BỘ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
53/2007/CT-BGDĐT
|
Hà Nội, ngày 07
tháng 09 năm 2007
|
CHỈ THỊ
VỀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NĂM HỌC 2007 –
2008
Quán triệt
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, căn cứ các nhiệm vụ đề
ra trong giai đoạn 2 của Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP
ngày 02/11/2005 của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học
Việt Nam giai đoạn 2006-2020 và Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ
tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục;
phát huy những kết quả đã đạt được trong năm học 2006-2007; căn cứ tình hình thực
tế của giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thị về các nhiệm
vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2007-2008 như sau:
1. Gắn kết việc thực hiện nghiêm túc và hiệu
quả Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với việc thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục,
các cơ sở giáo dục đại học toàn quốc tập trung triển khai cuộc vận động “Nói
không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội”.
Đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trọng tâm việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là rèn luyện tư cách, phẩm chất nhà
giáo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chấp hành pháp luật,
không vi phạm đạo đức nhà giáo, thường xuyên tự học, tích cực tham gia nghiên cứu
khoa học. Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo.
Sinh viên sẽ triển khai các hoạt động theo chủ đề “Tuổi trẻ học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với trọng tâm là tăng cường ý thức
và ý chí học tập vì đất nước, vì bản thân, tu dưỡng đạo đức, tuân thủ pháp luật
của Nhà nước và nội quy nhà trường, tích cực tham gia công tác xã hội và các hoạt
động tình nguyện.
Cuộc vận động “hai không” – “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục” trong năm học 2006-2007 của toàn ngành đã đạt
được kết quả bước đầu và có ý nghĩa to lớn đối với ngành và đất nước.
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, điều mà Quốc hội, đảng, chính quyền
các cấp và xã hội, các địa phương, các cơ quan, bức xúc nhất là việc một tỷ lệ
không nhỏ trong các sinh viên tốt nghiệp hằng năm không đủ kiến thức và kỹ năng
cần thiết để có thể làm việc theo đúng trình độ của bằng cấp, năng lực nghề
nghiệp của họ không đáp ứng nhu cầu của xã hội, của nơi tiếp nhận họ làm việc.
Sinh viên có bằng tốt nghiệp trình độ đại học, cao đẳng song không đạt chuẩn
đào tạo, không hành nghề được một cách phù hợp, là một sự lãng phí lớn với xã hội,
nhà trường, bản thân người học và gia đình. Hiện tượng chất lượng đào tạo không
đáp ứng nhu cầu xã hội đang là thách thức lớn nhất, là điểm yếu nhất và là một
trong những sự lãng phí lớn nhất của hệ thống giáo dục đại học, đi ngược lại sứ
mạng thiêng liêng mà xã hội, nhà nước đã tin cậy và giao cho chúng ta là: Cung
cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho hiện đại hoá, công nghiệp hoá và phát triển
nhanh đất nước.
Vì vậy, bắt đầu từ năm học này, các cơ sở giáo dục đại học trong cả
nước cần triển khai thực hiện Chỉ thị 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ chủ
yếu qua cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng
nhu cầu xã hội”.
Trong
tháng 9/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ gửi tới tất cả các cơ sở giáo dục đại học
dự thảo đề án học phí mới. Tinh thần chung là học phí mới sẽ cao hơn học phí
trong những năm vừa qua với mức hợp lý, để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục
đại học có thể cung ứng dịch vụ đào tạo với chất lượng cao hơn, đồng thời có
chính sách giảm học phí, có học bổng và cho vay để các em học sinh có đủ điều
kiện trình độ và đạo đức vào học ở các trường này qua thi tốt nghiệp trung học
phổ thông (THPT), thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hoặc xét tuyển (từ năm 2009
trở đi) đều có thể được học đại học, cao đẳng.
Như vậy,
chúng ta sẽ có các điều kiện cần thiết để sớm chấm dứt tình trạng hiện nay ở một
số cơ sở giáo dục đại học: tăng thu nhập cho mình bằng cách đào tạo và cung cấp
cho xã hội những người tốt nghiệp không đạt chuẩn đào tạo, không đáp ứng nhu cầu
xã hội, gây lãng phí cho đất nước. Những năm gần đây, một số cơ sở đào tạo như
Trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học Nông nghiệp I, Trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh... đã chuyển mạnh từ đào tạo theo khả
năng sang đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, của xã hội.
