh vị trí trạm dừng xe buýt tại khu vực bến xe An Sương phòng tránh ùn
tắc giao thông tại khu vực.
- Đã cải tạo và đưa vào sử dụng
bến đậu xe buýt tại khu vực Công viên 23 Tháng 9 từ đầu băn 2009 để giải tỏa
các xe buýt đậu dọc lề đường Lê Lai và Phạm Ngũ Lão (quận 1); đưa vào sử dụng
bến xe buýt mới ở phường Thới An, quận 12; chuẩn bị khởi công Chỉnh trang bến
xe buýt Hiệp Thành (quận 12) và Xây dựng bãi đậu xe buýt tại bến đò khách xã
Phú Xuân, huyện Nhà Bè.
2. Hợp lý hóa và
nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới tuyến:
- Ngành Giao thông vận tải đang
phối hợp với Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu Dự án
hoàn thiện mạng lưới tuyến xe buýt trên địa bàn thành phố; báo cáo kết quả và đề
xuất trong tháng 9 năm 2009. Trên cơ sở đó sẽ sắp xếp, bố trí lại mạng lưới xe
buýt cho phù hợp hơn, vừa nâng cao hiệu quả của mạng lưới, vừa góp phần kéo
giảm ùn tắc giao thông trên địa bàn. Trước mắt, đã điều chỉnh hầu hết lộ
trình các tuyến xe buýt, tránh đi qua các đoạn đường đang tạm thời có rào chắn
công trường thi công các công trình.
- Đang chuẩn bị Báo cáo giữa
kỳ Quy hoạch phát triển bến bãi vận tải hàng hóa đường bộ và Báo cáo đầu kỳ Quy
hoạch phát triển hệ thống vận tải hành khách công cộng thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2025.
- Tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh
hoạt động của xe buýt trong đảm bảo trật tự an toàn giao thông, thường xuyên
chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng rà soát, điều chỉnh lộ trình, thời gian
hoạt động, tần suất phù hợp với nhu cầu đi lại trên từng tuyến, không để xảy ra
tình trạng quá tải hoặc vắng khách ở một số tuyến; nâng cao chất lượng dịch vụ
và giảm chi phí trợ giá.
- Đã khảo sát, lập kế hoạch sửa chữa nâng cao
chất lượng của hệ thống trụ dừng, nhà chờ xe buýt trên 15 tuyến đường mẫu của
Thành phố. Tiếp tục khai thác 02 bãi giữ xe 02 bánh miễn phí trung chuyển hành
khách sử dụng xe buýt tại Củ Chi, Thủ Đức và khảo sát xây dựng thêm các vị trí
khác nhằm tạo thuận lợi, thu hút hành khách đi xe buýt.
3. Tăng cường công
tác thông tin, vận động người dân đi xe buýt:
- Xây dựng kế hoạch vận động người dân sử dụng
xe buýt hoặc phương tiện không có động cơ để đi lại ít nhất 01 ngày trong tuần;
một số cơ quan, đơn vị đã vận động cán bộ công chức đi làm bằng xe buýt…
- Tổ chức các buổi tọa đàm, cung cấp thông
tin và vận động sinh viên, học sinh và công nhân đi lại bằng xe buýt; cập nhật thông
tin về mạng lưới và hoạt động xe buýt lên website ngành Giao thông vận tải, duy
trì và bảo đảm hoạt động đường dây nóng về giải đáp và hướng dẫn thông tin về
xe buýt (trong quý I năm 2009 đã hướng dẫn trực tiếp cho gần 11.000 lượt hành
khách; ghi nhận phản ánh và trả lời qua điện thoại cho khoảng 30.000 cuộc gọi
từ người dân có liên quan đến hoạt động xe buýt).
4. Tăng cường tổ
chức loại hình xe buýt đưa đón học sinh, sinh viên và công nhân:
Trong năm 2009, đã mở mới 05 lộ trình đưa rước
công nhân theo hình thức hợp đồng; duy trì hoạt động bình thường của 03 tuyến
xe buýt đưa rước sinh viên; trong 04 tháng đầu năm 2009 đã vận động thêm được
26 trường học tổ chức đưa đón cho khoảng 8.500 số học sinh.
5. Nâng cao năng lực
quản lý, điều hành và chất lượng phục vụ của hệ thống xe buýt:
- Đã triển khai kế hoạch tập huấn “đạo đức
nghề nghiệp” cho lái xe của 02 hợp tác xã hoạt động xe buýt với số lượng 545 lái
xe; tập trung giáo dục để lái xe, nhân viên phục vụ trên xe buýt nhận thức đầy
đủ trách nhiệm, phục vụ ân cần, lịch sự và không phân biệt đối xử với khách đi
xe khi sử dụng vé tháng, vé tập.
