CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------
|
Số:
89/TTr-CP
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2009
|
TỜ TRÌNH
VỀ
ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 2009 – 2014
Kính
gửi: Quốc hội
Thực hiện Kết luận số 20-KL/TW ngày
28 tháng 01 năm 2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa
X), Chính phủ đã xây dựng Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn
2008 – 2012. Đề án đã được báo cáo Bộ Chính trị ngày 05 tháng 3 năm 2009 và sau
khi tiếp tục hoàn chỉnh đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 13 tháng 5
năm 2009. Tiếp thu chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 13 tháng 5 năm
2009. Tiếp thu chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, để phù hợp với thời gian
triển khai thực tế của đề án, Chính phủ xin trình Quốc hội Đề án Đổi mới cơ chế
tài chính giáo dục giai đoạn 2009 – 2014 với những nội dung chủ yếu sau đây:
I. SỰ CẦN
THIẾT ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
và coi trọng công tác giáo dục và đào tạo. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ được xác
định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững.
Trong những năm qua, mặc dù điều
kiện đất nước và ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Nhà nước vẫn quan tâm dành
một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Với nguồn ngân
sách đó, lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, trong khi nền kinh tế nước ta đã chuyển sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hơn 20 năm, đã hình thành các cơ sở giáo dục ngoài
công lập ngày một tăng thì cơ chế tài chính của giáo dục thực tế vẫn chưa có
thay đổi về chất so với thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
- Việc quản lý ngân sách giáo dục
thực tế rất phân tán: các địa phương quản lý 74% ngân sách nhà nước chi cho giáo
dục hàng năm, các Bộ, ngành khác 21%, Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý 5%. Các
địa phương và các Bộ, ngành khác không có báo cáo về tình hình và hiệu quả sử
dụng ngân sách giáo dục cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào
tạo không đủ điều kiện để đánh giá hiệu quả đầu tư của nhà nước cho giáo dục
trong toàn quốc.
- Mức chi đầu tư xây dựng cơ bản
còn thấp so với nhu cầu rất lớn của ngành.
- Định mức phân bổ ngân sách cho
giáo dục chưa gắn chặt với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo (đội ngũ giáo
viên, điều kiện về cơ sở vật chất …), chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí
đào tạo giữa nhà nước và người học ở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học,
về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp và bình quân.
- Việc xây dựng định mức chi và phân
bổ ngân sách cho giáo dục chủ yếu dựa trên kinh nghiệm.
- Việc giao kế hoạch thu chi ngân
sách hàng năm chưa gắn với kế hoạch phát triển trung hạn và dài hạn của ngành,
gây khó khăn cho việc chủ động sắp xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ,
chế độ, chính sách và cân đối giữa nhu cầu chi với khả năng nguồn lực tài chính
công.
- Chế độ học phí được thực hiện từ
năm 1998 (theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 1998 của Thủ tướng
Chính phủ), đến nay vẫn chưa thay đổi. Mức học phí quá thấp, dưới khả năng chi
trả của người dân ở các vùng đô thị, không phù hợp với mặt bằng giá cả cùng với
chính sách cải cách tiền lương trong những năm qua. Từ năm 2000 đến năm 2008,
mức giá tiêu dùng đã tăng 1,84 lần[1].
Như vậy, với mức thu học phí như
hiện nay thì giá trị thực tế của học phí so với năm 2000 chỉ còn 54%. Ví dụ, mức
học phí của giáo dục đại học hiện nay là 180.000 đồng/tháng, nhưng giá trị thực
tế so với mặt bằng giá năm 2000 chỉ còn 98.000 đồng/tháng. Để học phí hiện nay
tương đương giá trị 180.000 đồng/tháng năm 2000 thì mức thu học phí sẽ phải là
331.000 đồng/tháng.
- Qua thực tế, một số chính sách
về miễn, giảm học phí và học bổng hiện nay đã thể hiện là không còn hợp lý. Các
cơ sở giáo dục và đào tạo phải tự thực hiện việc miễn, giảm học phí mà lẽ ra, đây
là trách nhiệm của Nhà nước về chính sách xã hội. Việc miễn học phí đối với sinh
viên ngành sư phạm mà không gắn với việc sau khi ra trường có việc làm trong hệ
thống giáo dục hay không là chưa hợp lý. Thiếu cơ chế hỗ trợ học sinh thuộc gia
đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thuộc địa bàn của chương trình 135.
- Cơ chế huy động các nguồn lực của
xã hội đầu tư cho giáo dục chưa đồng bộ.
- Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính trong các cơ sở giáo dục công lập nhìn
chung còn hạn chế về tác dụng. Với nguồn ngân sách cấp hàng năm còn hạn hẹp
(bình quân 3,7 triệu đồng/sinh viên đại học/năm 2006) và mức thu học phí rất
thấp và cố định nhiều năm (1,8 triệu đồng/sinh viên/năm) các cơ sở giáo dục
không có đủ nguồn lực để bổ sung thu nhập cho giáo viên khi thực hiện chính sách
tăng lương và tăng cường trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục. Điều này đã tạo áp lực rất lớn buộc các trường phải nâng tỷ lệ sinh
viên/giảng viên cao, ngược với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục.
Trước những bất cập kéo dài nói trên
và nhu cầu tăng chất lượng và quy mô giáo dục các cấp, đặc biệt là đào tạo nghề
nghiệp và giáo dục mầm non, việc đổi mới cơ chế tài chính giáo dục trong thời
gian tới là một yêu cầu rất cấp thiết.
II. QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Đề án được soạn thảo từ tháng 9 năm
2007 dựa trên cơ sở Luật Giáo dục 2005; Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng
8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Giáo dục và một số văn bản khác liên quan như Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP
ngày 18 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25
tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập.
Đề án đã nhận được đóng góp ý kiến
của các Bộ, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên,
Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Ủy
ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, các Sở
Giáo dục và Đào tạo và các trường đại học, cao đẳng.
Tại phiên họp ngày 05 tháng 3 năm
2009, Bộ Chính trị đã kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2
(khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 (Thông báo
số 242-TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009), trong đó có các nội dung trọng tâm về
đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục như sau:
“Tăng đầu tư nhà nước cho giáo dục
và đào tạo, ưu tiên các chương trình mục tiêu quốc gia, khắc phục tình trạng
bình quân, dàn trải.