Bước
vào năm học mới, thủ trưởng các cơ sở giáo dục đại học báo cáo để Đảng uỷ bàn bạc
và có Nghị quyết về triển khai cuộc vận động này tại trường, phối hợp chặt chẽ
với công đoàn, đoàn thanh niên thực hiện chủ trương quan trọng này của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Cần tiến hành một đợt sinh hoạt sâu sắc ở từng bộ môn, khoa,
phòng, ban, trung tâm và trong cán bộ chủ chốt toàn trường để trao đổi về các vấn
đề như: ngành học nào, khoa nào, hệ đào tạo nào, trình độ đào tạo nào đang tồn
tại tình trạng đào tạo không đạt chuẩn đào tạo, sinh viên, học viên ra trường không
đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp ở trình độ tương ứng, có hay không
tình trạng buông trôi chất lượng đầu ra, chỉ chú ý duy trì số lượng sinh viên,
học viên cao để đảm bảo thu nhập. Từ đó đề xuất các giải pháp để sớm chấm dứt
tình trạng tuyển sinh quá khả năng đảm bảo chất lượng tốt nghiệp, từng bước
nâng cao chất lượng đào tạo trong 3 năm tới và những năm tiếp theo. Năm học
2007-2008 là năm học đầu tiên của giai đoạn 3 năm đột phá vào việc “Nói không với
đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội”.
2. Tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới công
tác tuyển sinh và triển khai tích cực đổi mới chương trình, giáo trình, tổ chức
đào tạo theo học chế tín chỉ
a) Tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới tuyển sinh
Công tác thi tuyển sinh
đại học, cao đẳng hệ chính quy cho năm học 2008-2009 về cơ bản giữ ổn định như
năm 2007. Tổ chức rút kinh nghiệm việc ra đề thi trắc nghiệm, việc hướng dẫn
thi trắc nghiệm để triển khai tiếp thi trắc nghiệm các môn khác.
Để chuẩn
bị cho việc thực hiện một kỳ thi quốc gia trung học phổ thông (THPT), dùng kết
quả để vừa xét tốt nghiệp THPT, vừa để làm một căn cứ cho xét tuyển đại học,
cao đẳng, trong năm học 2007-2008 Bộ Giáo dục và Đào
tạo sẽ xây dựng và ban hành quy định khung về xét tuyển vào các cơ sở
giáo dục đại học. Các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng phương án xét tuyển
vào từng trường và thông báo công khai, rộng rãi để học sinh, nhân dân biết
trong năm 2008.
Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp giao chỉ tiêu tuyển sinh,
năm học 2007 - 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đổi mới phương pháp giao chỉ tiêu
tuyển sinh đào tạo”, trong đó chú trọng tiêu chí về số sinh viên/1 giảng viên
quy đổi và các tiêu chí cần thiết khác thể hiện khả năng bảo đảm chất lượng đào
tạo của các cơ sở giáo dục đại học khi đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh.
Nâng cao chất lượng tuyển chọn đầu vào đào tạo
theo hình thức vừa làm vừa học theo hướng tương đương với hệ chính quy. Các trường
tổ chức tuyển sinh hình thức vừa làm vừa học vào 2 đợt trong năm. Việc thi phải
tổ chức thực sự nghiêm túc.
Đối với tuyển sinh đào tạo trình độ tiến sĩ sẽ thực hiện theo quy chế
mới, chú trọng đánh giá năng lực nghiên cứu, năng lực giải quyết đề tài của mỗi
thí sinh và khả năng ngoại ngữ (thể hiện qua các chứng chỉ theo thông lệ quốc tế).
b) Triển khai đổi mới tổ chức đào tạo
Về chương trình đào tạo: Năm học 2007-2008 hoàn thành việc biên tập,
thẩm định và ban hành 132 chương trình khung, tổ chức xây dựng mới 100 chương
trình khung để ban hành vào năm học 2008 - 2009. Các trường cần rà soát lại từng
chương trình đào tạo trên cơ sở các chương trình khung đã ban hành và tham khảo
chương trình đào tạo tiên tiến của các nước để xây dựng lại chương trình đào tạo
theo hướng tiên tiến. Các trường dự kiến đào tạo một số môn hoàn toàn theo những
chương trình của nước ngoài cần có sự thẩm định phù hợp để đảm bảo các chương
trình này tốt hơn các chương trình đang được giảng dạy.