- Tổ chức ứng dụng thí điểm thẻ thông minh
(Smart card) để thay thế cho vé giấy khi đi xe buýt; dự kiến hoàn tất đấu thầu
trong tháng 7 năm 2009. Tổ chức sát nhập
các đơn vị vận tải kinh doanh xe buýt có quy mô nhỏ, đã chuyển 14 tuyến xe buýt
(gồm 12 tuyến có trợ giá và 02 tuyến không trợ giá) từ 04 hợp tác xã có năng
lực quản lý kém sang các hợp tác xã khác quản lý; Tổ chức đấu thầu lại cho 02
tuyến xe buýt đang triển khai và cho 02 tuyến mới.
- Nghiên cứu xây dựng Đề án đầu tư phát triển
xe buýt giai đoạn 2009 - 2012.
II. QUY
ĐỊNH VỀ CẤM MÔTÔ, XE GẮN MÁY, Ô TÔ LƯU THÔNG TRÊN MỘT SỐ TUYẾN ĐƯỜNG:
- Đã chỉ đạo xây dựng Kế hoạch thực hiện thí
điểm việc cấm xe mô tô, xe gắn máy và ô tô lưu thông trên một số đường phố vào
một số giờ nhất định…; nghiên cứu quy hoạch hệ thống các trạm thu phí giao thông
trên địa bàn thành phố, xem xét tính khả thi và khả năng bố trí thí điểm hệ
thống thu phí giao thông điện tử (ERP) theo hướng số tiền phải trả để sử dụng
một tuyến đường phụ thuộc vào mức độ ùn tắc giao thông trên tuyến, góp phần hạn
chế sử dụng ô tô cá nhân.
- Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện đình
chỉ lưu thông các loại xe 3, 4 bánh tự chế theo tinh thần Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP
và Nghị quyết số 05/2008/NQ-CP của Chính phủ, Thành phố đã ban hành chính sách
hỗ trợ chuyển đổi nghề hoặc phương tiện cho người nghèo đang sử dụng loại
phương tiện xe 3, 4 bánh tự chế trên địa bàn thành phố, theo Quyết định số
04/2009/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2009 và Quy định cấm và hạn chế xe cơ giới
ba bánh và xe thô sơ ba, bốn bánh lưu thông trong khu vực nội đô và trên các
quốc lộ thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 37/2009/QĐ-UBND
ngày 19 tháng 5 năm 2009.
III. VỀ
ĐIỀU CHỈNH LỆCH GIỜ LÀM VIỆC, HỌC TẬP:
- Từ năm 2003, Thành phố đã có chủ trương giao
cho Ban Quản lý các Khu chế xuất và Khu công nghiệp tổ chức cho công nhân làm
việc lệch ca tại Khu chế xuất Tân Thuận. Cụ thể là yêu cầu một số doanh nghiệp
trong số 60 doanh nghiệp điều chỉnh giờ tan ca vào lúc 16giờ30 - 17giờ00 để giảm bớt tình trạng ùn tắc giao thông vào giờ cao điểm 17giờ00
chiều. Đồng thời để nhân rộng mô hình này, giao cho ngành Lao động - Thương
binh và Xã hội xem xét báo cáo, đánh giá chi tiết tình hình thực hiện tại các
khu chế xuất, khu công nghiệp khác trên địa bàn thành phố, đề xuất các biện
pháp để nâng cao hiệu quả trong thời gian tới.
- Từ cuối năm 2007, ngành Giáo dục và Đào
tạo đã chỉ đạo các trường học triển khai giờ đi học và giờ tan trường lệch nhau
giữa các trường cùng trong một khu vực để góp phần hạn chế ùn tắc giao thông.
Công tác này đã duy trì thường xuyên trong các năm học vừa qua.
Phần III.
TỒN TẠI - NGUYÊN NHÂN
Từ trước và sau khi Chính phủ ban hành Nghị
quyết 16/CP, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai thực hiện khá nhiều
công việc thuộc các nhóm giải pháp như đã báo cáo ở phần trên. Tuy nhiên, do
nhiều giải pháp khi triển khai cần có lộ trình, cần có thời gian nhiều năm và
có nguồn lực nhất định mới có thể phát huy tác dụng. Từ khi có Nghị quyết
16/CP đến nay thời gian chưa nhiều nên kết quả của công tác kéo
giảm ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều hạn chế.
