BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
45/KH-BGDĐT
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 01 năm 2010
|
KẾ HOẠCH
TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA
LUẬT GIÁO DỤC
Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật giáo dục được Quốc hội khóa XI, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 25
tháng 11 năm 2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2010.
Thực hiện Điểm 4 Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân; Khoản 7, Mục II Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 17 tháng 12
năm 2007 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09
tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
giáo dục (sau đây gọi tắt là Luật) với các nội dung cụ thể như sau:
I. MỤC
ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Phổ biến các quy định của Luật
đến toàn thể cán bộ quản lý, công chức, viên chức, nhà giáo, người lao động,
người học trong ngành giáo dục.
2. Phối hợp tuyên truyền, phổ biến
nội dung của Luật đến các cơ quan, tổ chức liên quan, phụ huynh học sinh và cán
bộ, nhân dân.
3. Việc tuyên truyền, phổ biến
Luật cần tiến hành một cách đồng bộ với nội dung, hình thức phù hợp với từng đối
tượng; bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả. Kết hợp việc phổ biến Luật với việc
xây dựng kế hoạch triển khai thi hành Luật, lồng ghép nội dung giới thiệu Luật
với việc giới thiệu Luật giáo dục 2005.
II. THỜI
GIAN, ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG CỤ THỂ
Việc tuyên truyền, phổ biến Luật
được thực hiện trong năm học 2009-2010 và năm học 2010-2011. Từ nay đến cuối
năm học 2009-2010 cần triển khai giới thiệu tổng thể về Luật và giới thiệu sâu
một số nội dung với các đối tượng như sau:
1. Đối với cán bộ
quản lý, công chức, viên chức, người lao động trong ngành giáo dục
Tập trung vào các nội dung cơ bản
như: phổ cập giáo dục, chương trình giáo dục; đầu tư cho giáo dục, sách giáo
khoa, quản lý nhà nước về giáo dục, thành lập, đình chỉ, giải thể nhà trường, hợp
tác quốc tế về giáo dục, kiểm định chất lượng giáo dục.
Thời gian tối thiểu là một ngày.
2. Đối với nhà
giáo
Tập trung vào các nội dung cơ bản
như: nhiệm vụ và quyền của nhà giáo, tiêu chuẩn nhà giáo, vấn đề đào tạo và bồi
dưỡng nhà giáo, chính sách đối với nhà giáo, chương trình giáo dục, các quy định
về nhà trường; các quy định về người học; mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình
và xã hội.
Thời gian tối thiểu là một ngày.
3. Đối với người
học
Tập trung vào các quy định về mục
tiêu giáo dục; quyền và nghĩa vụ học tập của công dân; yêu cầu về nội dung và
phương pháp giáo dục phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo; nhiệm vụ và
quyền của người học; chính sách đối với người học; mối quan hệ giữa nhà trường,
gia đình và xã hội.
Thời gian tối thiểu là một buổi.
4. Đối với cán bộ,
nhân dân
Tập trung làm rõ những điểm sửa
đổi, bổ sung của Luật so với Luật giáo dục 2005, chú ý các quy định về phổ cập
giáo dục, đầu tư cho giáo dục, quản lý nhà nước về giáo dục, xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục, thành lập, đình chỉ, giải thể nhà trường, học phí và lệ phí tuyển
sinh.
III. HÌNH
THỨC, BIỆN PHÁP TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN
1. Tổ chức hội nghị triển khai
Luật giáo dục
- Tổ chức các Hội nghị triển
khai thực hiện Luật cho cán bộ chủ chốt của các sở giáo dục và đào tạo, các đại
học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp; Hội nghị phổ
biến Luật giáo dục cho các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán ở Việt Nam; Hội nghị
phổ biến Luật Giáo dục cho các lãnh đạo, cán bộ công chức cơ quan Bộ và các bộ,
ngành liên quan;
- Các sở giáo dục và đào tạo,
các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp tổ chức
hội nghị giới thiệu Luật cho cán bộ, nhà giáo, người lao động, người học thuộc
quyền.
2. Tuyên truyền thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng
Giới thiệu toàn văn Luật, các
chuyên đề bình luận khoa học về Luật, các chương trình tọa đàm theo chủ đề và
theo các đối tượng trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương, địa
phương, cơ sở.
3. Phát hành tài liệu
Biên soạn, phát hành các tài liệu
tuyên truyền, phổ biến Luật như các cuốn tài liệu giới thiệu Luật, sách hỏi đáp
về Luật, các tờ rơi, tờ gấp phù hợp với từng đối tượng khác nhau.
4. Bổ sung các chương trình giáo
dục
Rà soát, bổ sung nội dung Luật
và Luật giáo dục 2005 trong các chương trình giáo dục ở các cấp học, lớp học,
trình độ đào tạo, nhất là các chương trình đào tạo sư phạm, bồi dưỡng cán bộ quản
lý giáo dục.
IV. NGUỒN
TÀI LIỆU, KINH PHÍ
1. Nguồn tài
liệu
- Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn (gửi
kèm theo).
- Tài liệu giới thiệu Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật giáo dục do Nhà xuất bản Giáo dục và các nhà xuất
bản khác phát hành.
- Toàn văn Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật giáo dục trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục đại học, các sở giáo dục và đào tạo.
2. Kinh phí
Việc lập dự toán kinh phí cho hoạt
động tuyên truyền, phổ biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục
được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 63/2005/TT-BTC ngày 05 tháng 8 năm
2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
V. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Các vụ, cục,
Thanh tra, Văn phòng và đơn vị trực thuộc Bộ
a) Tổ chức nghiên cứu, trao đổi,
học tập Luật và Luật giáo dục 2005 trong toàn thể cán bộ, công chức, người lao
động của cơ quan, đơn vị kết hợp với việc triển khai công tác soạn thảo văn bản
hướng dẫn thi hành Luật.
b) Quán triệt các nội dung đã được
sửa đổi trong Luật, đảm bảo việc triển khai thực hiện công việc chuyên môn phù
hợp với các quy định của Luật.
c) Thời gian hoàn thành trong
Quý 1/2010.
2. Các sở giáo
dục và đào tạo
a) Tổ chức quán triệt các nội
dung của Luật và Luật giáo dục 2005 trong đội ngũ cán bộ quản lý của sở giáo dục
và đào tạo, phòng giáo dục và đào tạo và cơ sở giáo dục trực thuộc.
b) Đưa toàn văn Luật, Luật giáo
dục 2005 và Đề cương giới thiệu Luật lên Website của sở, phòng và các cơ sở
giáo dục trực thuộc.
c) Chỉ đạo các cơ sở giáo dục tổ
chức tuyên truyền, phổ biến Luật và Luật giáo dục 2005 cho đội ngũ nhà giáo,
cán bộ, công chức, người lao động, học sinh, sinh viên.
d) Thời gian hoàn thành trong
Quý 2/2010
3. Các đại học,
học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp
a) Tổ chức quán triệt các nội
dung của Luật và Luật giáo dục 2005 theo ba khối: cán bộ quản lý, nhà giáo và
người học.
b) Đưa toàn văn Luật, Luật giáo
dục 2005 và Đề cương giới thiệu Luật lên Website của trường.
c) Thời gian hoàn thành trong
Quý 2/2010.
4. Ngoài các
nhiệm vụ chung trên đây, Bộ trưởng giao cho các đơn vị một số nhiệm vụ cụ thể:
a) Vụ pháp chế
- Biên soạn các đề cương, tài liệu
phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến Luật và Luật giáo dục 2005 phù hợp với
từng đối tượng để gửi đến các sở giáo dục và đào tạo, các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp và các đơn vị trực thuộc Bộ (Tháng 1/2010).