Về giáo trình: Tiếp tục xây dựng thư viện giáo trình điện tử, đảm bảo
cuối năm 2008 sẽ có ít nhất 1000 giáo trình điện tử trên mạng của Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Năm học 2007-2008, các trường cần có kế hoạch đầu tư xây dựng hệ thống
giáo trình (thông qua việc viết giáo trình, biên dịch giáo trình, mua quyền sử
dụng giáo trình hoặc sử dụng giáo trình điện tử…) để đảm bảo 100% các môn học
chính có giáo trình.
Về đào tạo theo tín chỉ: Tháng 11/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ
chức tập huấn, hướng dẫn việc thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ. Trong năm
học 2007-2008 chuẩn bị và chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ ở ít nhất 50
cơ sở giáo dục đại học; các cơ sở phải xây dựng kế hoạch, lộ trình và tuyên bố
thời điểm chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, trên cơ sở chuẩn bị đầy đủ
các điều kiện về cơ sở vật chất, năng lực đội ngũ, phương pháp quản lý, tài liệu
học tập và thí nghiệm. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ
kiểm tra việc đảm bảo các điều kiện tiên quyết để triển khai đào tạo theo học
chế tín chỉ ở các trường.
Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến
sĩ: Nâng cao chất lượng tuyển chọn, chú trọng đánh giá khả năng chuyên môn và
trình độ ngoại ngữ khi tuyển chọn, đặc biệt đối với nghiên cứu sinh, nhằm nâng
cao năng lực tiếp cận với tài liệu khoa học của nước ngoài, cập nhật kiến thức
khoa học hiện đại trong quá trình học tập và nghiên cứu. Hạn chế tỉ lệ học viên
và nghiên cứu sinh theo học hình thức không tập trung; đẩy mạnh và hoàn thiện
việc đào tạo trình độ thạc sĩ theo học chế tín chỉ. Đối với đào tạo trình độ tiến
sĩ, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo thông qua yêu cầu công bố kết quả
nghiên cứu của nghiên cứu sinh trên các tạp chí khoa học có uy tín quốc tế và
trong nước; quy định chặt chẽ về trách nhiệm của bộ môn và người hướng dẫn
trong quá trình đào tạo nghiên cứu sinh.
3. Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản
lý giáo dục
Năm học 2007-2008 hoàn thành việc xây dựng và thực hiện quy hoạch về
đào tạo, bồi dưỡng giảng viên các trường đại học, cao
đẳng; xây dựng và thực hiện chế độ làm việc đối với giảng viên đại học, cao đẳng; xây dựng quy định về tiêu chuẩn
và hình thức tuyển dụng giảng viên đại học, cao đẳng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức
triển khai thực hiện Đề án huy động các chuyên gia là người Việt Nam ở nước
ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở các cơ sở
giáo dục đại học Việt Nam.
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ hoàn thiện đề án đào tạo 20.000 tiến sĩ
cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
vào tháng 11 năm 2007. Riêng năm học 2007-2008 sẽ tuyển chọn để gửi đào tạo
1.500 tiến sĩ cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng, trong đó đào tạo ở
nước ngoài khoảng 500 nghiên cứu sinh và đào tạo ở trong nước khoảng 1.000
nghiên cứu sinh. Mỗi cơ sở giáo dục đại học cần phải xây dựng kế hoạch phát triển
đội ngũ đến năm 2020 và có giải pháp cụ thể cho việc thực hiện kế hoạch hằng
năm, trước mắt cho năm 2008, để việc đào tạo giảng viên không ảnh hưởng đến việc
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu và đảm bảo quyền lợi trước mắt cũng
như lâu dài của giảng viên.
Năm học 2007-2008, tổ chức 12 khoá bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý trường
đại học cho khoảng 450 lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học và cán bộ quản lý.