Không ngừng đầu tư xây dựng, nâng
cấp cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục. Thực hiện tốt chủ trương xây dựng ký túc
xá sinh viên và nhà công vụ cho giáo viên ở vùng khó khăn nhất. Hoàn thiện và
bổ sung cơ chế, chính sách đối với trường ngoài công lập.
Đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa
giáo dục; Nhà nước có chính sách huy động mạnh mẽ các nguồn lực cho phát triển
giáo dục và đào tạo, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức,
cá nhân, các thành phần kinh tế tích cực tham gia các hoạt động phát triển giáo
dục. Xây dựng cơ chế quản lý, giám sát mọi nguồn lực đầu tư của xã hội cho giáo
dục.
Đổi mới cơ chế tài chính trong giáo
dục và đào tạo nhằm góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô và
đảm bảo công bằng trong giáo dục; thực hiện chế độ học bổng, học phí và hỗ trợ
học tập theo hướng học phí ở giáo dục mầm non, trung học cơ sở và trung học phổ
thông phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa bàn dân cư và hoàn cảnh hộ gia
đình; học phí ở giáo dục nghề nghiệp và đại học thực hiện theo nguyên tắc chia
sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người học. Miễn học phí cho học sinh, sinh
viên gia đình chính sách, các hộ nghèo; giảm học phí cho học sinh, sinh viên
các hộ cận nghèo và hỗ trợ học sinh, sinh viên các hộ có thu nhập rất thấp.
Thực hiện tốt chủ trương cho học sinh học nghề, sinh viên các gia đình có hoàn
cảnh khó khăn được vay tiền ngân hàng để học”.
Bộ Chính trị đã giao Ban Cán sự Đảng
Chính phủ hoàn chỉnh Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục trình Quốc hội xem
xét, quyết định.
Ngày 13 tháng 5 năm 2009, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã nghe Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thay mặt Chính phủ báo
cáo về Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2008 – 2012 và đã kết
luận:
- Tán thành việc Chính phủ trình
Đề án Đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục để Quốc hội xem xét và có nghị quyết
về việc này.
- Đề án cần được hoàn chỉnh tiếp
tục, làm rõ quan điểm xử lý các ý kiến khác nhau trong quá trình lấy ý kiến góp
ý của các cơ quan và cá nhân, có thể thảo luận sâu một số phương án so sánh, làm
rõ tác dụng của đề án khi được thông qua.
- Trong nhiều nội dung mới của cơ
chế tài chính giáo dục, cần chọn một số nội dung thực hiện trước. Nội dung đổi
mới toàn diện về học phí nên thực hiện từ năm 2010-2011 để có điều kiện chuẩn
bị đồng bộ về ngân sách nhà nước và các quy định, hướng dẫn khác cho việc triển
khai. Trước mắt, năm học 2009-2010 có phương án tăng học phí đào tạo có tính
quá độ, để khắc phục một phần bất hợp lý hiện nay, trước khi năm học 2010 –
2011 triển khai toàn diện phương án học phí và hỗ trợ người học mới.
- Cần thực hiện chế độ phụ cấp thâm
niên đối với nhà giáo.
Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo
dục 2009 – 2014 trình Quốc hội lần này đã được hoàn chỉnh theo ý kiến chỉ đạo
trong kết luận của Bộ Chính trị ngày 05 tháng 3 năm 2009 về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào
tạo đến năm 2020; kết luận chỉ đạo của Thường vụ Quốc hội ngày 13 tháng 5 năm
2009 và kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) về tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
III. MỤC TIÊU
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Hai mục tiêu tổng
quát của Đề án là:
- Xây dựng cơ chế tài chính mới cho
giáo dục, nhằm huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà
nước và xã hội để nâng cao chất lượng và tăng quy mô giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực sự coi
phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
- Xây dựng hệ thống các chính sách
để tiến tới mọi người ai cũng được học hành với nền giáo dục có chất lượng ngày
càng cao.
Cơ chế tài chính
giáo dục được hiểu gồm 8 nội dung sau đây:
- Xác định nhu cầu tài chính cho
các mục tiêu phát triển giáo dục. Xác định các nguồn lực từ ngân sách và xã hội
và các giải pháp huy động và sử dụng tài chính khả thi và hiệu quả, từ đó bảo đảm
cân đối nhu cầu và nguồn lực tài chính bền vững cho phát triển hệ thống giáo
dục quốc dân;
- Quy định về trách nhiệm và quyền
hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương trong việc lập và
thực hiện kế hoạch ngân sách giáo dục;
- Quy định về nguyên tắc xác định
mức học phí mầm non, phổ thông và giáo dục nghề nghiệp. Quy định về thẩm quyền
quyết định mức học phí và xác định mức học phí của các cơ quan trung ương, địa
phương và các cơ sở giáo dục;
- Xây dựng các chính sách của Nhà
nước hỗ trợ việc học tập của nhân dân: quy định đối tượng không phải đóng học
phí, miễn giảm học phí, đối tượng được hỗ trợ chi phí học tập; đối tượng được
hưởng học bổng chính sách và trợ cấp xã hội; đối tượng được vay vốn ưu đãi để
đi học. Quy định cơ chế thực hiện miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập.
- Xây dựng cơ chế và chính sách khuyến
khích xã hội đầu tư cho giáo dục;
- Quy định về lương và các chính
sách khuyến khích đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
- Quy định các nghĩa vụ và quyền
hạn về tài chính của các cơ sở giáo dục;
- Quy định về trách nhiệm và quyền
giám sát, kiểm tra của các Bộ và cơ quan quản lý nhà nước đối với việc sử dụng
ngân sách giáo dục.
Để thực hiện hai
mục tiêu tổng quát nói trên Đề án cần đạt được 3 yêu cầu cụ thể sau đây:
- Làm rõ hiện trạng, ưu điểm, hạn
chế của cơ chế tài chính giáo dục nước ta.
- Thu thập để tham khảo các chỉ số
phát triển và tài chính giáo dục của các nước phát triển và các nước mới phát
triển làm một cơ sở quan trọng khi quyết định chính sách tài chính giáo dục nước
ta.