- Chủ trì, phối hợp với các đơn
vị có liên quan tổ chức giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
và Luật giáo dục 2005 cho cán bộ, công chức cơ quan Bộ; tổ chức các hội nghị
triển khai, giới thiệu Luật cho các tổ chức quốc tế, các cơ quan đại diện ngoại
giao (Quý 1/2010).
- Tổ chức tập huấn cho báo cáo
viên pháp luật về kỹ năng truyên truyền, phổ biến Luật và Luật giáo dục 2005
cho cán bộ pháp chế, báo cáo viên pháp luật của các sở giáo dục và đào tạo, các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp (Quý 1/2010).
- Phối hợp với các cơ quan của Bộ
Tư pháp giới thiệu Luật trong cán bộ, nhân dân (Quý 1 và Quý 2/2010).
b) Văn phòng
- Phối hợp với Vụ Pháp chế tổ chức
tọa đàm, giới thiệu Luật, Luật giáo dục 2005 với các cơ quan thông tin đại
chúng (Quý 1/2010).
- Chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp
chế tham mưu, chỉ đạo các báo, tạp chí trong ngành và các báo, đài khác tuyên
truyền, phổ biến Luật (bắt đầu từ Quý 1/2010).
c) Vụ Công tác học sinh, sinh
viên
- Hướng dẫn các trường đưa nội
dung Luật và Luật giáo dục 2005 vào tuần sinh hoạt công dân, học sinh - sinh
viên đầu năm, đầu khóa, cuối khóa học.
- Đưa nội dung Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật và Luật giáo dục 2005 vào chương trình tập huấn chuyên
môn năm học 2010-2011.
- Phối hợp với các tổ chức Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên lồng ghép các nội dung của Luật và Luật giáo dục 2005
vào các hoạt động ngoại khóa trong học sinh, sinh viên.
d) Vụ Tổ chức cán bộ
Phối hợp bổ sung nội dung Luật
và Luật giáo dục 2005 vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
và các kỳ thi tuyển dụng công chức.
đ) Các vụ: Giáo dục đại học,
Giáo dục Trung học, Giáo dục Tiểu học, Giáo dục Mầm non, Giáo dục Chuyên nghiệp,
Giáo dục Thường xuyên
- Đưa nội dung Luật và Luật giáo
dục 2005 vào các chương trình tập huấn hè và chương trình bồi dưỡng giảng viên,
giáo viên với nội dung thích hợp.
- Phối hợp với Viện khoa học
giáo dục Việt Nam rà soát nội dung giảng dạy các môn học liên quan để bổ sung,
cập nhật nội dung mới của Luật và Luật giáo dục 2005.
e) Vụ Hợp tác quốc tế
Chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế
và các cơ quan liên quan tổ chức giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật và Luật giáo dục 2005 cho các tổ chức quốc tế tại Việt Nam và ra nước
ngoài.
g) Vụ Kế hoạch - Tài chính
Phối hợp với Vụ Pháp chế, Văn
phòng lập kế hoạch kinh phí phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến Luật và Luật
giáo dục 2005 của các đơn vị thuộc Bộ.
h) Cục Công nghệ thông tin
Đưa toàn văn Luật, Luật giáo dục
2005 và Đề cương giới thiệu Luật lên Website Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chủ trì,
phối hợp với Vụ Pháp chế tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật trên Website Bộ.
i) Báo Giáo dục và Thời đại, Tạp
chí Giáo dục
Ra số chuyên đề về Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật giáo dục và mở chuyên mục phổ biến, giáo dục pháp
luật trong đó có nội dung giới thiệu các quy định cụ thể của Luật và Luật giáo
dục 2005.
k) Nhà xuất bản Giáo dục
Ưu tiên xuất bản các tài liệu phổ
biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật và Luật giáo dục 2005 để phục vụ
nhu cầu của các cơ sở giáo dục và cán bộ, nhân dân.
Giám đốc sở giáo dục và đào tạo,
giám đốc đại học, học viện, hiệu trưởng trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ căn cứ Kế hoạch này phối hợp
với Ban Chấp hành công đoàn cùng cấp, các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng kế
hoạch cụ thể và tổ chức triển khai việc tuyên truyền, phổ biến Luật và Luật
giáo dục 2005 cho cán bộ, công chức, người lao động, người học trong đơn vị. Việc
phổ biến, tuyên truyền Luật là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của năm học
2009-2010 và năm học 2010-2011.
Đề nghị Công đoàn Giáo dục Việt
Nam chỉ đạo các cấp công đoàn phối hợp chặt chẽ với thủ trưởng đơn vị cùng cấp
triển khai tuyên truyền, phổ biến Luật có hiệu quả.
Vụ Pháp chế giúp Bộ trưởng hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch này.
Nơi nhận:
- Ủỷ ban thường vụ Quốc hội (để b/c);
- Uỷ ban VHGDTTN&NĐ của Quốc hội (để b/c);
- Văn phòng Chính phủ (để b/c);
- Bộ trưởng (để b/c);
- Các Thứ trưởng (để p/h);
- Bộ Tư pháp (để b/c);
- Hội đồng PBCTPBGDPL của CP (để b/c);
- Công đoàn Giáo dục VN;
- Các sở giáo dục và đào tạo;
- Các ĐH, HV; trường ĐH, CĐ, THCN;
- Hội đồng PBGDPL của Bộ GD&ĐT;
- Các Vụ, Cục, TTr, VP;
- Viện KHGDVN, NXB Giáo dục, Báo Giáo dục và Thời đại; Website Bộ;
- Lưu VT, PC.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Trần Quang Quý
|
ĐỀ CƯƠNG
GIỚI THIỆU LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁO DỤC
(Ban hành kèm theo Kế hoạch số 45/KH-BGDĐT ngày 29/01/2010)
I. NHỮNG
VẤN ĐỀ CHUNG
1. Sự cần
thiết sửa đổi, bổ sung Luật giáo dục
Luật giáo dục được Quốc hội ban
hành năm 2005 (thay thế Luật giáo dục năm 1998) và có hiệu lực thi hành từ 01
tháng 01 năm 2006 đã tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục xây dựng và phát triển nền
giáo dục nước nhà trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luật đã tạo được
bước tiến quan trọng, tháo gỡ được nhiều vướng mắc trong hoạt động giáo dục.
Qua 3 năm thực hiện, Luật đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao
trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, góp phần đào tạo nhân tài cho đất
nước. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật đã nảy sinh một số
điểm hạn chế, bất cập, một số quy định của Luật chưa đi vào cuộc sống. Một số
điểm chưa phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục,
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục, phát huy tốt hơn hợp tác quốc tế
về giáo dục cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Một số nội dung cần sửa đổi, bổ
sung cho rõ ràng hơn để dễ hướng dẫn, dễ thực hiện. Những sửa đổi, bổ sung Luật
giáo dục nhằm tạo cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, thực hiện chế độ
chính sách đối với người học, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh
mẽ hơn.
Ngày 15 tháng 4 năm 2009, Bộ
Chính trị có Thông báo số 242-TB/TW kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, phương hướng phát triển giáo dục đến
năm 2020. Các quan điểm chỉ đạo quan trọng này cần được thể chế thành các nội
dung pháp luật. Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Quốc hội khoá XII kỳ họp thứ 5 thông
qua Nghị quyết số 35/2009/NQ-QH12 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ
chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đến năm học
2014-2015, một số nội dung của Nghị quyết cần được thể chế trong dự án Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật.
Với những lý do nêu trên, việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục là cần thiết.