4. Kiểm định chất lượng giáo dục đại học
Tháng 10 năm 2007 tổ chức hội nghị toàn quốc về chất lượng
giáo dục đại học Việt Nam. Năm học 2007-2008 tiếp tục kiện
toàn các tổ chức khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ở các cơ sở
giáo dục đại học; hướng dẫn và khuyến khích thành lập các tổ chức kiểm định
giáo dục đại học độc lập, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Hoàn thành công
tác kiểm định 30 trường đại học. Mỗi cơ sở
giáo dục đại học cần lập kế hoạch triển khai
công tác kiểm định chất lượng trường, bắt đầu bằng tự đánh giá. Tiến tới xây dựng
cơ chế tự đảm bảo chất lượng và các trường tiến hành tự đánh giá theo định kỳ.
5. Công tác quy hoạch, tài chính và xây dựng cơ
sở vật chất
Hoàn thành Đề án đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục
đại học, Đề án học phí, học bổng và tín dụng sinh viên để trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt vào cuối năm 2007; xây dựng quy định phân cấp về tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Khuyến khích các trường liên kết với các doanh nghiệp trong
đào tạo, thực hành nghề nghiệp và sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo. Bộ Giáo dục
và Đào tạo phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và các đoàn thể tổ chức Hội thảo về đào tạo theo nhu cầu xã hội,
nhu cầu của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó các bộ và đoàn thể trình đề án đẩy
mạnh đào tạo nghề nghiệp theo nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội vào quý IV năm
2007. Sau khi đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cùng với quy định của
Chính phủ về cơ chế thu và sử dụng học phí, các trường đại học, cao đẳng sẽ có
cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai cuộc vận động “Nói không với đào tạo
không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội”.
Triển khai Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và
cao đẳng giai đoạn 2006-2020, tháng 10 năm 2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ làm
việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính về việc dành quỹ đất cho việc
xây dựng các cơ sở giáo dục đại học. Trong quý IV năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào
tạo sẽ phối hợp với UBND các tỉnh để tổ chức hội nghị về quy hoạch đại học, cao
đẳng tại các vùng, thông báo quy hoạch và các tiêu chí thành lập trường, bàn
các giải pháp để xây dựng các trường mạnh cho từng vùng.
Trong kế hoạch phát triển trường hằng năm, các trường cần
xây dựng kế hoạch chi tiết về nguồn lực tài chính, đa dạng hoá nguồn tài chính,
khai thác triệt để các nguồn lực từ hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai
công nghệ, từ các dịch vụ và tư vấn, từ hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài để
xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp, thiết bị.
Các trường cần xây dựng lộ trình và
tuyên bố lộ trình đảm bảo đủ phòng học và tự học cho sinh viên (xóa bỏ tình trạng
đi thuê lớp học và hạn chế dần việc học vào buổi tối), đủ chỗ ngồi làm việc cho
giảng viên và cán bộ nghiên cứu, phấn đấu để hết năm học 2007-2008 các giáo sư
và phó giáo sư có chỗ ngồi làm việc riêng tại trường.
6. Công tác nghiên cứu khoa học
Năm học
2007-2008 ban hành các tiêu chí giao kinh phí sự nghiệp khoa học công nghệ có
căn cứ vào số lượng các giảng viên, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư và số lượng
nghiên cứu sinh của các đơn vị cho các cơ sở đào tạo, nhằm tăng cường phân cấp
quản lý cho các trường. Xây dựng cơ chế khuyến khích các nhà giáo, các nhà khoa
học đầu ngành tham gia chủ trì các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học (NCKH), hướng dẫn
sinh viên NCKH. Ban hành Quy định về nhiệm vụ NCKH của giảng viên các trường đại
học và cao đẳng. Xây dựng và hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về nghiên cứu
khoa học của các cơ sở giáo dục đại học; triển khai chợ công nghệ trên mạng làm
nơi giao dịch đặt hàng nghiên cứu và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Xây
dựng cuốn sách về phương pháp nghiên cứu khoa học để xuất bản vào cuối năm
2007.