Một số tồn tại và nguyên nhân của tình hình có thể phân tích như sau:
I. NGUYÊN NHÂN KHÁCH
QUAN:
1. Số lượng người
tham gia giao thông và số lượng hành trình đi lại tăng: Dân số tăng quá nhanh do các quy định
đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố có thuận lợi hơn so với trước đây
(không giới hạn hộ khẩu thường trú và nhất là khi Luật Cư trú có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 7 năm 2007), thu hút ngày càng nhiều người ở các địa phương khác
đến sinh sống, lao động và học tập tại thành phố. Tính năng động của Thành phố
cũng đã tạo ra sự gia tăng về hành trình đi lại trên địa bàn (bình quân 2,6
hành trình/người/ngày).
2. Số lượng phương
tiện giao thông tăng: Do
dân số tăng nhanh, lượng người nhập cư từ các địa phương khác đến thành phố để
sinh sống, lao động và học tập, cộng với các quy định nới rộng hơn về thủ tục
đăng ký phương tiện giao thông cá nhân (không giới hạn số phương tiện sở hữu)
nên số lượng phương tiện giao thông đường bộ được đăng ký mới hàng năm đã tăng
mạnh và có khuynh hướng tiếp tục tăng nhiều hơn nữa. Cụ thể, trong năm 2008, số
lượng phương tiện giao thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh gia tăng nhanh
chóng, vượt quá năng lực hiện có của hệ thống giao thông thành phố. Tính đến
hết năm 2008, thành phố đang quản lý 4.056.433 phương tiện, trong đó có
3.685.648 xe mô tô 02 bánh (tăng 9,5% so với thời điểm đầu năm 2008) và 370.785
ô tô (tăng 11,9% so với thời điểm đầu năm 2008). Đến ngày 30 tháng 6 năm 2009,
tổng số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang quản lý là 4.262.536 xe,
trong đó bao gồm 385.901 xe ô tô và 3.876.635 xe mô tô, xe gắn máy). Như vậy từ
đầu năm 2008 đến nay, mỗi ngày trung bình tăng 108 xe ô tô và 878 xe mô tô 02
bánh; chưa kể hàng ngày có khoảng 1.000.000 mô tô 02 bánh và 60.000 xe ô tô
mang biển số của các tỉnh, thành phố khác và khoảng 21.000 xe 03 bánh các loại
lưu thông trên địa bàn thành phố.
II. NGUYÊN NHÂN CHỦ
QUAN:
1. Phát triển đô thị
tập trung quá cao ở Khu vực trung tâm thành phố:
- Việc phát triển đô thị hiện nay vẫn còn mất
cân đối lớn giữa quy mô phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
Trong khi đó, tiến độ di dời các khu công nghiệp, nhà máy, cảng biển, bến xe
khách liên tỉnh ra khỏi thành phố còn chậm.
- Các bệnh viện, trường học lớn chưa mở rộng
ra bên ngoài mà vẫn tập trung trong khu vực nội đô thành phố đã kéo theo một
lượng lớn hành trình vào sâu trong nội đô thành phố.
2. Cơ sở hạ tầng
chưa phát triển kịp để đáp ứng nhu cầu giao thông đô thị:
- Các phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ, số lượng hành trình giao thông ngày càng tăng và tăng rất nhanh trong khi khả
năng cân đối vốn cho công tác bảo trì, sửa chữa và phát triển mạng lưới giao
thông đô thị còn nhiều hạn chế. Từ đó dẫn đến mật độ đường thiếu và chất lượng
kém, các giao cắt đồng mức trong giao thông quá nhiều (số lượng nút giao thông
khác mức quá ít); hệ thống bãi đậu xe phát triển không kịp để đáp ứng nhu cầu
đậu xe,…
- Theo thống kê, trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh hiện có khoảng 3.583 con đường với tổng chiều dài 3.768,71 km và diện tích
mặt đường là 25.678.588m² ; trong đó số lượng các tuyến đường có bề rộng
nhỏ hơn 7m chiếm đến 69,3%; mật độ đường giao thông so với diện tích thành phố
chỉ mới đạt 1,8km/km². Công tác tổ chức giao thông tuy có nhiều cố gắng, tiến
bộ nhưng vẫn chưa thể giải quyết thực tế hoạt động với mật độ cao của các loại
xe mô tô, xe gắn máy, xe ô tô trên địa bàn thành phố.