- Căn cứ yêu cầu phát triển giáo
dục phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa từ nay đến năm 2020, đề án xác định các nội dung cần thiết đổi mới cơ chế
tài chính giáo dục tới năm 2014.
IV. BỐ CỤC
VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
1. Bố cục của
Đề án
Đề án bao gồm 6 phần như sau: Phần
I. Khái quát về hiện trạng hệ thống giáo dục Việt Nam. Phần II. Một số chỉ số
phát triển và tài chính giáo dục ở một số nước trên thế giới. Phần III. Đánh
giá cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2001 – 2008. Phần IV. Mục tiêu phát
triển và nhu cầu đầu tư cho giáo dục giai đoạn 2009 - 2020. Phần V. Đổi mới cơ
chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 – 2014. Phần VI. Tổ chức thực hiện.
2. Một số nội
dung cơ bản của Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 – 2014.
Đề án đã xác định 8 nội dung đổi
mới cơ chế tài chính giáo dục như sau:
a) Đổi mới phương
thức xây dựng và giao kế hoạch ngân sách, cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước cho
các mục tiêu của giáo dục:
- Đổi mới phương thức xây dựng và
giao kế hoạch ngân sách cho ngành giáo dục theo hướng lập kế hoạch ngân sách trung
hạn (3 năm);
- Nhà nước cam kết dành đầu tư thỏa
đáng và ngày càng tăng cho giáo dục. Nhà nước là người chi lớn nhất, chủ yếu
cho giáo dục phổ thông và mầm non. Tiếp tục thực hiện phổ cập tiểu học miễn phí,
thực hiện việc phổ cập trung học cơ sở có sự đóng góp theo khả năng của người
học và đến năm 2015 đạt ít nhất 95% số trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo với chất
lượng được nâng cao hơn hiện nay;
- Ngân sách nhà nước đầu tư cho các
cơ sở giáo dục công lập đảm bảo đạt mức chất lượng cần thiết tối thiểu. Ở những
trường mầm non và phổ thông công lập cung cấp dịch vụ giáo dục cao hơn mức chất
lượng cần thiết tối thiểu, ngoài phần chi của nhà nước, phần còn lại sẽ thu từ người
học;
- Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước
cho giáo dục của các địa phương vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông chuyên;
- Tăng đáng kể tỷ trọng ngân sách
dành cho phát triển dạy nghề;
- Thành lập một số cơ sở đào tạo
chất lượng cao, một số trường trọng điểm từ dạy nghề đến đại học, bằng nguồn ngân
sách nhà nước và vay ODA để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu xã hội.
b) Xác định trách
nhiệm và quyền hạn hợp lý của các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa
phương trong việc lập và thực hiện kế hoạch ngân sách giáo dục.
c) Xây dựng cơ chế
thích hợp để huy động các nguồn lực cho giáo dục:
- Nhà nước khuyến khích sự đóng góp
của xã hội cho giáo dục theo khả năng của hộ gia đình, của các nhà hảo tâm, các
doanh nghiệp; khuyến khích thành lập và phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công
lập.
- Ngân sách nhà nước hỗ trợ các cơ
sở giáo dục ngoài công lập đào tạo giảng viên có trình độ cao; thực hiện các chương
trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; cấp bù
học phí (với mức học phí của các trường công lập trong vùng) cho con em các đối
tượng chính sách học ở các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập.
d) Đổi mới chính
sách học phí và hỗ trợ người học:
- Sửa đổi chế độ học phí của các
trường công lập theo hướng:
+ Đối với giáo dục mầm non và phổ
thông: học phí không là gánh nặng tài chính với gia đình học sinh. Khi học phí
và các chi phí học tập hợp lý khác của hộ gia đình cho con em đi học không vượt
quá 6% thu nhập bình quân của hộ gia đình, thì mức học phí đó luôn nằm trong
khả năng chi trả của hộ gia đình. Mức học phí do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình
Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế -
xã hội của địa phương và thu nhập của hộ gia đình trên địa bàn; phần chi phí
còn lại cho giáo dục ở các trường công lập (chiếm hơn 90% chi phí giáo dục),
ngoài sự đóng góp của người dân bằng học phí, do nhà nước đảm nhận, nhằm đảm
bảo chất lượng giáo dục tối thiểu cần thiết.
+ Mức học phí đối với đào tạo công
lập (dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) thể hiện sự chia sẻ
thực sự chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học, đủ chi lương và từng bước
đảm bảo chi thường xuyên của các nhóm ngành đào tạo, phần còn lại của chi
thường xuyên và toàn bộ chi đầu tư do nhà nước đảm nhận.
Các cơ sở giáo dục cung cấp chương
trình đào tạo chất lượng cao, được thu học phí cao hơn để bù đắp chi phí đào
tạo cao hơn.
- Thực hiện miễn học phí đối với
học sinh tiểu học. Miễn học phí cho học sinh thuộc diện chính sách, thuộc diện hộ
nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia. Giảm học phí cho các đối tượng cận nghèo và gia
đình chính sách, ngành nghề cần khuyến khích. Nhà nước thực hiện hỗ trợ chi phí
học tập (chi ngoài nhà trường) cho học sinh phổ thông diện chính sách và học
sinh thuộc gia đình có thu nhập rất thấp;
- Nhà nước tiếp tục thực hiện chính
sách tín dụng cho học sinh học nghề và sinh viên thuộc diện gia đình nghèo, cận
nghèo và có hoàn cảnh khó khăn vay tiền để học tập. Khi học phí đào tạo tăng
thêm theo quy định của Chính phủ thì mức cho vay để học sẽ được tăng thêm tương
ứng;
- Thay đổi chính sách miễn học phí
đối với sinh viên ngành sư phạm hiện nay bằng chính sách cho sinh viên vay để
học, khi ra trường nếu phục vụ trong hệ thống giáo dục quốc dân ít nhất 2 lần
thời gian đào tạo (6 năm đối với cao đẳng sư phạm, 8 năm đối với đại học sư phạm)
thì nhà nước sẽ xóa phần nợ (cả gốc và lãi) để chi trả học phí;
- Nhà nước thực hiện cấp trực tiếp
tiền cho các đối tượng được miễn, giảm học phí khi học mầm non, phổ thông, học
nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học để thực hiện đóng học phí
cho các cơ sở giáo dục;
- Nhà nước có chính sách khuyến khích
người học giỏi bằng học bổng khuyến khích học tập ở tất cả các cơ sở đào tạo
nghề nghiệp trong nước hoặc cử đi nước ngoài học tập;
- Nhà nước đầu tư toàn bộ để xây
dựng các ký túc xá cho sinh viên, người ở chi trả tiền ở đủ để vận hành và duy
tu các ký túc xá.