2. Quan điểm,
nguyên tắc sửa đổi, bổ sung
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật giáo dục được thực hiện theo các quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc sau:
a) Đường lối, quan điểm của Đảng
và các chủ trương, chính sách về giáo dục phải được quán triệt trong quá trình
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục. Đặc biệt là các quan điểm về
giáo dục đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá X, Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Thông báo số 242-TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009
kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá
VIII, phương hướng phát triển giáo dục đến năm 2020.
b) Việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật giáo dục phải xuất phát từ những đòi hỏi khách quan, lựa chọn những
nội dung thực sự cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề thực sự
bức xúc trong thực tiễn, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức
và hoạt động giáo dục và trong công tác quản lý giáo dục, góp phần đổi mới giáo
dục và thực hiện "phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu".
c) Các quy định của Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật giáo dục phải phù hợp, thống nhất, đồng bộ với quy
định của Hiến pháp, các bộ luật và luật hiện hành; phù hợp với các cam kết và
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên.
3. Quá
trình soạn thảo, thông qua
Ngày 15 tháng 11 năm 2008, Quốc
hội có Nghị quyết số 27/2008/QH12 về Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm
2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ 12 trong đó có
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục.
Ngày 09 tháng 02 năm 2009, Thủ
tướng Chính phủ có Quyết định số 161/QĐ-TTg phân công Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ
trì xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục.
Ngày 23 tháng 02 năm 2009, Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo thành lập ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật giáo dục do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm trưởng ban.
Ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật giáo dục đã tiến hành đánh giá tình hình và xây dựng
báo cáo tổng kết 3 năm thi hành Luật giáo dục, tổ chức nghiên cứu một số chuyên
đề chuyên sâu; sưu tầm, nghiên cứu, hệ thống hoá các văn bản của Đảng, Nhà nước,
các quy định liên quan đến giáo dục; tổ chức hội thảo, tọa đàm, khảo sát lấy ý
kiến về những nội dung cần sửa đổi, bổ sung; tiếp thu tổng hợp ý kiến góp ý,
xây dựng dự án Luật, trên cơ sở đó xây dựng dự thảo Luật gửi xin ý kiến các bộ,
ngành và gửi thẩm định theo quy trình của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật.
Ngày 30 tháng 3 năm 2009, Ban soạn
thảo chỉnh sửa dự án Luật, giải trình việc tiếp thu ý kiến góp ý và gửi Bộ Tư
pháp thẩm định. Sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Ban soạn thảo
nghiên cứu, tiếp thu và giải trình việc tiếp thu ý kiến thẩm định dự án Luật.
Ngày 05 tháng 8 năm 2009, phiên
họp thường kỳ tháng 7 Chính phủ đã thảo luận và thông qua Dự án Luật để trình Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội.
Ngày 15 tháng 8 năm 2009, phiên
họp thứ 22 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XII đã thảo luận, cho ý kiến về Dự
án Luật và Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục Thanh niên, Thiếu
niên và Nhi đồng của Quốc hội. Ngày 21 tháng 9 năm 2009, Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội có Báo cáo số 845/VH-GD-TTN thẩm
tra Dự án Luật. Ngày 30 tháng 9 năm 2009, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội có Báo
cáo số 558/BC-HĐDT12 phối hợp thẩm tra về Dự án Luật.
Ngày 03 tháng 10 năm 2009, phiên
họp thứ 24 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XII đã thảo luận, cho ý kiến về Dự
án Luật và Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên
và Nhi đồng của Quốc hội. Tiếp thu ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá
XII và Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và
Nhi đồng của Quốc hội, Báo cáo phối hợp thẩm tra của Hội đồng Dân tộc của Quốc
hội, Ban soạn thảo đã chỉnh sửa, bổ sung Dự án Luật trình Quốc hội xem xét.
Trong quá trình soạn thảo, Ban
soạn thảo đã tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị, nghiên cứu Luật giáo dục của một
số quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới, toạ đàm và nghiên cứu nhiều
chuyên đề chuyên sâu như thành lập trường, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ,
bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; tổ chức điều tra xã hội học và lấy phiếu khảo sát,
điều tra sâu một số lĩnh vực liên quan tới một số điều sửa đổi, bổ sung trong
Luật; tổ chức kiểm tra việc thực hiện Luật giáo dục năm 2005 tại một số tỉnh,
thành phố, một số cơ sở giáo dục và sở giáo dục và đào tạo; lấy ý kiến các sở
giáo dục và đào tạo, các cơ sở giáo dục; lấy ý kiến các bộ, ngành và đã 4 lần
đưa Dự án Luật lên Website của Bộ Giáo dục và Đào tạo để lấy ý kiến rộng rãi của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo
dục.
Ngày 30 tháng 10 năm 2009, Chính
phủ đã trình Dự thảo Luật trước Quốc hội. Trên cơ sở góp ý của Quốc hội, các cơ
quan liên quan đã tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật.
Ngày 24 tháng 11 năm 2009, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội có Báo cáo số 299/BC-UBTVQH12 giải trình tiếp thu, chỉnh
lý Dự thảo Luật và ngày 25 tháng 11 năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật giáo dục.
II. NỘI
DUNG LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁO DỤC
1. Bố cục
chung của Luật sửa đổi, bổ sung
1.1 Luật gồm có hai điều
- Điều 1 gồm 31 khoản quy định về
các nội dung sửa đổi, bổ sung Luật giáo dục cụ thể như sau:
+ Sửa đổi Khoản 2
Điều 6 (về chương trình giáo dục)
+ Sửa đổi Khoản 1
Điều 11 (về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi)
+ Sửa đổi Điều 13
(Đầu tư cho giáo dục)
+ Sửa đổi Khoản 3
Điều 29 (về chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa)
+ Sửa đổi Khoản 2
Điều 35 (về giáo trình giáo dục nghề nghiệp)
+ Sửa đổi Khoản
4 Điều 38 (về thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ)
+ Bổ sung khoản 5 Điều
38 (về việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng chuyên sâu
cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc biệt)
+ Sửa đổi Khoản 2
Điều 41 (về giáo trình giáo dục đại học)
+ Sửa đổi Điểm b
khoản 1 Điều 42 (về tên gọi trường đại học)
+ Sửa đổi Khoản
2 Điều 42 (về điều kiện đào tạo trình độ tiến sỹ)
+ Sửa đổi Khoản
6 Điều 43 (về văn bằng công nhận trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng cho
những người được đào tạo chuyên sâu sau khi tốt nghiệp đại học ở một số ngành
chuyên môn đặc biệt)
+ Bổ sung điểm c khoản 1 Điều 46 (về trung tâm ngoại ngữ, tin học)
+ Sửa đổi Khoản
3 Điều 46 (về trung tâm ngoại ngữ, tin học)
+ Sửa đổi Khoản
2 Điều 48 (về thành lập trường)
+ Sửa đổi Điều
49 (về trường của cơ quan nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân)
+ Sửa đổi Điều
50 (Điều kiện thành lập nhà trường và điều kiện để được cho phép hoạt động
giáo dục)
+ Bổ sung Điều 50a (về đình chỉ
hoạt động giáo dục và Điều 50b về giải thể nhà trường)
+ Sửa đổi Điều
51 (về thẩm quyền, thủ tục thành lập hoặc cho phép thành lập; cho phép hoạt
động giáo dục, đình chỉ hoạt động giáo dục; sáp nhập, chia, tách, giải thể nhà
trường)
+ Sửa đổi Khoản
1 Điều 58 (về công khai mục tiêu, chương trình giáo dục)
+ Sửa đổi Điểm b
khoản 1 Điều 69 (về trung tâm ngoại ngữ, tin học)
+ Sửa đổi Điểm c
khoản 1 Điều 69 (về đào tạo trình độ tiến sĩ, trình độ thạc sĩ của viện
nghiên cứu khoa học)
+ Sửa đổi Khoản
2 Điều 69 (về vấn đề ký hợp đồng đào tạo trình độ thạc sĩ của Viện nghiên cứu
khoa học)
+ Sửa đổi Khoản
3 Điều 70 (về tên gọi nhà giáo ở cao đẳng nghề)
+ Sửa đổi Điều
74 (về thỉnh giảng)
+ Sửa đổi Điều
78 (về cơ sở giáo dục thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục)
+ Sửa đổi Điều
81 (về tiền lương)
+ Sửa đổi Khoản
4 Điều 100 (về trách nhiệm quan lý nhà nước về giáo dục)
+ Sửa đổi Khoản
2 Điều 101 (về học phí, lệ phí)
+ Bổ sung khoản 4 Điều
108 (về việc công dân Việt Nam ra nước ngoài, việc hợp tác về giáo dục với
tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài)
+ Sửa đổi Điều
109 (về khuyến khích hợp tác về giáo dục với Việt Nam)
+ Bổ sung Mục 3a Chương
VII (về kiểm định chất lượng giáo dục)
- Điều 2 quy định hiệu lực thi
hành của Luật từ ngày 01 tháng 7 năm 2010.