3. Công tác thông
tin tuyên truyền, giáo dục về bảo đảm trật tự an toàn giao thông chưa đạt hiệu
quả cao:
Thực tế cho thấy, một bộ phận
khá lớn người dân, trong đó có nhiều cán bộ, công nhân viên chức, người lao
động và các đối tượng khác đã thể hiện được “văn hóa giao thông” và “văn minh
đô thị” trong sinh hoạt, khi ứng xử, khi tham gia giao thông. Tuy nhiên, bên
cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ những người có những hành xử chưa được
văn minh nơi công cộng, chưa phù hợp với nếp sống “văn hóa giao thông”, nhất là
khi không có lực lượng cảnh sát giao thông túc trực tại các giao lộ, vào giờ
cao điểm hoặc có khi có hiện tượng xảy ra ùn tắc giao thông. Những hành vi
giành đường, lấn tuyến, vi phạm tốc độ, dừng hoặc chuyển hướng không đúng quy
định, chửi bới, cự cải nhau khi xảy ra va quẹt, khi ùn ứ giao thông xảy ra khá
phổ biến, thậm chí có người còn xem đó là chuyện bình thường. Ý thức chấp hành
pháp luật giao thông vẫn đang là một trong những nguyên nhân chính gây ra tai
nạn giao thông và ùn tắc giao thông hiện nay.
4. Kiểm tra, xử phạt
vi phạm chưa kiên quyết và chưa đảm bảo tính thường xuyên, liên tục cần thiết:
Địa bàn thành phố Hồ Chí Minh rộng lớn
trong khi đó biên chế của lực lượng cảnh sát giao thông đường bộ còn thiếu
nhiều nên công tác trực chốt, tuần tra, điều hòa hướng dẫn giao thông ở các
giao lộ và xử lý các vi phạm về trật tự an toàn giao thông không thể thực hiện
liên tục trên diện rộng, nhất là vào các giờ cao điểm và vào thời gian thường
xuyên xảy ra nhiều tai nạn giao thông trong ngày (từ 19 giờ 00 đến đến 01 giờ
00 sáng hôm sau).
5. Tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè trong thời gian qua còn tồn
tại nhiều trên địa bàn thành phố, ảnh hưởng đáng kể đến việc đi lại của người
dân và trật tự an toàn giao thông đô thị.
6. Vận tải hành khách công cộng tuy được phát triển nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu đi lại của nhân dân thành phố. Tỷ lệ đáp ứng nhu cầu đi lại của
hệ thống vận tải công cộng chỉ chiếm khoảng 7% và Thành phố chưa có các phương
thức vận chuyển hành khách khối lượng lớn như tàu điện ngầm, monorail, tramway …
7. Vấn đề kết nối
giao thông vùng kinh tế trọng điểm phía Nam:
Sự liên kết giữa hệ thống giao thông đô
thị thành phố Hồ Chí Minh với hệ thống giao thông các vùng lân cận trong
vùng còn thiếu và gặp nhiều khó khăn (mạng lưới đường còn thiếu, sự
liên kết còn yếu, công tác bảo trì còn hạn chế).
Hệ thống các đường xuyên tâm và đường vành
đai đã được quy hoạch nhưng hầu hết chưa được đầu tư xây dựng hoặc chưa hoàn thành;
phần lớn các nút giao thông trên địa bàn là giao cắt đồng mức, có năng lực
thông xe rất thấp và có nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông cao. Do chưa có hệ
thống đường vành đai hoàn chỉnh nên các luồng giao thông quá cảnh hiện nay vẫn
đi xuyên qua khu vực nội đô thành phố làm gia tăng mật độ giao thông đô thị trên
địa bàn. Tuyến đường sắt quốc gia hiện nay vẫn đi sâu vào ga Hòa Hưng, tạo giao
cắt đồng mức với 14 tuyến đường nội đô.
8. Tình hình ngập
nước do thời tiết biến đổi:
Tình hình ngập nước cũng là một trong những
nguyên nhân chính gây ra tình trạng ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố,
do làm giảm diện tích giao thông vào thời gian ngập, làm giảm hẳn tốc độ trong
lưu thông. Tình trạng ngập này xuất phát từ nhiều nhân tố chủ quan (yếu kém về
kỹ thuật công trình, về tổ chức quản lý và yếu kém nguồn lực…) cũng như khách
quan (vũ lượng mưa có xu hướng ngày càng tăng, địa hình thành phố trũng thấp và
bị lún sụt do hệ thống nước ngầm bị khai thác quá mức, thủy triều cao…).