- Khuyến khích thành lập các quỹ
trợ giúp người nghèo đi học và khuyến khích học giỏi ở các địa phương của các doanh
nghiệp, các đoàn thể và tổ chức chính trị xã hội bằng nguồn tài chính ngoài
ngân sách nhà nước.
đ) Chính sách đối
với giáo viên:
- Thông qua chi từ ngân sách và thu
học phí ở các trường công lập, Nhà nước đảm bảo thu nhập của giáo viên công lập
ổn định đời sống và ngày càng được cải thiện;
- Tiếp tục chính sách khuyến khích
giáo viên dạy học ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc;
- Chuẩn hóa trình độ nhà giáo các
cấp và xây dựng chế độ thang bảng lương hợp lý cho các cấp học và trình độ đào
tạo. Thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục. Nhà giáo được điều động lên làm cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp được
bảo lưu chế độ phụ cấp đứng lớp trong vòng 3 năm.
- Các trường học công lập thực hiện
tự chủ tài chính và biên chế theo quy định của Chính phủ.
e) Trách nhiệm của
các cơ sở giáo dục trong quản lý tài chính:
- Bảo đảm sự tương quan giữa
chất lượng đào tạo và nguồn tài chính được sử dụng (ngân sách, học phí và tài
trợ của xã hội), đầu tư có hiệu quả để nâng cao dân trí, phát triển nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài;
- Công bố mục tiêu và cam kết chất
lượng đào tạo, kết quả đánh giá chất lượng đào tạo thực tế, công bố nguồn lực
đào tạo của cơ sở (đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, liên
kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế ….) theo quy định của Nhà
nước;
- Công khai chi tiêu trong nhà trường
hàng năm, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước, chấp hành các chế độ, quy
định về tài chính, kế toán, thực hiện kiểm toán theo quy định của Nhà nước;
- Gửi báo cáo hoạt động nhà trường,
trong đó có phần tài chính, về cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp theo quy định
của Nhà nước.
g) Giám sát tài
chính giáo dục:
- Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ quản lý tài chính giáo dục, trong đó quy định rõ chức năng nhiệm vụ của các
Bộ, ngành ở Trung ương, của các cơ quan địa phương trong việc phối hợp quản lý,
kiểm tra, giám sát và báo cáo về tài chính của giáo dục;
- Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp
với Bộ Tài chính xây dựng các quy định quản lý tài chính giáo dục trong các cơ
sở giáo dục, quy định báo cáo về tài chính của các cơ sở giáo dục làm cơ sở cho
việc quản lý minh bạch và công khai tài chính của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc
dân;
- Nhà nước thực hiện việc kiểm tra,
giám sát các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập. Các cơ sở giáo dục có
trách nhiệm sử dụng kinh phí giáo dục đúng mục đích, có hiệu quả;
- Đại diện cha mẹ học sinh ở các
cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, đại diện học sinh, sinh viên và đại diện giáo
viên, giảng viên ở các cơ sở đào tạo có quyền và trách nhiệm giám sát việc sử
dụng kinh phí của cơ sở giáo dục theo quy chế hoạt động của trường được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
h) Xác định học
phí và hỗ trợ của nhà nước và địa phương:
Mức học phí được phân biệt giữa chương
trình đào tạo đại trà (chương trình đạt mức chất lượng cần thiết tối thiểu) và
chương trình đào tạo chất lượng cao.
Nguyên tắc xác định học phí:
- Học phí của các trường mầm non
và phổ thông công lập đại trà:
Đối với giáo dục mầm non và giáo
dục phổ thông (trung học cơ sở, trung học phổ thông) học phí không là gánh nặng
tài chính đối với gia đình người học, mà luôn là khả thi. Điều này được bảo đảm
khi học phí và các khoản chi cần thiết khác cho việc học tập không vượt quá 6% thu
nhập bình quân của hộ gia đình. Học phí đối với giáo dục nghề nghiệp từ bậc sơ
cấp đến bậc trung cấp, cao đẳng và đại học thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi
phí giữa nhà người và người học, học phí phải đảm bảo bù đắp chi phí tiền lương,
từng bước đảm bảo chi thường xuyên tối thiểu của các nhóm ngành đào tạo. Đây là
yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa X), về hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo nguyên tắc trên, học phí bình
quân của các tỉnh cho giáo dục mầm non và phổ thông công lập ở các tỉnh trong
cả nước đã được trình bày ở Đề án. Với các hộ dân có thu nhập rất thấp, nếu 6%
thu nhập chưa bảo đảm chi đủ cho các nhu cầu như dụng cụ học tập, sách giáo
khoa, quần áo đồng phục, đi lại tối thiểu … thì được Nhà nước hỗ trợ thêm, ngoài
việc miễn học phí.
Theo nguyên tắc học phí phù hợp với
khả năng chi trả, trong một tỉnh có các vùng có mức thu nhập khác nhau có thể
có mức học phí khác nhau. Biểu 1 sau đây là ví dụ mức học phí cho các hộ dân có
thu nhập khác nhau ở một tỉnh có 3 vùng:
Đô thị (thu nhập bình quân 800.000
đồng/người/tháng), huyện đồng bằng (thu nhập bình quân 650.000 đồng/người/tháng),
huyện miền núi (thu nhập bình quân 400.000 đồng/người/tháng). Thu nhập bình
quân toàn tỉnh là 700.000 đồng/người/tháng tương đương thu nhập ở một tỉnh đồng
bằng năm 2008.