1.2 So với bố cục của Luật giáo
dục 2005
- Luật bổ sung 5 điều mới.
- Sửa đổi, bổ sung liên quan đến
24 điều (trên tổng số 120 điều).
2. Một số nội
dung sửa đổi, bổ sung cụ thể
2.1 Về chương
trình giáo dục:
Khoản 2 Điều 6 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Chương trình giáo dục phải bảo
đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý
và kế thừa giữa các cấp học và trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân luồng,
liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức
giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục
toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.”
Sửa đổi, bổ sung này nhằm triển
khai thực hiện quy định về chương trình giáo dục với chất lượng cao hơn trong
thực tế, bảo đảm chương trình giáo dục phải hợp lý và phù hợp thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế, tạo cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện.
2.2 Về phổ cập
giáo dục
Khoản 1 Điều 11 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Phổ cập giáo dục mầm non cho
trẻ em năm tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện
phổ cập giáo dục trong cả nước.”
Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Quốc hội
khoá XII kỳ họp thứ 5 thông qua Nghị quyết số 35/2009/NQ-QH12 về chủ trương, định
hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học
2010-2011 đến năm học 2014-2015 trong đó xác định “phổ cập giáo dục mầm non 5
tuổi”.
Để có cơ sở triển khai giải pháp
tập trung cho trẻ 5 tuổi có điều kiện chuẩn bị bước vào học lớp 1, Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật giáo dục đã bổ sung quy định “phổ cập giáo dục mầm
non 5 tuổi”. Đây là yêu cầu có tính pháp lý cao, cần có sự ổn định và thực hiện
lâu dài, huy động nguồn lực lớn các lực lượng xã hội tham gia, cần được xác định
rõ ngay trong Luật này. Quy định phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi thể hiện tính
ưu việt của chế độ ta và khẳng định thành tựu Quốc gia trong việc giáo dục và
chăm sóc trẻ em. Theo thống kê, hiện nay tỷ lệ trẻ em 5 tuổi đi học bình quân cả
nước là 90%, tuy nhiên, nhiều nơi mới đáp ứng được học một buổi một ngày và nhiều
tỉnh có tỷ lệ thấp hơn đáng kể. Để đảm bảo tính khả thi của Luật sau khi được
ban hành, Chính phủ đã giao Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án để triển khai
thực hiện quy định này. Quy định như trên của Luật sẽ tạo cơ sở pháp lý để Nhà
nước tiếp tục tăng đầu tư có hiệu quả cho nâng cao chất lượng giáo dục mầm non
nói chung và trẻ em 5 tuổi nói riêng.
2.3 Về sách
giáo khoa
Khoản 3 Điều 29 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông; duyệt và quyết định chọn sách
giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở
các cơ sở giáo dục phổ thông, bao gồm cả sách giáo khoa bằng chữ nổi, bằng tiếng
dân tộc và sách giáo khoa cho học sinh trường chuyên biệt, trên cơ sở thẩm định
của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo
khoa; quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa chương trình giáo dục
phổ thông và sách giáo khoa; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động,
tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu thành viên của Hội đồng quốc gia thẩm định
chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo chịu trách nhiệm về chất lượng chương trình giáo dục phổ thông
và sách giáo khoa.”
Quy định trên đây nhằm góp phần
bảo đảm chất lượng của sách giáo khoa và quản lý tốt hơn việc biên soạn, ban
hành sách giáo khoa. Nhiệm vụ của các trường chuyên biệt như trường năng khiếu,
trường giáo dưỡng, trường dành cho người tàn tật, khuyết tật, trường dự bị đại
học có điểm khác so với cơ sở giáo dục phổ thông nói chung, do đó sách giáo
khoa dùng để giảng dạy trong các trường chuyên biệt cần có quy định phù hợp với
người học tại các cơ sở giáo dục này.
2.4 Về giáo
trình giáo dục nghề nghiệp và giáo trình giáo dục đại học:
- Khoản 2 Điều
35 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Giáo trình giáo dục nghề
nghiệp cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong
chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của
giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục nghề nghiệp.
Hiệu trưởng nhà trường, Giám đốc
trung tâm dạy nghề tổ chức biên soạn hoặc tổ chức lựa chọn; duyệt giáo trình
giáo dục nghề nghiệp để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức
trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định
giáo trình do Hiệu trưởng nhà trường, Giám đốc trung tâm dạy nghề thành lập để
bảo đảm có đủ giáo trình giảng dạy, học tập.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề theo thẩm quyền quy định việc
biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình giáo dục nghề nghiệp;
quy định giáo trình sử dụng chung, tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình sử dụng
chung cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.”
Khoản 2 Điều 41 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Giáo trình giáo dục đại học
cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình
giáo dục đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo của giáo dục đại học,
đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục đại học.
Hiệu trưởng trường cao đẳng, trường
đại học tổ chức biên soạn hoặc tổ chức lựa chọn; duyệt giáo trình giáo dục đại
học để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức trong trường trên cơ
sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng thành lập để bảo
đảm có đủ giáo trình giảng dạy, học tập.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử
dụng giáo trình giáo dục đại học; quy định giáo trình sử dụng chung, tổ chức
biên soạn và duyệt giáo trình sử dụng chung cho các trường cao đẳng và các trường
đại học.”
Luật sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 35 và khoản 2 Điều 41 Luật giáo dục theo hướng:
bên cạnh việc tổ chức biên soạn giáo trình, thủ trưởng cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
cơ sở giáo dục đại học có quyền tổ chức lựa chọn giáo trình để sử dụng làm tài
liệu giảng dạy, học tập chính thức; bổ sung trách nhiệm phải “bảo đảm có đủ
giáo trình để giảng dạy, học tập” của thủ trưởng cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bổ
sung quy định về việc tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình sử dụng chung cho
cơ sở giáo dục nghề nghiệp tại khoản 2 Điều 35 và khoản 2 Điều
41.