9. Tình hình
đào đường để thi công các công trình hạ tầng kỹ thuật: Từ sau Tết Nguyên Đán 2009, để phục vụ thi
công các công trình xây dựng hệ thống thoát nước thuộc các dự án ODA trọng điểm
và nhiều dự án khác, Thành phố đã phải chấp nhận tình trạng thiết lập chắn công
trường trên nhiều trục đường chính, làm thu hẹp mặt đường dành cho giao thông,
làm cho tình hình ùn tắc giao thông càng thêm phức tạp… trong khi điều kiện thi
công đa số chỉ thực hiện được 1 ca vào ban đêm.
Phần IV.
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Tổ chức thực
hiện ngay việc học tập lệch giờ, làm việc lệch ca:
Tiếp tục triển khai thực hiện việc bố trí lệch giờ làm việc, giờ học tập; đánh giá kết quả thực hiện trong thời gian qua và đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả trong thời gian tới.
2. Tăng cường công
tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật giao thông
đường bộ cho người
tham gia giao thông:
- Tiếp tục thực hiện Kế hoạch chủ đề
"Năm 2009 - Năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị" đã được ban hành kèm
theo Quyết định số 311/QĐ-UBND ngày 21 tháng 01 năm 2009 của Ủy ban nhân dân
thành phố. Tuyên truyền giáo dục, vận động sâu rộng trong đội ngũ cán bộ công
chức và mọi tầng lớp nhân dân để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về trật tự
an toàn giao thông, ý thức giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường và ý thức giao
tiếp - ứng xử văn minh nơi công cộng.
- Nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật về trật tự an toàn giao thông phải được thực hiện sâu rộng đến từng hộ
gia đình, từng người tham gia giao thông; chú trọng đến các nhóm đối tượng gây
ra nhiều tai nạn giao thông. Đưa tiêu chí chấp hành pháp luật về giao thông đường
bộ vào công tác thi đua khen thưởng định kỳ.
- Duy trì thực hiện chương trình giáo dục về
trật tự an toàn giao thông cho học sinh tiểu học, mở rộng kế hoạch cho các cấp
học khác từ năm học 2009 - 2010 để không ngừng tuyên truyền, giáo dục cho học
sinh có ý thức chấp hành pháp luật giao thông, ứng xử có văn hóa khi tham gia
giao thông và ở nơi công cộng.
- Các cơ quan thông tin đại chúng thành phố
tăng cường các chuyên trang, chuyên mục và tăng tần suất đăng, phát tin, bài để
tuyên truyền phổ biến về nếp sống văn minh đô thị và pháp luật giao thông, về
các quy định bảo đảm hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt và các
quy định pháp luật liên quan đến công tác xử phạt vi phạm hành chính về trật tự
an toàn giao thông; thực hiện các bản tin, phóng sự ngắn về trật tự an toàn
giao thông trên địa bàn thành phố.
3. Kiên quyết chấn
chỉnh trật tự đô thị và lập lại trật tự lòng, lề đường:
Tập trung chỉ đạo thực hiện Quyết định số 74/2008/QĐ-UBND
ngày 23 tháng 10 năm 2008 của Ủy ban nhân dân thành phố về Quy định quản lý và
sử dụng lòng đường, vỉa hè trên địa bàn. Tổ chức các bãi giữ xe mô tô, xe gắn
máy trên các tuyến đường có vỉa hè rộng, nhất là ở những nơi công cộng đông
người như chợ, siêu thị, địa điểm vui chơi giải trí để giải quyết nhu cầu về
chỗ để xe của người dân.
4. Khẩn trương khảo sát, điều chỉnh phân luồng giao thông một
chiều trên các tuyến
đường, khu vực thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông;
đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cải tạo kích thước
hình học của các giao lộ để tăng cường đảm bảo an
toàn giao thông (Vòng xoay Cây Gõ, vòng xoay Công trường
Dân Chủ, vòng xoay Ngã sáu Phù Đổng, vòng xoay Cộng Hòa/Hoàng Văn Thụ…).
Quản lý, điều tiết giao thông tại những khu
vực, đoạn đường có rào chắn công trình thi công, bảo đảm diện tích mặt đường bị
chiếm dụng hợp lý, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng đến sự đi lại của nhân
dân.
Tập trung giải quyết các điểm đen, đoạn đường
đen về tai nạn giao thông phát sinh trong năm 2008, không để chậm trễ; Đảm bảo
an toàn kỹ thuật cho chốt trực gác tại những vị trí giao nhau giữa đường bộ với
đường sắt. Khỏa sát, lập dự án xây dựng cầu vượt bộ hành tại những khu vực có
mật độ giao thông cao.