Biểu
1. Ví dụ các mức học phí ở các vùng của tỉnh
Đơn
vị: Đồng/tháng
Thu
nhập người/tháng
|
Dưới
400.000
|
Từ
400.000 đến dưới 508.000
|
Từ
508.000 đến dưới 650.000
|
Từ
650.000 đến dưới 800.000
|
Từ
800.000 trở lên
|
Vùng
đô thị (Thu nhập bình quân 800.000đ)
|
|
|
Miễn
học phí (rất ít)
|
Học
phí được giảm: 17.000đ (ít)
|
Học
phí 35.000 (đa số)*
|
Vùng
huyện đồng bằng (thu nhập bình quân 650.000đ)
|
|
Hỗ
trợ học tập 13.000 (rất ít)
|
Miễn
học phí (ít)
|
Học
phí được giảm 17.000 (đa số)*
|
|
Vùng
huyện miền núi (thu nhập bình quân 400.000đ)
|
Hỗ
trợ học tập 50.000 (rất ít)
|
Hỗ
trợ học tập 13.000 (đa số)*
|
Miễn
học phí (ít)
|
|
|
Đối với vùng đô thị của địa phương
nói trên, thu nhập bình quân là 800.000 đồng/người/tháng. Tức là đa số người
dân có thu nhập từ mức này trở lên và ứng với nói là mức học phí 35.000 đồng/tháng.
Về nguyên tắc người có thu nhập hơn 800.000 đồng/tháng sẽ phải đóng học phí cao
hơn 35.000 đồng/tháng. Ví dụ thu nhập 850.000 đồng/tháng thì phải đóng học phí
là 41.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, vì số người có thu nhập cao trên trung bình
không nhiều, và để đơn giản cho việc thu học phí, thì những người có thu nhập
cao hơn mức trung bình 800.000 đồng/tháng cũng chỉ đóng học phí như người có
mức thu nhập 800.000 đồng/tháng. Tức là người đi học được lợi hơn, còn Nhà nước
thì thu được ít hơn là khả năng các hộ có thể đóng góp cho việc học tập của con
em trong khả năng chi trả bình thường (6% thu nhập) của họ.
Tương tự như vậy, những hộ gia đình
có thu nhập dưới mức trung bình 800.000 đồng/tháng tới 650.000 đồng/tháng đều
chỉ đóng một mức học phí là 17.000 đồng/tháng, tương ứng với thu nhập 650.000
đồng/tháng. Còn thu nhập dưới 650.000 đồng/tháng thì không phải đóng học phí.
Đối với huyện miền núi có thu nhập
bình quân 400.000 đồng/tháng thì thực tế sẽ miễn học phí cho tất cả học sinh,
ngoài ra đa số còn được hỗ trợ 13.000 đồng/tháng để giúp gia đình mua sách, vở,
đồ dùng học tập cho các em (ngoài 6% thu nhập các gia đình đã dành cho việc
này).
Theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ năm 1998 về khung học phí thì từ năm 1998, đối với các
đô thị, học phí trung học phổ thông đã tới 35.000 đồng/tháng, vùng nông thôn
tới 25.000 đồng/tháng và vùng miền núi là 15.000 đồng/tháng. Đối chiếu với quy
định này thì học phí mới tính theo khả năng chi trả 6% thu nhập, là tương đương
với vùng đô thị (35.000 đồng/tháng), thấp hơn với vùng đồng bằng (17.000
đồng/tháng so với 25.000 đồng/tháng) và thêm hỗ trợ (13.000 đồng/tháng) của nhà
nước cho các gia đình rất nghèo chứ không phải đóng học phí (15.000 đồng/tháng).
Nếu tính thu nhập bình quân của Hà
Nội năm 2008 là 1.440.000 đồng/người/tháng thì mức học phí là 112.000 đồng/tháng.
Mức này bằng 3,2 lần mức học phí tối đa 35.000 đồng/tháng dành cho đô thị năm
1998 theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tuy nhiên hoàn
toàn là khả thi với thu nhập bình quân của người dân thủ đô, và chi phí cho học
tập vẫn không vượt quá 6% thu nhập của gia đình.
Tóm lại đối với giáo dục mầm non
và phổ thông học phí mới theo nguyên tắc phù hợp với khả năng chi trả của hộ dân
sẽ làm cho học phí không là gánh nặng tài chính với hộ gia đình, đồng thời đã
giảm đáng kể tính bình quân, bao cấp của việc đóng học phí, khắc phục tình trạng
nhà nước bao cấp, hỗ trợ cho các hộ gia đình có thu nhập cao cũng giống như cho
các hộ có thu nhập thấp trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục cho học sinh. Các
hộ có thu nhập thấp được hỗ trợ thiết thực để con em đi học.
- Học phí của các trường phổ thông
chuyên và các trường dân tộc nội trú:
Các trường phổ thông chuyên là cơ
sở giáo dục để đào tạo nhân tài của các địa phương. Các trường được đầu tư cao
từ ngân sách và vận động xã hội tài trợ để các em có điều kiện học tập, rèn luyện
đặc biệt tốt. Mức học phí ở các trường phổ thông chuyên thực hiện theo quy định
chung của địa phương, không cao hơn các trường phổ thông đại trà khác trên địa
bàn.
Các trường dân tộc nội trú được Nhà
nước đầu tư, hỗ trợ hoàn toàn chi phí hoạt động, người học không phải đóng học
phí.
- Học phí của các cơ sở đào tạo công
lập: các trường nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học công lập được
xác định mức thu học phí theo nhóm ngành nghề đào tạo trong khung học phí quy
định của Chính phủ.