Việc sửa đổi Luật theo hướng
trên tạo cơ sở pháp lý để các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp
có thể lựa chọn giáo trình của cơ sở giáo dục khác để sử dụng tại cơ sở giáo dục
mình; các cơ sở giáo dục cùng đào tạo một chuyên ngành với trình độ giống nhau
có thể cùng phối hợp biên soạn giáo trình, tránh lãng phí thời gian, tiền của;
khắc phục tình trạng thiếu giáo trình trong giảng dạy, học tập.
2.5 Về thời
gian đào tạo trình độ tiến sĩ:
Khoản 4 Điều 38
Luật giáo dục hiện hành quy định:
“4. Đào tạo trình độ tiến sĩ được
thực hiện trong bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến
ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian
đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Thủ tướng Chính phủ quy định cụ
thể việc đào tạo trình độ tương đương với trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ ở
một số ngành chuyên môn đặc biệt.”.
Khoản 4 Điều 38
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“4. Đào tạo trình độ tiến sĩ được
thực hiện trong bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến
ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian
đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài hoặc rút ngắn theo quy định của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nghiên cứu sinh không có điều kiện
theo học tập trung liên tục và được cơ sở giáo dục cho phép vẫn phải có đủ lượng
thời gian học tập trung theo quy định tại khoản này để hoàn thành chương trình
đào tạo trình độ tiến sĩ, trong đó có ít nhất một năm theo học tập trung liên tục.”
Luật sửa đổi, bổ sung quy định về
thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ tại khoản 4 Điều 38 theo
hướng: quy định thời gian đào tạo tiến sĩ có thể được “kéo dài” và “rút ngắn”
trong trường hợp đặc biệt và giao Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định cụ
thể về việc kéo dài hoặc rút ngắn thời gian đào tạo. Quy định này ràng buộc
trách nhiệm không chỉ nghiên cứu sinh mà giảng viên hướng dẫn và cơ sở đào tạo
phải đầu tư thích đáng về thời gian, công sức, trí tuệ cho việc học tập và
nghiên cứu, tham gia các hoạt động khoa học cần thiết trong và ngoài nước để đạt
tới trình độ tiến sĩ. Đa số cơ sở giáo dục đại học được hỏi ý kiến về thời gian
đào tạo trình độ tiến sĩ quy định tại khoản 4 Điều 38 đều đồng
ý với việc sửa đổi, bổ sung thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ như Dự án Luật.
2.6 Về cơ sở
giáo dục đại học:
Điểm b khoản 1
Điều 42 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“b) Đại học, trường đại học, học
viện (gọi chung là trường đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học;
đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo cho phép.
Viện nghiên cứu khoa học đào
tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc
sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép”.
Sửa đổi này xuất phát từ thực tế
hiện nay trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, ngoài các cơ sở giáo dục được
quy định tại khoản 1 Điều 42 của Luật giáo dục hiện hành
còn có một số học viện; Đại học Quốc gia và Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại
học Đà Nẵng (gọi chung là đại học), đây là các đại học có thành viên là các trường
đại học. Để Luật hóa thực tế tồn tại các cơ sở giáo dục đại học này, Luật đã bổ
sung các loại trường đại học gồm: đại học, trường đại học, học viện vào điểm b khoản 1 Điều 42.
2.7 Thẩm quyền
giao nhiệm vụ đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và điều kiện để trường đại học,
viện nghiên cứu khoa học được đào tạo trình độ tiến sĩ:
- Thẩm quyền giao nhiệm vụ đào tạo
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ:
Để thống nhất với nội dung sửa đổi
điểm b khoản 1 Điều 42 về thẩm quyền giao nhiệm vụ đào tạo
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; quy định tại điểm c khoản 1 Điều 69 được
sửa đổi thành “Viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ, phối
hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ”; khoản 2 Điều
69 được sửa đổi thành "Viện nghiên cứu khoa học, khi được Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo cho phép phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc
sĩ có trách nhiệm ký hợp đồng với trường đại học để tổ chức đào tạo". Đồng
thời để nhấn mạnh việc đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ của trường đại học, viện
nghiên cứu khoa học phải đáp ứng các điều kiện theo quy định, Dự án Luật sửa đổi
từ “giao” thành từ “cho phép” tại các quy định nêu trên.
- Điều kiện để trường đại học,
viện nghiên cứu khoa học được đào tạo trình độ tiến sĩ:
Khoản 2 Điều 42 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Điều kiện để trường đại học,
viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ:
a) Có đội ngũ giáo sư, phó giáo
sư, tiến sĩ đủ số lượng, có khả năng xây dựng, thực hiện chương trình đào tạo
và tổ chức hội đồng đánh giá luận án;
b) Có cơ sở vật chất, trang thiết
bị bảo đảm đáp ứng yêu cầu đào tạo trình độ tiến sĩ;
c) Có kinh nghiệm trong công tác
nghiên cứu khoa học; đã thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu thuộc đề tài khoa học
trong các chương trình khoa học cấp nhà nước hoặc thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học có chất lượng cao được công bố trong nước và ngoài nước; có kinh
nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng những người làm công tác nghiên cứu khoa học”.
Trong thực tế, các trường đại học,
viện nghiên cứu khoa học không chỉ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu thuộc đề tài
khoa học trong các chương trình khoa học cấp nhà nước mà còn thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học thuộc đề tài nghiên cứu khoa học khác, do đó Luật bổ sung
quy định “thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học có chất lượng cao được
công bố trong nước và ngoài nước” là một trong điều kiện để trường đại học, viện
nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ.
2.8 Về trung
tâm ngoại ngữ, tin học
Bổ sung điểm c khoản
1 Điều 46 như sau:
“c) Trung tâm ngoại ngữ, tin học
do tổ chức, cá nhân thành lập.”
Sửa đổi, bổ sung Khoản
3 Điều 46 như sau:
“3. Trung tâm giáo dục thường
xuyên thực hiện các chương trình giáo dục thường xuyên quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, không thực hiện chương trình
giáo dục để cấp văn bằng giáo dục nghề nghiệp và văn bằng giáo dục đại học.
Trung tâm học tập cộng đồng thực hiện các chương trình giáo dục quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 45 của Luật này. Trung tâm ngoại
ngữ, tin học thực hiện các chương trình giáo dục quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 45 của Luật này về ngoại ngữ, tin học.”
Sửa đổi, bổ sung Điểm
b khoản 1 Điều 69 như sau:
“b) Trung tâm kỹ thuật tổng hợp
- hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm
học tập cộng đồng; trung tâm ngoại ngữ, tin học.”
Tính đến tháng 6/2009, trên toàn
quốc có hơn 1350 trung tâm, cơ sở ngoại ngữ - tin học đang hoạt động. Các trung
tâm ngoại ngữ hiện nay giảng dạy các thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Đức, Trung, Nhật,
Hàn vv... trình độ A, B,C và các chương trình ngoại ngữ dành cho các đối tượng
khác nhau như các ngoại ngữ chuyên ngành y, luật, ngoại thương, ngoại giao,
phiên dịch, biên dịch vv.. ; các chương trình tin học ứng dụng A, B, C; chương
trình ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, các chương trình dành riêng
cho các đối tượng theo yêu cầu... Chính vì đặc thù của việc giảng dạy ngoại ngữ,
tin học rất đa dạng vì vậy việc thành lập các trung tâm ngoại ngữ, tin học là cần
thiết để đáp ứng nhu cầu học tập của mọi tầng lớp nhân dân. Hiện nay các trung
tâm này do nhiều đơn vị thành lập, quản lý bao gồm; các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp; các trường dạy nghề; các bộ, ngành, các tổ chức chính
trị xã hội; tổ chức xã hội; các sở giáo dục và đào tạo, các cơ sở giáo dục; các
đoàn thể, cá nhân. Do tính chất phức tạp trong việc tổ chức hoạt động của các
trung tâm ngoại ngữ, tin học thuộc nhiều đơn vị khác nhau thành lập và quản lý,
việc bổ sung trung tâm ngoại ngữ, tin học vào nội dung Điều 46
và Điều 69 của Luật như trên nhằm tạo khung pháp lý giúp cho việc quản lý
các hoạt động của các trung tâm này chặt chẽ hơn, đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi cho đông đảo các tầng lớp nhân dân được học tập, bồi dưỡng về ngoại ngữ,
tin học theo nhu cầu và điều kiện cá nhân.