5. Chấn chỉnh hoạt động của xe buýt:
Tiếp tục rà soát để bố trí lại các trạm dừng,
nhà chờ xe buýt cho phù hợp để không làm ảnh hưởng đến giao thông. Triển khai
thực hiện thí điểm làn dành riêng hoặc ưu tiên cho xe buýt trên địa bàn thành
phố.
Hoàn tất nghiên cứu, thẩm định phê duyệt dự
án phát triển mạng lưới xe buýt thành phố đến năm 2015 để đưa vào thực hiện để
sắp xếp lại mạng lưới các tuyến xe buýt hợp lý hơn, điều chỉnh các lộ trình
trùng lắp, bất hợp lý ảnh hưởng đến an toàn giao thông. Tạm thời điều chỉnh
các luồng tuyến xe buýt tránh đi qua các đoạn đường có công trường rào chắn
chiếm dụng phần lớn mặt đường. Đẩy nhanh các dự án ứng dụng GPS và GIS trong
công tác quản lý hoạt động của mạng lưới xe buýt, thí điểm sử dụng thẻ thông
minh thay cho vé giấy thông thường.
Tiếp tục đầu tư đổi mới phương tiện và hệ thống
cơ sở hạ tầng cho hoạt động xe buýt, tăng cường quản lý điều hành, giáo dục đạo
đức nghề nghiệp và tính chuyên nghiệp cho đội ngũ lái xe, nhân viên phục vụ
trên xe. Tiếp tục và đẩy mạng công tác vận động người dân thành phố sử dụng xe
buýt và phương tiện không có động cơ để đi lại; tăng cường thông tin, hướng dẫn
hành khách, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ để thu hút người dân tham
gia đi lại bằng xe buýt. Tiếp tục vận động các trường cấp 1, 2, 3 nâng cao số
lượng hợp đồng xe đưa đón cho ít nhất 20% số học sinh của trường trong năm học
2009 - 2010 ; vận động các nhà máy, xí nghiệp có trên 100 công nhân tổ chức
phương tiện hoặc hợp đồng xe buýt đưa rước công nhân đi làm.
Đồng thời tiếp tục nghiên cứu các
giải pháp khả thi và lộ trình để vận động người dân giảm dần việc sử dụng xe cá
nhân khi đi lại trên địa bàn thành phố.
6. Tăng cường tuần
tra, xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; kiên quyết thực hiện nghiêm nội dung Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29 tháng 6 năm 2007 và Nghị định số
146/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ:
- Tăng cường hoạt động tuần tra, xử lý,
nhất là trên các tuyến đường và vào thời gian thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông,
ở nơi có khả năng phát sinh các hiện tượng gây rối trật tự công cộng như tụ tập
từng nhóm để chạy xe gắn máy lạng lách, đánh võng, hoặc có dấu hiệu đua xe trái
phép; tập trung phát hiện, xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm là nguyên
nhân trực tiếp gây ra tai nạn giao thông.
- Thực hiện thí điểm việc kết hợp xử lý hành
chính với giáo dục pháp luật giao thông cho người vi phạm pháp luật giao thông.
Ngoài việc xử phạt theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04/TTLT-CA-GTVT ngày
31 tháng 7 năm 2008 của Bộ Công an và Bộ Giao thông vận tải về học và kiểm tra
lại Luật Giao thông đường bộ, đối với các trường hợp vi phạm bị tước giấy phép
lái xe, cần xử phạt hình thức bổ sung, buộc người vi phạm xem các hình ảnh,
phim tư liệu về nguyên nhân, hiện trường và các hậu quả do tai nạn giao thông
gây ra nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, khuyến cáo. Có biện pháp nâng cao tỷ lệ
chấp hành quyết định xử phạt vi phạm qua các hình ảnh ghi được.
- Rà soát, tổ chức thực hiện nghiêm quy định
của Bộ Công an tại Thông tư số 22/2007/TT-BCA ngày 12 tháng 10 năm 2007 hướng
dẫn việc thông báo đến nơi cư trú hoặc nơi công tác, học tập của người có hành
vi vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông.
- Bố trí đủ lực lượng tại các giao lộ, các
vị trí có rào chắn thi công công trình chiếm dụng mặt đường, những nơi thường xảy
ra ùn tắc giao thông để điều hòa giao thông để nhanh chóng giải tỏa.
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Đoàn Kiểm tra liên ngành đường bộ, đường sắt (Đoàn Kiểm tra Nghị định 14/CP)
thuộc Ban An toàn giao thông thành phố.