Khung học phí đại học và khung học
phí của trung cấp nghề, cao đẳng nghề của các nhóm ngành đào tạo giai đoạn 2010
– 2014 như sau:
Khung
học phí đại học các nhóm ngành đào tạo đại trà giai đoạn 2009 – 2014
Đơn
vị: Nghìn đồng/tháng/sinh viên
Nhóm
ngành
|
Năm
2008
|
Năm
2009
|
Năm
2010
|
Năm
2011
|
Năm
2012
|
Năm
2013
|
Năm
2014
|
1. Khoa học xã hội, kinh tế, luật
|
180
|
255
|
290
|
350
|
410
|
480
|
550
|
2. Kỹ thuật, công nghệ
|
180
|
255
|
310
|
390
|
480
|
560
|
650
|
3. Khoa học tự nhiên
|
180
|
255
|
310
|
390
|
480
|
560
|
650
|
4. Nông – lâm – thủy sản
|
180
|
255
|
290
|
350
|
410
|
480
|
550
|
5. Y dược
|
180
|
255
|
340
|
450
|
560
|
680
|
800
|
6. Thể dục thể thao, nghệ thuật
|
180
|
255
|
310
|
390
|
480
|
560
|
650
|
7. Sư phạm
|
|
|
280
|
330
|
380
|
440
|
500
|
Khung
học phí của trung cấp nghề và cao đẳng nghề của các nhóm nghề đào tạo đại trà giai
đoạn 2010 – 2014
Đơn
vị: Nghìn đồng/tháng/học sinh
Nhóm
ngành
|
Năm
2008
|
Năm
2009
|
Năm
2010
|
Năm
2011
|
Năm
2012
|
Năm
2013
|
Năm
2014
|
1. Khối thăm dò địa chất, thủy
văn, khí tượng
|
120
|
170
|
270
|
370
|
470
|
580
|
700
|
2. Khối hàng hải
|
120
|
170
|
260
|
340
|
420
|
500
|
610
|
3. Khối y tế, dược
|
120
|
170
|
250
|
330
|
410
|
490
|
580
|
4. Khối cơ khí luyện kim, kỹ thuật
nhiệt và điện, kỹ thuật xây dựng
|
120
|
170
|
240
|
320
|
400
|
480
|
560
|
5. Khối công nghệ lương thực và
thực phẩm
|
120
|
170
|
230
|
310
|
380
|
460
|
540
|
6. Khối kỹ thuật bảo quản và vật
tư hàng hóa
|
120
|
170
|
230
|
300
|
380
|
460
|
530
|
7. Khối văn hóa, thể thao – du
lịch
|
120
|
170
|
230
|
300
|
380
|
460
|
520
|
8. Khối kỹ thuật điện tử, bưu chính
viễn thông
|
120
|
170
|
230
|
300
|
370
|
430
|
500
|
Mức học phí đào tạo tăng hàng năm
theo dự kiến trên là nhằm:
+ Bảo đảm chi trả lương tăng lên
theo kế hoạch của Chính phủ để tiền lương thực sự là phần thu nhập đủ sống chủ yếu
của công chức và viên chức trong cơ sở công lập;
+ Tăng cường từng bước cơ sở vật
chất cho giáo dục để tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo;
+ Không tạo ra sự tăng đột ngột,
mức độ lớn của việc đóng học phí, gây khó khăn cho người học.
Riêng năm học 2009 – 2010, trong
khi chưa thực hiện việc thay đổi cách đóng học phí theo đề án từ năm 2010 – 2014,
học phí đào tạo sẽ tăng bằng 50% mức mất giá đồng tiền năm 2008 so với năm
2020. Theo đó học phí đại học tăng từ 180.000 đồng/tháng lên 255.000 đồng/tháng,
học phí học nghề tăng từ 120.000 đồng/tháng lên 170.000 đồng/tháng.
+ Học phí đào tạo hệ vừa làm vừa
học: mức học phí đảm bảo bù đắp chi phí thường xuyên tối thiểu và không vượt quá
150% mức học phí chính quy cùng cấp học và các nhóm ngành nghề đào tạo.
- Học phí của các cơ sở giáo dục
ngoài công lập và của nhà đầu tư nước ngoài:
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập
và của nhà đầu tư nước ngoài được tự quyết định mức thu học phí, nhưng phải thực
hiện 3 công khai: chất lượng đào tạo, nguồn lực đào tạo (giáo viên, chương trình
đào tạo, cơ sở vật chất, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học …) và tài chính,
đóng thuế theo quy định của Nhà nước.
Công bố và sử dụng học phí:
Hàng năm, cơ sở đào tạo công lập
căn cứ vào khung học phí do nhà nước quy định, tự xác định mức học phí của mỗi ngành
học cho từng năm học của cả khóa học và thông báo công khai cho người học biết
trước khi thông báo tuyển sinh năm học mới. Cơ sở đào tạo công lập quy định
việc sử dụng học phí trong quy chế chi tiêu nội bộ được cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Tiền thu học phí của các cơ sở công lập phải gửi Kho bạc Nhà nước để
giám sát chi tiêu.
- Đối với chương trình chất lượng
cao tại các cơ sở công lập: phần chi phí tăng thêm ngoài phần chi của Nhà nước
để có chất lượng cao hơn sẽ do người học chi trả.
- Các cơ sở giáo dục ngoài công lập
được quyền chủ động xây dựng mức học phí, thông báo công khai mức học phí cho
từng năm học (khối mầm non và phổ thông) hoặc cả khóa học (khối đào tạo nghề
nghiệp) đồng thời thực hiện 3 công khai để nhà nước, người học, gia đình người
học và xã hội tham gia giám sát, đánh giá.
V. CÁC Ý KIẾN
KHÁC NHAU TRONG QUÁ TRÌNH GÓP Ý ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC
1. Về công bằng
xã hội trong việc đóng học phí đối với giáo dục phổ thông và mầm non.
Đối với giáo dục mầm non và phổ thông
thực tế trong các năm qua, phần chi của Nhà nước giữ vai trò quyết định. Tại
các trường công lập, phần đóng góp của người dân qua học phí và chi phí khác
chỉ chiếm 7,9% tổng chi phí đào tạo, phần nhà nước chi chiếm 92,1%. Nếu kể cả
chi của người dân cho giáo dục ở các trường ngoài công lập, thì tổng chi của người
dân chiếm 21,8% tổng chi cho giáo dục ở các trường công lập và ngoài công lập,
phần nhà nước chi chiếm 78,2%. Với mức chi nhà nước cho giáo dục là có hạn bằng
20% ngân sách, đã thuộc vào loại cao của thế giới, thì việc đóng góp của người
dân cho giáo dục từ mầm non tới phổ thông sẽ góp phần tăng chất lượng và quy mô
giáo dục.