2.9 Về thành lập
nhà trường
Điều 50 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 50. Điều kiện thành lập
nhà trường và điều kiện để được cho phép hoạt động giáo dục
1. Nhà trường được thành lập khi
có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có Đề án thành lập trường phù
hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo
dục đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
b) Đề án thành lập trường xác định
rõ mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình và nội dung giáo dục; đất đai, cơ sở vật chất,
thiết bị, địa điểm dự kiến xây dựng trường, tổ chức bộ máy, nguồn lực và tài
chính; phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển nhà trường.
2. Nhà trường được phép hoạt động
giáo dục khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có quyết định thành
lập hoặc quyết định cho phép thành lập nhà trường;
b) Có đất đai, trường sở, cơ sở
vật chất, thiết bị đáp ứng yêu cầu hoạt động giáo dục;
c) Địa điểm xây dựng trường
bảo đảm môi trường giáo dục, an toàn cho người học, người dạy và người lao động;
d) Có chương trình giáo dục và
tài liệu giảng dạy học tập theo quy định phù hợp với mỗi cấp học và trình độ
đào tạo;
đ) Có đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý đạt tiêu chuẩn, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu bảo đảm
thực hiện chương trình giáo dục và tổ chức các hoạt động giáo dục;
e) Có đủ nguồn lực tài
chính theo quy định để bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động giáo dục;
g) Có quy chế tổ chức và hoạt động
của nhà trường.
3. Trong thời hạn quy định, nếu
nhà trường có đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này thì được cơ quan
có thẩm quyền cho phép hoạt động giáo dục; hết thời hạn quy định, nếu không đủ
điều kiện thì quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành lập bị thu hồi.
4. Thủ tướng Chính phủ quy định
cụ thể điều kiện thành lập, cho phép hoạt động giáo dục đối với trường đại học;
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy
nghề theo thẩm quyền quy định cụ thể điều kiện thành lập, cho phép hoạt động
giáo dục đối với nhà trường ở các cấp học và trình độ đào tạo khác.”
Việc sửa đổi, bổ sung Điều 50 của Luật theo hướng trên đáp ứng được yêu cầu đảm bảo
chặt chẽ hơn trong việc thành lập trường, giải quyết được những vướng mắc trong
thành lập trường hiện nay, tạo hành lang pháp lý chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống
các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, khắc phục tình trạng thành lập
mới ở những nơi, những lĩnh vực không có nhu cầu, cơ sở giáo dục vẫn thực hiện
hoạt động giáo dục khi không đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ giảng dạy, cơ sở vật
chất, trang thiết bị…
2.10 Về đình
chỉ hoạt động giáo dục, giải thể nhà trường
Luật bổ sung Điều 50a và Điều 50
b quy định về đình chỉ hoạt động giáo dục, giải thể nhà trường cụ thể như sau:
“Điều 50a. Đình chỉ hoạt động
giáo dục
1. Nhà trường bị đình chỉ hoạt động
giáo dục trong những trường hợp sau đây:
a) Có hành vi gian lận để được
cho phép hoạt động giáo dục;
b) Không bảo đảm một trong các
điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 50 của Luật này;
c) Người cho phép hoạt động giáo
dục không đúng thẩm quyền;
d) Không triển khai hoạt động
giáo dục trong thời hạn quy định kể từ ngày được phép hoạt động giáo dục;
đ) Vi phạm quy định của pháp luật
về giáo dục bị xử phạt vi phạm hành chính ở mức độ phải đình chỉ;
e) Các trường hợp khác theo quy
định của pháp luật.
2. Quyết định đình chỉ hoạt động
giáo dục đối với nhà trường phải xác định rõ lý do đình chỉ, thời hạn đình chỉ,
biện pháp bảo đảm quyền lợi của nhà giáo, người học và người lao động trong trường.
Quyết định đình chỉ hoạt động giáo dục đối với nhà trường phải được công bố
công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3. Sau thời hạn đình chỉ, nếu
nguyên nhân dẫn đến việc đình chỉ được khắc phục thì người có thẩm quyền quyết
định đình chỉ ra quyết định cho phép nhà trường hoạt động giáo dục trở lại.
Điều 50b. Giải thể nhà trường
1. Nhà trường bị giải thể trong
những trường hợp sau đây:
a) Vi phạm nghiêm trọng quy định
về quản lý, tổ chức và hoạt động của nhà trường;
b) Hết thời hạn đình chỉ hoạt
động giáo dục mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc đình chỉ;
c) Mục tiêu và nội dung hoạt động
trong quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập trường không còn phù hợp
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội;
d) Theo đề nghị của tổ chức,
cá nhân thành lập trường.
2. Quyết định giải thể nhà trường
phải xác định rõ lý do giải thể, các biện pháp bảo đảm quyền lợi của nhà giáo,
người học và người lao động trong trường. Quyết định giải thể nhà trường phải
được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.”
2.11 Về thẩm
quyền, trình tự thành lập hoặc cho phép thành lập; cho phép hoạt động giáo dục,
đình chỉ hoạt động giáo dục; sát nhập, chia tách, giải thể nhà trường
Điều 51 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 51. Thẩm quyền, thủ tục
thành lập hoặc cho phép thành lập; cho phép hoạt động giáo dục, đình chỉ hoạt động
giáo dục; sáp nhập, chia, tách, giải thể nhà trường
1. Thẩm quyền thành lập trường
công lập và cho phép thành lập trường dân lập, trường tư thục được quy định như
sau:
a) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện quyết định đối với trường mầm non, trường mẫu giáo, trường tiểu học, trường
trung học cơ sở, trường phổ thông dân tộc bán trú;
b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định đối với trường trung học phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội
trú, trường trung cấp thuộc tỉnh;
c) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ quyết định đối với trường trung cấp trực thuộc;
d) Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo quyết định đối với trường cao đẳng, trường dự bị đại học; Thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước về dạy nghề quyết định đối với trường cao đẳng nghề;
đ) Thủ tướng Chính phủ quyết định
đối với trường đại học.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo cho phép hoạt động giáo dục đối với cơ sở giáo dục đại học.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề quy định thẩm quyền cho phép hoạt
động giáo dục đối với nhà trường ở các cấp học và trình độ đào tạo khác.
3. Người có thẩm quyền thành lập
hoặc cho phép thành lập nhà trường thì có thẩm quyền thu hồi quyết định thành lập
hoặc cho phép thành lập, quyết định sáp nhập, chia, tách, giải thể nhà trường.
Người có thẩm quyền cho phép hoạt động giáo dục thì có thẩm quyền quyết định
đình chỉ hoạt động giáo dục.
4. Thủ tướng Chính phủ quy
định cụ thể thủ tục thành lập, cho phép thành lập, cho phép hoạt động giáo dục,
đình chỉ hoạt động giáo dục, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học. Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề
theo thẩm quyền quy định cụ thể thủ tục thành lập, cho phép thành lập, cho phép
hoạt động giáo dục, đình chỉ hoạt động giáo dục, sáp nhập, chia, tách, giải thể
nhà trường ở các cấp học và trình độ đào tạo khác.”