7. Đầu tư xây dựng hạ
tầng giao thông theo QHGT; tập trung thực hiện Đề án “Quy hoạch, phát triển hạ tầng giao thông đô
thị, khắc phục tình trạng ùn tắc giao
thông, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh và
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tập trung ưu tiên trong giai đoạn 2008 -
2010”.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các
dự án, nhất là các dự án trọng điểm đầu tư
hạ tầng giao thông, thoát
nước, chống ngập. Rà soát, điều hòa vốn cho các công trình trọng điểm, cấp
bách, các dự án đảm bảo tiến độ, có khối lượng nghiệm thu hoàn thành trong năm
2009. Thực hiện nhanh thủ tục để triển khai các gói thầu đã được phép chỉ định
thầu đúng tiến độ. Tập trung các nguồn lực để hoàn thành đưa vào sử dụng một số
công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị trọng điểm của thành phố trong năm 2009 gối
đầu năm 2010, nhất là các công trình trọng điểm (dự án Vệ
sinh môi trường thành phố - lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè, Tiểu dự án Nâng cấp
đô thị - lưu vực Kênh Tân Hóa - Lò Gốm, đại lộ Đông - Tây thành phố, cầu Phú Mỹ
và các dự án đường kết nối, Tỉnh lộ 10, Liên Tỉnh lộ 25B, cầu Phú Long, cầu Thủ
Thiêm (giai đoạn 2), xa lộ Hà Nội, đường Bắc
- Nam thành phố …
8. Tập trung tháo gỡ,
đẩy nhanh tiến độ công tác giải phóng mặt bằng các dự án, tiến độ đầu tư phát triển các đô thị vệ tinh như Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Khu đô thị - cảng Hiệp
Phước, Khu đô thị Tây Bắc, Khu đô thị
Bình Quới - Thanh Đa, Khu đô thị Công nghệ cao Đông - Bắc
thành phố.
9. Đẩy nhanh quy
hoạch và thực hiện di dời các trường đại học, cao
đẳng, dạy nghề, bệnh viện lớn ra ngoài khu vực trung tâm thành phố; đẩy nhanh
tiến độ hoàn thành di dời các cảng biển trên sông Sài Gòn…
10. Hiện đại hóa
công tác quản lý cơ sở hạ tầng giao thông, ứng
dụng hệ thống giao thông thông minh ITS trong điều hành và quản lý giao thông.
Phần V.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị Chính
phủ:
- Hiện nay, nhu cầu đầu
tư phát triển hạ tầng kỹ thuật của Thành phố rất bức xúc và cấp bách. Để tạo điều kiện cho Thành phố
có nguồn vốn bố trí cho các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, cấp bách;
hỗ trợ xây dựng chương trình kích cầu đầu tư, tiêu dùng trên địa bàn, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị Thủ
tướng Chính phủ quan tâm, xem xét tăng tỷ lệ nguồn thu để
lại cho Thành phố và được hưởng toàn bộ số thu vượt mức
kế hoạch được giao (kể cả thu nội địa và thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu); đồng thời bổ sung từ ngân sách Trung ương cho ngân sách thành phố để bảo đảm có thêm
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
- Chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh đẩy nhanh các dự án đầu tư xây dựng khu đô
thị vệ tinh, từng bước hình thành các đô thị mới, các thành
phố vệ tinh như Nhơn Trạch, Biên Hòa, Dĩ An, Thủ Dầu Một, Bến
Cát, Hậu Nghĩa, Đức Hòa, Bến Lức, Tân An… để tạo đối trọng kéo giãn mật độ dân cư quá cao ở khu vực nội đô thành phố Hồ Chí Minh, khai thác tốt nhất về
thế mạnh kinh tế - xã hội tổng hợp của Vùng thành phố Hồ Chí Minh
và của toàn Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam;
- Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ di dời các
cảng trên sông Sài Gòn ra khu vực cảng Hiệp
Phước (huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh) và khu vực cảng
Cái Mép (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu);
2. Kiến nghị Bộ Giao
thông vận tải:
- Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền sâu, rộng và sớm ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giao thông đường bộ (mới) đã có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm
2009.
- Sớm xây dựng,
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành kế
hoạch thực hiện các dự án phát triển giao thông vận tải quốc gia trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận theo Quy hoạch
phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định
số 101/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2007.