Tuy nhiên, việc đóng góp cũng phải
làm sao cho khả thi, nằm trong khả năng chi trả của gia đình, không thành gánh
nặng cho gia đình. Qua nghiên cứu số liệu học phí và thu nhập của hộ gia đình
các nước, Đề án đã cho thấy, tỉ lệ chi cho việc đi học so với thu nhập của hộ
gia đình ở các nước tuy khác nhau, song đều nằm trong khoảng 2% đến 10%, bình
quân từ 4,5% đến 5,7%. Vì vậy, Đề án đề xuất mức chi trả cho việc học so với
thu nhập của hộ gia đình không quá 6% thì việc chi trả đó được coi là khả thi,
không gây gánh nặng tài chính cho gia đình.
Nếu lấy mức học phí mầm non, trung
học cơ sở, trung học phổ thông mà Chính phủ quy định từ năm 1998 và chi phí
khác cho học tập là khoảng 30.000 đồng/tháng/học sinh (để mua sách vở, đồ dùng
học tập, đi lại) thì chi phí cho việc học so với thu nhập của hộ gia đình chiếm
từ 4,8% đến 12%, bình quân khoảng 9%.
Như vậy, việc xác định giới hạn chi
phí cho học tập không vượt quá 6% thu nhập của hộ gia đình trong Đề án vừa phù
hợp với mức bình quân của các nước, vừa dễ dàng chi trả hơn là các mức học phí
tối đa được quy định năm 1998 so sánh với thu nhập hộ dân lúc bấy giờ.
Quan điểm của Đề án về công bằng
xã hội trong trách nhiệm gia đình đóng góp vào chi phí giáo dục cho con em mình
là: gia đình có thu nhập thấp thì đóng góp ít hơn là gia đình có thu nhập cao, nhưng
trong mọi trường hợp, chi phí học tập đều không vượt quá 6% thu nhập và đều
không là gánh nặng tài chính cho gia đình. Có quan điểm khác được đề cập về công
bằng xã hội khi bàn về học phí là: mọi người dân thu nhập thấp hay cao, đều chỉ
đóng học phí như nhau, còn phần rất lớn chi phí học tập cho một học sinh là do
nhà nước chịu. Nhà nước phải bao cấp giáo dục cho người thu nhập thấp và thu
nhập cao như nhau. Đề án không theo điểm này, mà cho rằng, để có nhiều trẻ đi
học được và nâng cao chất lượng giáo dục không nên chỉ trông chờ vào bao cấp
của Nhà nước, mà các hộ dân cần đóng góp (tiền học phí) theo khả năng của mình.
Người thu nhập cao đóng nhiều hơn, người thu nhập thấp không đóng học phí, thậm
chí được nhà nước cấp tiền hàng tháng để đưa con em đi học.
2. Vì sao không
miễn hết học phí cho giáo dục trung học cơ sở, trong khi tiểu học lại được miễn
phí?
Năm 2008, cả nước có 6,27 triệu học
sinh trung học cơ sở, tổng học phí thu được 2.046 tỷ đồng. Chi phí đào tạo ở
trung học cơ sở (chi thường xuyên) khoảng 2,4 triệu đồng/năm/học sinh. Như vậy
nếu miễn hết học phí cho học sinh trung học cơ sở thì sẽ hụt chi giáo dục trung
học cơ sở khoảng 2.046 tỷ đồng, tương ứng với chi phí đào tạo 852.000 học sinh
trung học cơ sở. Tức là nếu miễn hết học phí trung học cơ sở trong điều kiện
ngân sách giáo dục không tăng tương ứng được thì quy mô giáo dục trung học cơ
sở sẽ giảm 852.000 học sinh.
Để giữ vững quy mô và nâng cao từng
bước chất lượng giáo dục trung học cơ sở, chúng tôi đề xuất không miễn phí toàn
bộ học phí cho bậc trung học cơ sở, mà đóng học phí theo khả năng chi trả của
hộ dân, miễn giảm học phí cho hộ chính sách, hộ nghèo.
3. Vì sao không
miễn học phí cho bậc học mầm non, trong khi trẻ lại được khám chữa bệnh miễn
phí?
Năm 2008, có 3,39 triệu học sinh
mầm non. Chi phí giáo dục bình quân cho 1 học sinh mầm non là 2,56 triệu đồng/năm.
Như vậy, nếu miễn học phí bậc mầm non thì cả các em đang ở nhà không đi học sẽ
đi học. Số học sinh mầm non mới sẽ là 6 triệu em. Để đưa số em này đến trường,
Nhà nước phải chi 15.360 tỷ đồng/năm. Trong điều kiện ngân sách giáo dục không
tăng, thì nếu nhà nước chi 15.360 tỷ đồng để phổ cập miễn phí mầm non, thì sẽ
không còn ngân sách cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp
và dạy nghề công lập (năm 2006 ngân sách nhà nước cấp cho các trường này là
9.986 tỷ đồng) và vẫn thiếu 5.374 tỷ đồng nữa. Sẽ phải cắt bớt ngân sách chi
cho trung học phổ thông. Ngân sách chi cho trung học phổ thông năm 2006 là
5.663 tỷ đồng. Tức là nếu cắt giảm 5.374 tỷ đồng của trung học phổ thông thì
gần 95% học sinh trung học phổ thông ở các trường công lập phải nghỉ học.
Như vậy, nếu dùng kinh phí Nhà nước
để phổ cập mầm non miễn phí thì tất cả các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp, trường dạy nghề công lập và hơn 90% các trường trung học phổ thông
công lập phải ngừng hoạt động. Rõ ràng phương án này trong điều kiện hiện nay
sẽ gây thiệt hại cho đất nước.
4. Tỷ lệ học phí
trên chi phí đào tạo thường xuyên dự kiến giai đoạn 2009 – 2014 khoảng từ 30%
đến 50% là quá cao?
Theo kết luận số 20-KL/TW ngày 28
tháng 01 năm 2008 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (khóa
X), thì “Nguồn thu học phí đối với cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp, dạy nghề, đào tạo cao học, nghiên cứu sinh có thể bù đắp chi phí
đào tạo thường xuyên, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ đầu tư”. Như vậy dự kiến
đến năm 2014 học phí đảm bảo khoảng 50% chi phí thường xuyên là còn rất thấp so
với yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X).
5. Đây là đề án
tài chính giáo dục có tính nhân văn cao hay là đề án tăng học phí, không phù hợp
với định hướng xã hội chủ nghĩa?
Trong điều kiện mức ngân sách dành
cho giáo dục là 20% tổng ngân sách quốc gia hàng năm, đã vào loại cao so với
các nước, khó có thể tăng thêm, nhưng do thu nhập đầu người của ta còn rất thấp
so với các nước, nên chi phí toàn xã hội bình quân cho 1 người đi học chỉ bằng
khoảng 1/4 của Thái Lan và Malaysia, 1/8 của Hàn Quốc, 1/11 của Nhật và Pháp,
1/16 của Mỹ, thì yêu cầu vừa tăng quy mô giáo dục và đào tạo ở các cấp học, vừa
tăng chất lượng giáo dục và đào tạo là một mâu thuẫn căn bản, thường xuyên. Khi
tổng nguồn lực của xã hội cho giáo dục và đào tạo là có hạn, thì càng tăng quy
mô, chất lượng sẽ có xu hướng tất yếu là giảm, hoặc đặt yêu cầu chất lượng giáo
dục phải càng cao, thì quy mô giáo dục phải giảm.
Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo
dục 2009 – 2014 chính là nỗ lực sáng tạo của Chính phủ để từng bước giải quyết
mâu thuẫn nói trên.
Giải pháp căn bản của Chính phủ cho
mâu thuẫn trên là: sử dụng kinh phí cho giáo dục và đào tạo có hiệu quả ngày
càng cao hơn và tăng nguồn lực quốc gia cho giáo dục từ ngân sách nhà nước và
từ đóng góp của người dân, nhưng sự đóng góp của người dân phù hợp với khả năng
thu nhập của họ, không là gánh nặng về tài chính.
Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo
dục gồm 8 nội dung thì 7 nội dung là nhằm làm cho việc sử dụng ngân sách và
đóng góp của người dân cho giáo dục có hiệu quả ngày càng cao. 7 loại giải pháp
này cần triển khai ngay mà không phụ thuộc vào mức học phí là bao nhiêu.
Việc chọn yêu cầu tổng chi cho giáo
dục phổ thông và mầm non của hộ gia đình không vượt quá 6% thu nhập của họ,
trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước và thực tế của Việt Nam từ 1998, kèm
theo nó là yêu cầu có tính nguyên tắc là phải hỗ trợ thêm cho các gia đình có
thu nhập rất thấp để con em họ có thể đến trường là giải pháp vừa có tính chất
nhân văn rất cao, vì học phí không bao giờ là gánh nặng tài chính cho gia đình,
vừa góp phần huy động sự đóng góp của xã hội nhiều hơn cho giáo dục.
Khi Nhà nước đã đảm bảo gần 80% chi
phí cho giáo dục phổ thông và mầm non của xã hội, thì việc người dân đóng góp
vào việc học hành của con em mình là hoàn toàn cần thiết, vì điều này góp phần
tăng quy mô và chất lượng giáo dục. Nếu đòi hỏi người có thu nhập cao cũng chỉ
đóng góp như người có thu nhập thấp cho việc học hành của con em mình, còn lại
là nhà nước phải lo; thì đây là cách làm nặng bao cấp, không bình đẳng, dẫn đến
hiệu quả là quy mô và chất lượng giáo dục bị giảm.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, học
phí để đào tạo một kỹ sư, cử nhân toàn khóa chỉ khoảng 7,2 đến 9 triệu đồng/năm
(tương đương 430 đến 530 USD), trong khi thu nhập của 5 năm đầu tiên ra trường
bình quân không dưới 48 triệu đồng, thì mức học phí đó vừa quá thấp để có thể
góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo, vừa quá thấp so với thu nhập của người tốt
nghiệp. Học phí 4 - 5 năm để trở thành 1 cử nhân, kỹ sư chỉ bằng hoặc thấp hơn
thu nhập của 1 năm đầu tiên đi làm sau tốt nghiệp.
Để khắc phục chi phí đào tạo quá
thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo, Đề án đã đề xuất việc tăng học
phí đào tạo theo lộ trình và kèm theo đó là chương trình của Chính phủ cho học
sinh học nghề, sinh viên hộ nghèo, cận nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn được
vay để trả học phí và hỗ trợ chi trả các chi phí khác của việc học tập. Cả nước
hiện nay có 1,7 triệu sinh viên đại học, cao đẳng, thì đã có 800.000 sinh viên
được vay để học, tương đương tỉ lệ 47%, trong khi tỉ lệ hộ nghèo cả nước không
quá 15%. Chúng ta đang thực hiện một yêu cầu hết sức nhân văn: không một sinh
viên nào đỗ đại học, cao đẳng, trung cấp, đào tạo nghề mà phải bỏ học vì không
có điều kiện đóng học phí. Vì vậy, cần khẳng định, cách xác định học phí phổ
thông, mầm non và đào tạo nghề nghiệp và các giải pháp hỗ trợ học tập của Đề án
thể hiện tính nhân văn cao, là biểu hiện của định hướng chủ nghĩa xã hội.
VI. NHỮNG VẤN
ĐỀ XIN Ý KIẾN CỦA QUỐC HỘI
Chính phủ xin ý kiến Quốc hội về
các nội dung cơ bản của Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 –
2014 trong đó trọng tâm là 2 mục tiêu tổng quát và 8 nội dung đổi mới cơ chế tài
chính và lộ trình thực hiện các nội dung này như đã trình bày trên đây. Sau khi
được chấp thuận của Quốc hội, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định về cơ chế tài chính
giáo dục giai đoạn 2009 – 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trên đây là nội dung cơ bản của Đề
án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 – 2014, Chính phủ kính trình
Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Các Bộ: GD&ĐT, TC, KH& ĐT, LĐTB&XH, NV, TP;
- VPCP: BTCN, các PCN, các Vụ: KTTH, ĐP, TH;
- Lưu: Văn thư, KGVX (3)
|
TM.
CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Thiện Nhân
|
[1]
Chỉ số giá cả tiêu dùng năm 2001 so với năm 2000
là 1,008; năm 2002 so với 2001 là 1,04; năm 2003 so với 2002 là 1,03; năm 2004 so
với 2003 là 1,095; năm 2005 so với 2004 là 1,084; năm 2006 so với 2005 là
1,066; năm 2007 so với 2006 là 1,126; năm 2008 so với 2007 là 1,199. Năm 2008
so 2000 là 1,84.