Để thống nhất với việc sửa đổi,
bổ sung Điều 50, Điều 51, khoản 2 Điều 48 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Nhà trường trong hệ thống
giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch
của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều kiện để trường
công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Điều kiện, thủ tục và thẩm quyền
thành lập hoặc cho phép thành lập; cho phép hoạt động giáo dục, đình chỉ hoạt động
giáo dục; sáp nhập, chia, tách, giải thể nhà trường được quy định tại các điều 50, 50a, 50b và Điều 51 của Luật
này.”
2.12 Về công
khai tiêu chuẩn chất lượng giáo dục
Khoản 1, Điều 58
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Công bố công khai mục tiêu,
chương trình giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng giáo
dục và hệ thống văn bằng, chứng chỉ của nhà trường.
Tổ chức giảng dạy, học tập và
các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục; xác nhận hoặc
cấp văn bằng, chứng chỉ theo thẩm quyền”.
Việc sửa đổi, bổ sung quy định
này là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước, người học và gia đình giám sát việc
thực hiện mục tiêu, chương trình giáo dục, tài chính, chất lượng đào tạo và hệ
thống văn bằng, chứng chỉ của nhà trường, phục vụ cho công tác kiểm định chất
lượng giáo dục đối với cơ sở giáo dục; có tác dụng định hướng nghề nghiệp cho
người học; là cơ sở để người học lựa chọn trường ngay từ khi nộp hồ sơ thi tuyển
và để thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật giáo dục
hiện hành “Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục được công bố công khai để xã hội
biết và giám sát.”.
2.13 Về nhà
giáo
- Sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 70 nhằm thống nhất về tên gọi giữa nhà giáo làm
nhiệm vụ giảng dạy trong các trường cao đẳng và trường cao đẳng nghề. Cụ thể
như sau:
“3. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở
giáo dục mầm non; giáo dục phổ thông; giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề,
trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp gọi là giáo viên. Nhà giáo giảng dạy ở
cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề gọi là giảng viên”.
2.14 Về cơ sở
giáo dục thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục:
Điều 78 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 78. Cơ sở giáo dục thực hiện
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
1. Cơ sở giáo dục thực hiện nhiệm
vụ đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo bao gồm trường sư phạm, cơ sở giáo dục có khoa
sư phạm, cơ sở giáo dục được phép đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo.
Trường sư phạm do Nhà nước thành
lập để đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Trường sư phạm
được ưu tiên trong việc tuyển dụng nhà giáo, bố trí cán bộ quản lý, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, ký túc xá và bảo đảm kinh phí đào tạo. Trường sư phạm có
trường thực hành hoặc cơ sở thực hành.
2. Cơ sở giáo dục thực hiện nhiệm
vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục bao gồm cơ sở giáo dục đại học có
khoa quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục được phép đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản
lý giáo dục.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
cho phép cơ sở giáo dục được đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục”.
Quy định về công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trong Luật như trên nhằm tạo điều kiện nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục.
2.15 Về phụ cấp
thâm niên đối với nhà giáo
Chế độ phụ cấp thâm niên đối với
nhà giáo thể hiện sự ưu đãi đối với lao động đặc thù của nghề dạy học. Chế độ
phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo đã được thực hiện từ năm 1988 nhưng đến
tháng 11/1995 chế độ này đã bị bãi bỏ và thay thế bằng phụ cấp ưu đãi đối với
giáo viên trực tiếp đứng lớp. Trên thực tế, phụ cấp đứng lớp chỉ thực hiện đối
với những người trực tiếp giảng dạy do đó dẫn đến tình trạng một số giáo viên
giỏi không muốn về làm công tác quản lý tại các cơ quan quản lý giáo dục do thu
nhập giảm và thiệt thòi lúc tính chế độ hưu trí. Nhằm động viên, khuyến khích
nhà giáo gắn bó với nghề, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 81 quy
định nhà giáo được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên. Việc sửa đổi này thống nhất
với Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài
chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 -2011 đến năm học 2014-2015, cụ
thể như sau:
“Điều 81. Tiền lương
Nhà giáo được hưởng tiền lương,
phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên và các phụ cấp khác theo quy định của
Chính phủ.”
2.16 Về phân cấp
quản lý nhà nước về giáo dục:
Sửa đổi, bổ sung khoản
4 Điều 100 như sau:
“4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực
hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo sự phân cấp của Chính phủ, trong đó có
việc quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo
dục của tất cả cơ sở giáo dục trên địa bàn; có trách nhiệm đảm bảo các điều kiện
về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các trường
công lập thuộc phạm vi quản lý; phát triển các loại hình trường, thực hiện xã hội
hoá giáo dục; đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục tại địa phương”.
Việc phân cấp đối với các cơ
quan quản lý về giáo dục ở địa phương, việc giao quyền tự chủ cho cơ sở giáo dục
đại học và quy định nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của các trường là đòi hỏi tất
yếu hiện nay và phù hợp với xu thế chung. Việc tăng cường quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của các cơ sở giáo dục phải đi đôi với yêu cầu quy hoạch mạng lưới
cơ sở giáo dục, phát triển các loại hình trường, thực hiện xã hội hoá giáo dục
và tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở giáo dục thực hiện các quy định pháp
luật về giáo dục. Uỷ ban nhân dân các cấp được giao quản lý, phát triển các cơ
sở giáo dục mầm non, phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, thực hiện quản lý
hành chính nhà nước đối với tất cả các cơ sở giáo dục trên địa bàn, kể cả đối với
các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, thực tế các sở giáo dục và đào tạo không
được giao nhiệm vụ giúp uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục của các cơ sở giáo dục đại học.
Vì vậy, nhiều sai phạm về quản lý đào tạo, tài chính, tuyển dụng, hợp tác quốc
tế… ở các cơ sở giáo dục đại học chậm được phát hiện và xử lý. Để giải quyết những
bất cập nêu trên, Chính phủ đề nghị bổ sung quy định giao uỷ ban nhân dân các cấp
có trách nhiệm kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục của tất cả cơ sở
giáo dục trên địa bàn vào khoản 4 Điều 100 nhằm khẳng định rõ hơn trách nhiệm của
uỷ ban nhân dân các cấp kiểm tra các cơ sở giáo dục trên địa bàn. Việc giao quyền
cụ thể đối với từng cấp uỷ ban nhân dân phù hợp với từng cấp học và trình độ
đào tạo sẽ được quy định tại văn bản của Chính phủ. Bộ Giáo dục và Đào tạo thực
hiện những nội dung quản lý thuộc chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ, đặc
biệt là xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển giáo dục, ban hành
chính sách phát triển giáo dục, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật về giáo dục. Uỷ ban nhân dân các cấp kiểm tra, giám sát việc tuân theo
pháp luật của tất cả các cơ sở giáo dục trên địa bàn, quản lý các cơ sở giáo dục
theo sự phân cấp của Chính phủ.
2.17 Về học
phí, phí dịch vụ
Điều 105 Luật
Giáo dục đã quy định:“Học phí, lệ phí tuyển sinh là khoản tiền của gia đình
người học hoặc người học phải nộp để góp phần bảo đảm chi phí cho các hoạt động
giáo dục. Học sinh tiểu học trường công lập không phải đóng học phí. Ngoài học
phí và lệ phí tuyển sinh, người học hoặc gia đình người học không phải đóng góp
khoản tiền nào khác”.