- Chỉ đạo tập trung để hoàn thành
đúng tiến độ đầu tư đối với các dự án giao
thông trọng điểm qua địa phận thành phố Hồ Chí Minh do các đơn vị thuộc Bộ
quản lý như Đường ô tô cao
tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, Đường ô tô cao
tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Quốc lộ
50, … Đẩy nhanh công tác chuẩn bị đầu tư để khởi công sớm các dự án Đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Biên
Hòa - Vũng Tàu, Đường cao tốc Bến Lức - Long Thành, Các
đường Vành đai 3 và Vành
đai 4 thành phố; trong đó ưu
tiên xây dựng trước cầu Bình Khánh vượt
sông Soài Rạp thuộc dự án Đường cao tốc Bến Lức - Long Thành. Có kế hoạch chỉ đạo nghiên cứu các dự án khác như Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một - Chơn Thành, Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Củ Chi - Mộc Bài để
có thể đầu tư xây dựng và hoàn thành trong giai đoạn từ nay đến 2020.
- Hỗ trợ Thành
phố nghiên cứu xây dựng một cảng biển nước
sâu trên địa bàn, dự kiến tại khu vực Thiềng Liềng (huyện Cần
Giờ); định hướng xây dựng một tuyến đường
sắt kết nối từ cảng nước sâu này với mạng lưới đường sắt
quốc gia; khảo sát nghiên cứu thêm vị
trí xây dựng cảng nước sâu ở khu vực Gò Gia (huyện Cần
Giờ).
- Bổ sung quy hoạch xây dựng một bến tàu khách quốc tế 50.000 GRT trên sông
Nhà Bè tại khu vực Công viên Phú Thuận
trong Quy hoạch chi tiết Nhóm cảng
biển khu vực thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm
cảng biển số 5), đủ sức đáp ứng nhu cầu tiếp nhận tàu khách có trọng
tải lớn và các phương tiện vận chuyển hành khách thủy nội địa như
đề xuất của Thành phố (Công văn số 1637/UBND-ĐTMT ngày 15 tháng 4 năm
2009) và được Cục Hàng hải Việt Nam đồng
tình(Công văn số 2250/CHHVN-
KHĐT ngày 28 tháng 10 năm 2008).
- Đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên
cứu ban hành chính sách miễn, giảm đóng
phí cầu, đường qua các trạm
thu phí cho đối tượng xe buýt để thu
hút hành khách sử dụng phương tiện giao thông công cộng.
3. Kiến nghị Bộ Công an:
- Sớm nghiên cứu ban hành điều kiện riêng đối với việc đăng
ký mới xe ô tô cá nhân, xe mô tô và xe gắn máy tại các đô thị loại đặc biệt.
- Khẩn trương nghiên cứu, trình Chính phủ về Đề án quy định
điều kiện và tiêu chí đăng ký thường trú vào thành phố Hồ Chí Minh (như có chỗ ở,
có việc làm ổn định lâu dài, trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ nhất
định...); triển khai thực hiện thí điểm ngay trong năm 2009 để hạn chế gia tăng
dân số cơ học cục bộ ở thành phố, chặn đứng tình trạng di dân quá lớn, mất cân
đối dân số và phân bổ lực lượng lao động, dẫn đến mất cân đối kinh tế vĩ mô;
tạo điều kiện cho Thành phố thực hiện tốt hơn các chính sách an sinh xã hội,
giữ vững quốc phòng - an ninh, ổn định an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn.
4. Kiến nghị Bộ Tài chính:
Nghiên cứu tăng mức phí trước bạ và lệ phí đăng ký phương
tiện giao thông cá nhân tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; nghiên
cứu quy định có khoản thu từ người sử dụng phương tiện cá nhân trong cả nước để
thành lập quỹ phát triển giao thông, hỗ trợ vận tải hành khách công cộng, cải
thiện môi trường. Riêng tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh quy định
mức thu phí cao hơn và thu phí sử dụng hạ tầng giao thông đô thị thông qua gía
dịch vụ giữ xe.
5. Kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Nghiên cứu bổ sung điều kiện bắt buộc doanh nghiệp phải có
vị trí và diện tích đậu xe tương ứng khi cấp giấy đăng ký kinh doanh đối với các
ngành nghề có nhu cầu đậu xe cho khách hàng, áp dụng cho thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
Kính báo cáo./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ “để báo
cáo”;
- Văn phòng Chính phủ;
- Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia;
- Bộ Giao thông vận tải; Bộ Công an;
- Thường trực Thành ủy;
- Thường trực HĐND. TP;
- TTUB: CT, các PCT;
- Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố;
- Ban An toàn giao thông thành phố;
- Các đoàn thể: LĐLĐ, TN, PN, CCB, ND;
- Các sở - ban - ngành thành phố;
- UBND các quận-huyện;
- Các cơ quan Báo, Đài;
- VPUB: CPVP; các Phòng CV;
- Lưu:VT, (ĐTMT-Thg) H.
|
CHỦ
TỊCH
Lê Hoàng Quân
|