Các trường cần
có quy định cụ thể về nhiệm vụ NCKH của giảng viên, phát huy thế mạnh của từng
trường, từng khoa, bộ môn, từng nhóm giảng viên trong việc thực hiện các đề tài
NCKH. Các trường cần phấn đấu để có nguồn thu ngày càng tăng từ hoạt động NCKH.
7. Hoạt động hợp tác quốc tế
Xây dựng quy
định mới nhằm tăng tính chủ động cho các cơ sở trong hợp tác quốc tế, đảm bảo
chất lượng đào tạo. Chuẩn bị tốt cho kỳ thi Vật lý quốc tế tổ chức tại Hà Nội
vào tháng 7 năm 2008.
Thành lập Trường
đại học Việt – Đức trên cơ sở hợp tác giữa hai quốc gia.
Năm học
2007-2008 mỗi trường cần xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế (tới năm 2010, định
hướng đến năm 2015), xác định các đối tác chiến lược có trình độ khoa học và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, có tiềm lực về tài chính để hỗ trợ phát triển
nhà trường. Mỗi trường cần chủ động tìm nguồn tài trợ, tạo điều kiện để giảng
viên, cán bộ quản lý tham gia trao đổi về nội dung, chương trình, giáo trình và
kinh nghiệm quản lý với trường và cơ quan quản lý giáo dục ở các nước tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới.
8. Công tác chỉ đạo của ngành
Trong tháng 9 năm 2007, Bộ trưởng và các Thứ trưởng làm việc với 12
cơ sở giáo dục đại học về kế hoạch triển khai cuộc vận động “Nói không với đào
tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội”. Tháng 10 năm 2007,
tháng 01 năm 2008 và tháng 4 năm 2008 lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì
giao ban với các cơ sở giáo dục đại học trong 7 vùng của cả nước để đánh giá
tình hình triển khai cuộc vận động nêu trên và tổng kết năm học 2007 – 2008 khối
đại học, cao đẳng cả nước vào tháng 8 năm 2008.
Bắt đầu từ năm học 2007-2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối
hợp với các trường để xây dựng và công bố các tiêu chí thi đua, nhằm đánh giá
và biểu dương xứng đáng các trường và cá nhân đã có đóng góp tích cực cho sự
nghiệp phát triển giáo dục thông qua hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học
theo nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới giáo dục
đại học.
Các hoạt động thanh tra giáo dục, thanh tra nhân dân cần được
tăng cường để giám sát các hoạt động của nhà trường, chống tiêu cực, chống lãng
phí, chống tham nhũng.
Để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trên đây, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo yêu cầu:
Giám đốc các đại học, học viện, hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, viện trưởng các viện nghiên cứu
đào tạo trình độ tiến sĩ chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai
cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã
hội” gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo trước 30 tháng 9 năm 2007 và tổ chức thực hiện.
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm thực
hiện nghiêm túc chỉ thị này; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các cơ sở giáo dục đại
học thực hiện các nhiệm vụ đề ra; kịp thời tiếp nhận các báo cáo, phản ánh tình
hình và đề xuất các biện pháp chỉ đạo để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
quá trình thực hiện.
Chỉ thị này được phổ biến tới tất cả cán bộ, công chức, viên chức ở
cơ quan quản lý giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại học thuộc các loại
hình công lập và tư thục để quán triệt và thực hiện./.
Nơi nhận:
- VP Trung ương Đảng; VP Quốc hội;
- VP Chủ tịch nước, VP Chính phủ;
- Ban Tuyên giáo Trung ương;
- Các Bộ, cơ quan ngang bộ, các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quản lý
các cơ sở giáo dục đại học;
- Các cơ sở giáo dục đại học;
- Bộ trưởng và các Thứ trưởng;
- Các Cục, Vụ, Viện, Thanh tra, Văn phòng và đơn vị thuộc Bộ GD&ĐT;
- Cục Kiểm tra văn bản QPPL (Bộ Tư pháp);
- Kiểm toán Nhà nước;
- Công báo; Website Chính phủ;
-. Website Bộ;
-. Lưu: VT, PC, ĐH&SĐH.
|
BỘ
TRƯỞNG
Nguyễn Thiện Nhân
|