Tuy vậy, trong tổ chức thực hiện,
cơ quan quản lý giáo dục các cấp cũng như các cơ sở giáo dục còn có nhận thức
và cách vận dụng khác nhau, đặc biệt là nhiều cơ sở giáo dục lạm dụng chủ
trương về xã hội hóa giáo dục và quy định về các nguồn tài chính đầu tư cho
giáo dục để thu bắt buộc các khoản ngoài quy định gây bức xúc trong dư luận và
thắc mắc trong nhân dân.
Vì vậy, Luật đã bổ sung khoản 2, Điều 101 về đầu tư cho giáo dục như sau:
“2. Học phí, lệ phí tuyển sinh;
các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ của các cơ sở giáo dục; đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài để phát triển giáo dục; các khoản tài trợ khác của tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức,
cá nhân tài trợ, ủng hộ để phát triển sự nghiệp giáo dục. Không được lợi dụng
việc tài trợ, ủng hộ cho giáo dục để ép buộc đóng góp tiền hoặc hiện vật.”
2.18 Về hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục:
Luật bổ sung một khoản mới vào Điều 108 giao cho Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản quy định
cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của người Việt Nam, cơ sở giáo dục Việt Nam hoạt
động giảng dạy, giáo dục ở nước ngoài, cụ thể như sau:
"4. Thủ tướng Chính phủ quy
định cụ thể việc công dân Việt Nam ra nước ngoài giảng dạy, học tập, nghiên cứu
khoa học và trao đổi học thuật; việc hợp tác về giáo dục với tổ chức, cá nhân
nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài".
Đồng thời bổ sung thêm một khoản
tại Điều 109 quy định về trách nhiệm của cơ sở giáo dục có
đầu tư của nước ngoài trong việc thực hiện chương trình giáo dục như sau:
“Điều 109. Khuyến khích hợp tác
về giáo dục với Việt Nam
1. Tổ chức, cá nhân nước
ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được Nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện để giảng dạy, học
tập, đầu tư, tài trợ, hợp tác, ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ về giáo
dục ở Việt Nam; được bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp theo pháp luật Việt Nam
và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Hợp tác về giáo dục với Việt
Nam phải bảo đảm giáo dục người học về nhân cách, phẩm chất và năng lực công
dân; tôn trọng bản sắc văn hoá dân tộc; thực hiện mục tiêu giáo dục, yêu cầu về
nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp với mỗi cấp học, trình độ đào tạo trong
hệ thống giáo dục quốc dân; hoạt động giáo dục phù hợp với quy định của pháp luật
Việt Nam.
3. Các hình thức hợp tác, đầu tư
của nước ngoài về giáo dục tại Việt Nam bao gồm:
a) Thành lập cơ sở giáo
dục;
b) Liên kết đào tạo;
c) Thành lập văn phòng đại diện;
d) Các hình thức hợp tác khác.
4. Chính phủ quy định cụ thể về
hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục.”
2.19 Về kiểm định
chất lượng giáo dục
Để thống nhất về thẩm quyền quy
định lĩnh vực dịch vụ có điều kiện, tạo cơ sở cho việc xây dựng văn bản quy định
điều kiện thành lập, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức kiểm định
chất lượng giáo dục độc lập theo hướng xã hội hoá hoạt động kiểm định chất lượng
giáo dục, Luật bổ sung một Mục mới gồm ba điều quy định về nội dung quản lý nhà
nước về kiểm định chất lượng giáo dục, nguyên tắc kiểm định chất lượng giáo dục,
tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục độc lập vào Chương VII của Luật, cụ thể
như sau:
“Điều 110a. Nội dung quản lý nhà
nước về kiểm định chất lượng giáo dục
1. Ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng giáo dục; quy trình và chu kỳ kiểm định chất
lượng giáo dục ở từng cấp học và trình độ đào tạo; nguyên tắc hoạt động,
điều kiện và tiêu chuẩn của tổ chức, cá nhân hoạt động kiểm định chất
lượng giáo dục; cấp phép hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục; cấp, thu hồi
giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục.
2. Quản lý hoạt động kiểm định
chương trình giáo dục và kiểm định cơ sở giáo dục.
3. Hướng dẫn các tổ chức,
cá nhân và cơ sở giáo dục thực hiện đánh giá, kiểm định
chất lượng giáo dục.
4. Kiểm tra, đánh giá việc
thực hiện các quy định về kiểm định chất lượng giáo dục”
“Điều 110b. Nguyên tắc kiểm định
chất lượng giáo dục
Việc kiểm định chất lượng
giáo dục phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:
1. Độc lập, khách quan, đúng
pháp luật.
2. Trung thực, công khai, minh bạch”
“Điều 110c. Tổ chức kiểm định chất
lượng giáo dục
1. Tổ chức kiểm định chất lượng
giáo dục bao gồm:
a) Tổ chức kiểm định chất lượng
giáo dục do Nhà nước thành lập;
b) Tổ chức kiểm định
chất lượng giáo dục do tổ chức, cá nhân thành lập.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập tổ chức
kiểm định chất lượng giáo dục; quy định điều kiện thành lập và giải thể, nhiệm
vụ, quyền hạn của tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục”.
III. DỰ
BÁO TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁO DỤC
Những nội dung sửa đổi, bổ sung
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục có tác động sâu sắc tới
việc nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động giáo dục góp phần đổi mới giáo dục
và tạo hành lang pháp lý căn bản cho việc đẩy mạnh đổi mới quản lý để nâng cao
chất lượng giáo dục, cụ thể:
- Khẳng định tính ưu việt của chế
độ cũng như thành tựu quốc gia trong việc giáo dục và chăm sóc trẻ em, tạo cơ sở
pháp lý để Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư có hiệu quả và nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non nói chung và trẻ em 5 tuổi nói riêng, đặc biệt ở vùng miền núi
và các vùng kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn.
- Nâng cao chất lượng giáo dục mạnh
mẽ qua việc hoàn thiện quản lý nhà nước về biên soạn và bảo đảm chất lượng của
sách giáo khoa, bảo đảm có sách giáo khoa dung để giảng dạy kể cả trong trường
chuyên biệt cho phù hợp với người học tại các trường năng khiếu, trường giáo dưỡng,
trường dành cho người tàn tật, khuyết tật, trường dự bị đại học qua việc bảo đảm
phải có đủ giáo trình giảng dạy, học tập trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học; qua việc công khai, minh bạch hóa hoạt động đào tạo, việc thực
hiện mục tiêu, chương trình giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá
chất lượng giáo dục, hình thành sự giám sát thực sự của các cơ quan nhà nước, đội
ngũ giáo viên, người học, các đoàn thể và xã hội; qua việc quản lý chặt chẽ, hiệu
quả hơn việc hình thành và hoạt động của các cơ sở giáo dục, qua việc tạo điều
kiện đòi hỏi các cơ sở giáo dục phải tự chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động
của mình; qua việc hình thành hệ thống các cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục
và xác định rõ nội dung quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục; qua việc làm
rõ hơn yêu cẩu về nội dung, phương pháp giáo dục của các cơ sở giáo dục có sự
tham gia của chủ đầu tư nước ngoài.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước về giáo dục qua việc phân công, phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục hợp
lý hơn trong Chính phủ; giữa các bộ, ngành và các địa phương; qua việc tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư thành lập cơ sở giáo dục theo hướng xã hội
hóa, huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục và đào tạo,
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân, các thành phần
kinh tế tích cực tham gia các hoạt động phát triển giáo dục. Đồng thời khắc phục
tình trạng cơ sở giáo dục hoạt động giáo dục mà không đủ điều kiện về đội ngũ
nhà giáo, về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tuyển sinh.
BỘ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO