BỘ
GIÁO DỤC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
39-CT-KH-TV
|
Hà
Nội, ngày 12 tháng 08 năm 1964
|
CHỈ THỊ
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG NĂM HỌC
1964-1965
Kính gửi
|
- Các ủy ban hành
chính các khu tự trị, các thành phố, các tỉnh,
-
Các sở, ty giáo dục
|
Năm học 1964-1965 là năm học thứ
tư trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Nhưng nhiệm vụ và chỉ tiêu đề ra trong kế
hoạch của năm học, việc chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ và chỉ tiêu đó đều
có ảnh hưởng lớn đến việc hoàn thành những nhiệm vụ chỉ tiêu của kế hoạch
5 năm.
Hiện nay nhân dịp các thành phố
và các tỉnh bắt đầu chuẩn bị thực hiện kế hoạch năm mới, Bộ xin nhắc lại một số
chủ trương về phương hướng nhiệm vụ phát triển giáo dục đã được thảo luận và kết
luận tại hội nghị kế hoạch giáo dục tổ chức tại Hà-nội trong những ngày 25, 26,
27 tháng 5 vừa qua.
Nhiệm vụ chung của ngành giáo dục:
mẫu giáo, vỡ lòng, phổ thông và bổ túc văn hóa trong năm học 1964-1965 là “Ra sức
ổn định và củng cố phong trào, tích cực thực hiện mọi biện pháp để nâng cao
thêm một bước chất lượng giảng dạy và học tập, làm cho nhà trường gắn liền hơn
nữa và phục vụ đắc lực hơn nữa đường lối, chủ trương của Đảng, gắn liền hơn nữa
và phục vụ đắc lực hơn nữa đời sống và sản xuất, nhà trường phải làm tốt
hơn nữa công tác chuẩn bị cho học sinh học xong các cấp ra tham gia sản xuất và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bổ túc văn hóa vẫn là công tác hàng đầu. Công tác bồi
dưỡng, nâng cao trình độ giáo viên là nhiệm vụ trọng yếu. Tiếp tục phát triển mạnh
công tác mẫu giáo; đẩy mạnh việc phổ cập giáo dục vỡ lòng và phổ cập giáo dục cấp
I cho thiếu niên. Cố gắng phát triển cấp II bằng nhiều hình thức để đáp ứng yêu
cầu học tập của con em nhân dân nhưng phải phù hợp với khả năng của Nhà nước và
của nhân dân, phát triển cấp III có mức độ. Cố gắng giải quyết thêm một bước cơ
sở vật chất, tích cực sửa chữa những trường đổ nát, xây dựng một số trường mới
và tăng thêm đồ dùng giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục theo phương châm
tự lực cánh sinh”.
Nhiệm vụ cụ thể của ngành bổ túc
văn hóa là phải bảo đảm cho đa số lãnh đạo chủ chốt từ 40 tuổi trở xuống, những
thanh niên tiên tiến ở xã và hợp tác xã (nông nghiệp, ngư nghiệp, làm muối…) những
công nhân kỹ thuật và tổ trưởng sản xuất ở các xí nghiệp, hợp tác xã thủ công
nghiệp được học tập hết lớp 4, tạo điều kiện cho việc hoàn thành nhiệm vụ bổ
túc văn hóa cho những đối tượng nói trên học hết cấp I vào cuối năm 1965-1966
như kế hoạch 5 năm đã quy định. Những người đã có trình độ lớp 4 cần được tổ chức
học tiếp lên cấp II. Đối với nhân dân lao động, xã viên hợp tác xã, công nhân
thường, cần vận động học xong một lớp, đạt trình độ lớp 1 hoặc lớp 2. Đối với
cán bộ cơ quan Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, phải tổ chức học tập để thực
hiện mục tiêu đã quy định trong chỉ thị số 61 ngày 27-3-2963 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng.
Nhiệm vụ cụ thể của công tác
giáo dục nhi đồng và thiếu niên là:
- Phát triển mạnh các lớp mẫu
giáo; hướng phát triển nhằm vào các xí nghiệp công nghiệp và hợp tác xã nông
nghiệp.
- Đẩy mạnh việc phổ cập giáo dục
vỡ lòng và cấp I. Trong hai năm 1964-1965 và 1965-1966, phải huy động
được 90% trẻ em 6 tuổi vào lớp vỡ lòng và 7 tuổi vào lớp 1 ở miền xuôi và
vùng thấp miền núi nơi tập trung đông dân cư, kinh tế và văn hóa tương đối phát
triển; 60% trẻ em 6 tuổi vào lớp vỡ lòng và 7 tuổi vào lớp 1 ở vùng cao. Đối
với các em 7 tuổi trở lên chưa học vỡ lòng và lớp 1, cần vận động đưa dần
các em vào học càng sớm càng tốt, đến đầu năm học 1967-1968 tất cả các em trong
tuổi đi học đều được ngồi học ở trong trường và được tiếp tục học ít nhất hết cấp
I. Những em từ 7 tuổi trở lên chưa học vỡ lòng, nếu có điều kiện (số lượng
đông, đủ mở 1 lớp, có giáo viên đảm bảo dạy tốt) có thể tổ chức vào học lớp 1 đặc
biệt học kỳ đầu học vỡ lòng và học kỳ hai học theo chương trình lớp 1. Nơi nào
số em này có ít, không tiện mở lớp 1 đặc biệt, các lớp vỡ lòng vẫn có nhiệm vụ
nhận vào học. Từ đầu năm học 1964-1965 trở đi, những học sinh vỡ lòng đủ 7 tuổi,
học đủ một năm rồi, nói chung đều được lên lớp 1, không nên để các em phải học
lại lớp vỡ lòng nữa, trừ trường hợp ốm đau, đi học vỡ lòng thất thường, hay học
vỡ lòng chưa được một học kỳ. Đối với những học sinh bỏ dở học cấp I và
còn đủ tuổi học cấp I cũng cần được huy động vào học càng nhiều càng tốt, đảm bảo
từ nay cho đến đầu năm học 1967-1968 cho xong.
Việc phổ cập vỡ lòng và cấp I lấy
xã và thị xã, khu phố ở thành phố, làm đơn vị có sở để thực hiện. Địa phương
nào huy động được 90% số trẻ 6 tuổi vào lớp vỡ lòng được coi là phổ cập vỡ lòng
và huy động được 90% số học sinh vỡ lòng lên cấp I được coi là bước đầu phổ
cập cấp I (địa phương này cần tiếp tục huy động tất cả các em lớn tuổi chưa
đi học hay bỏ dở việc học và còn đủ tuổi học vào cấp I).
Việc phổ cập vỡ lòng và phổ cập
cấp I có một ý nghĩa chính trị to lớn cho nên Bộ đề nghị các Ủy ban, Sở, Ty cần
quan tâm thực hiện cho tốt, có kế hoạch tuyên truyền, giải thích sâu rộng cho
nhân dân hiểu rõ trách nhiệm cho con em đi học và chuẩn bị đầy đủ giáo viên và
trường lớp để thu nhận các em.
Đối với cấp II, việc phát triển
phải căn cứ vào tình hình kinh tế và yêu cầu học tập của học sinh từng địa
phương. Chú ý nhận trước hết số học sinh tốt nghiệp lớp 4 ít tuổi và có trình độ
học khá vào lớp 5. Đối với số học sinh còn lại, Bộ đề nghị các tỉnh
nghiên cứu tổ chức các trường, lớp riêng học ít giờ hơn trong một tuần và theo
một chương trình tinh giản hơn, do một số thanh niên có trình độ văn hóa lớp 10
giảng dạy, có sự giúp đỡ của giáo viên trường phổ thông. Các trường phổ thông
nông nghiệp cần được duy trì, củng cố về các mặt tổ chức, nội dung, phương pháp
và tiếp tục mở ở những nơi có điều kiện (có đông học sinh lớn tuổi, địa điểm
trường thuận tiện cho việc đi lại của học sinh, nhất là có giáo viên kỹ thuật,
có cơ sở thí nghiệm tương đối tốt).
Các trường phổ thông cấp III
phát triển có mức độ, nghĩa là vẫn phát triển chứ không phải không phát triển nữa,
cho nên cần đề phòng tư tưởng ngừng phát triển cấp III. Tỉnh nào dự định mở trường
mới, nên bàn với Bộ trước khi phổ biến cho nhân dân và học sinh.
Đối với miền núi cần chú trọng đẩy
mạnh công tác thanh toán nạn mù chữ ở vùng rẻo cao, và xóa xong nạn mù chữ cho
những người từ 12 đến 40 tuổi ở vùng thấp còn lại. Phải đẩy mạnh phong trào bổ
túc văn hóa, chú ý phát triển lớp 1. Đa số cán bộ chủ chốt xã từ 40 tuổi trở xuống
và một số thanh niên tiền tiến ở xã và hợp tác xã ở vùng thấp phải học hết lớp
3. Đối tượng chủ chốt và một số đối tượng chính ở vùng cao phải có trình độ lớp
2. Phải coi trọng việc mở các lớp bổ túc văn hóa tập trung ở huyện hay liên xã
cho cán bộ miền núi. Phải ra sức củng cố và phát triển trường thanh niên dân tộc
ở huyện và tỉnh cho thanh niên các dân tộc.
Mở rộng phong trào mẫu giáo ở
nông thôn những nơi có điều kiện và tương đối tập trung. Đẩy mạnh việc phát triển
và nâng cao chất lượng các lớp vỡ lòng; tích cực thực hiện phổ cập cấp 1 trong
năm học 1965-1966.
Tiếp tục phát triển cấp II; cấp
III phát triển theo yêu cầu và khả năng. Đặc biệt chú trọng phát triển cấp II ở
vùng cao, tạo mọi điều kiện đưa con em các dân tộc ít người vào học cấp II và cấp
III.
Tiếp tục nghiên cứu và sử dụng rộng
rãi việc dạy chữ dân tộc trong các trường phổ thông cấp I, các lớp thanh toán nạn
mù chữ và bổ túc văn hóa, và trong đời sống hàng ngày.
Nghiên cứu chấp hành đúng tinh
thần nghị quyết hội nghị giáo dục miền núi họp từ ngày 29-31 tháng 5-1964.
Trong việc phát triển giáo dục phổ thông trong năm học 1964-1965, Bộ đề nghị
các Ủy ban, Sở, Ty lưu ý đến mấy vấn đề dưới đây:
1. Vấn đề số
lượng học sinh trong một lớp.
Trước đây, khi giáo dục chưa
phát triển mạnh, Bộ đã quy định số học sinh bình quân mỗi lớp là 50 để làm cơ sở
cho việc tổ chức lớp học và tính toán kế hoạch. Ngày nay quy định đó không
thích hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục và không phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay. Năm 1962-1963 số học sinh bình quân ở cấp I là 42, cấp
II là 51, cấp III là 50; năm 1963-1964 ở cấp I là 40, cấp II là 48 và cấp III
là 48. Tuy nhiên không phải các tỉnh đều có số học sinh bình quân ở mỗi lớp
và mỗi cấp như nhau, có tỉnh cao hơn và có tỉnh thấp hơn. Vì vậy quy định một số
nào đó chung cho các tỉnh không phù hợp với tình hình thực tế. Bộ đề nghị sửa lại
số học sinh bình quân ở cấp I và 44, ở cấp II, cấp III là 48. (Ở miền núi cấp I
là 25, cấp II là 32 và cấp III là 44). Một điểm cần lưu ý là: những con
số quy định trên đây chỉ có tính chất hướng dẫn. Các tỉnh sẽ căn cứ vào
điều kiện, khả năng cụ thể của địa phương mình về số lượng giáo viên hiện có, về
tình hình đóng góp của học sinh và ngân sách Nhà nước mà định ra số học
sinh bình quân cho từng lớp, từng cấp cho thích hợp. Song tối thiểu mỗi
lớp cũng phải có 37 học sinh đối với cấp I, 40 học sinh đối với cấp II, III và tối
đa mỗi lớp chỉ được có 55 học sinh ở các cấp (ở miền núi, số học sinh tối
thiểu là 15 ở cấp I, II; 25 ở cấp III; số học sinh tối đa là 40 ở cấp I và 50 ở
cấp II và III.
2. Vấn đề học
sinh học hai buổi trong một ngày
Để đảm bảo sức khỏe cho học sinh
và để cho việc học của học sinh đạt kết quả tốt, Bộ chủ trương bắt đầu từ năm học 1964-1965
các trường cấp I ở thành phố, thị xã, thị trấn sẽ học hai buổi (sáng và chiều).
Các trường cấp I ở nông thôn và các trường cấp II,III (ở nông thôn và thành phố)
phải tích cực chuẩn bị mọi điều kiện (trường lớp, giờ học, tư tưởng học sinh,
giáo viên và nhân dân…) để từ đầu năm học 1965-1966 sẽ dần dần thực hiện trên
cơ sở thực tế.
Đây là một chủ trương mới, thay
đổi bản nếp sinh hoạt của nhà trường và của học sinh từ trước đến nay, có ảnh
hưởng đến nhiều mặt (tổ chức, cơ sở vật chất, tư tưởng sinh hoạt v .v… của cán
bộ và nhân dân), cho nên khi thực hiện sẽ có nhiều khó khăn. Song vì lợi ích học
tập của học sinh, Bộ đề nghị các Sở, Ty Giáo dục cố gắng thực hiện bằng được và
đề nghị các Ủy ban hết sức giúp đỡ các Sở, Ty Giáo dục. Nơi nào quả thật có nhiều
khó khăn thì cần tích cực chuẩn bị để chậm nhất là sang học kỳ II có thể thực
hiện được.
3. Vấn đề
đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng giáo viên
Bộ đã quy định bốn tiêu chuẩn cơ
bản của giáo viên; cho nên từ nay về sau việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên
các cấp đều phải nhằm đạt được bốn tiêu chuẩn đó (xem lại văn bản của hội nghị
đào tạo và bồi dưỡng giáo viên tổ chức tại Hà-nội hồi tháng 7 năm 1964).
Về vấn đề đào tạo giáo viên, hiện
nay Bộ đang nghiên cứu để cải tổ lại hệ thống sư phạm và sẽ áp dụng từ năm học
1964-1965 sắp tới.
Đối với các giáo viên đang dạy
các Sở, Ty Giáo dục sẽ căn cứ vào bốn tiêu chuẩn của thầy giáo, để có chủ
trương:
- Bồi dưỡng cho những người
trình độ còn non yếu, nhưng vẫn có khả năng dạy được cấp đang dạy.
- Đưa những người trước đây đề bạt
lên dạy cấp trên, nay xét không đủ khả năng dạy cấp đó nữa về dạy ở cấp dưới
như trước.
- Chuyển những người xét không
còn đủ tiêu chuẩn làm giáo viên nữa về lao động sản xuất hoặc nếu có điều kiện,
chuyển sang ngành khách thích hợp với khả năng hơn. Vấn đề bồi dưỡng cho những
người trình độ còn non yếu phải được đặc biện chú ý hơn cả. Trong việc bồi dưỡng
phải chú ý cả về bốn mặt: tư tưởng chính trị, đạo đức, văn hóa nghiệp vụ, sức
khỏe, song việc bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, đạo đức lại cấp thiết nhất.
Bộ yêu cầu các Ủy ban và các Sở, Ty cố gắng dành một lực lượng thích đáng về
nhân lực, tài lực để làm tốt công tác bồi dưỡng giáo viên. Việc bồi dưỡng giáo
viên tiến hành theo hai hình thức tập trung và tại chức. Các trường sư phạm hiện
có cần được sử dụng trong công tác đào tạo hoặc bồi dưỡng giáo viên cho năm học
1964-1965 và cho những năm học sắp tới cho nên phải được duy trì. Tỉnh nào muốn
bãi bỏ trường sư phạm (cấp I hay cấp II) phải thỉnh thị và chờ ý kiến quyết định
của Bộ.
Việc đưa giáo viên trở về dạy cấp
cũ hay đưa ra ngoài ngành giáo dục cần phải tiến hành một cách hết sức thận trọng,
chú ý giải quyết tốt vấn đề tư tưởng và chính sách.
Gần đây, một số tỉnh báo cáo là
thừa giáo viên vì học sinh phổ thông bỏ học nhiều, và đề nghị cho chuyển về sản
xuất hay sang các ngành khác. Theo ý kiến của Bộ thì đối với ngành giáo dục phổ
thông có thể có hiện tượng thừa giáo viên, nhưng cũng chỉ là tạm thời, trước mắt.
Vì nhiệm vụ phổ cập vỡ lòng và phổ cập cấp I, công tác bổ túc văn hóa đang cần
và sẽ còn cần rất nhiều giáo viên: công tác bồi dưỡng giáo viên một khi được
các tỉnh quan tâm hơn nữa cũng sẽ yêu cầu tăng thêm giáo viên thay thế cho những
người được cử đi học.
Cho nên, Bộ đề nghị các tỉnh nếu
thấy giáo viên phổ thông không sử dụng hết thì nên giữ lại để làm công tác phổ
cập giáo dục cấp I, công tác bổ túc văn hóa, thực hiện chủ trương bồi dưỡng
giáo viên hoặc tạm thời đưa xuống dạy cấp dưới, không nên chuyển đi ngành khác,
hoặc đưa và địa phương tham gia sản xuất.
4. Vấn đề
xây dựng cơ sở vật chất và thiết bị nhà trường.
Trong mấy năm qua, các tỉnh đã cố
gắng nhiều trong việc xây dựng và thiết bị nhà trường, nhưng đến nay số trường
lớp không đúng quy cách, thiếu bàn ghế và đồ dùng giảng dạy vẫn còn nhiều. Năm
học tới, thực hiện chủ trương không ngừng nâng cao chất lượng giáo viên phổ
thông, đẩy mạnh phổ cập vỡ lòng và phổ cập cấp I, vấn đề xây dựng và thiết bị
trường sở lại trở thành cấp thiết. Bộ đề nghị các Ủy ban và các Sở, Ty có biện
pháp vận động nhân dân, giáo viên, học sinh tích cực hơn nữa trong việc tu sửa
lại các trường học, nhất là các lớp vỡ lòng, tu sửa các bàn ghế đã hư hỏng và
xây dựng một số trường, lớp mới, cộng thêm một số bàn ghế mới bổ sung cho những
lớp còn thiếu. Các Sở, Ty cần đôn đốc và theo dõi các trường trồng cây lấy gỗ
làm trường cho những năm sau, giúp đỡ, kiểm tra các trường xây dựng các tủ dụng
cụ giảng dạy, các phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn trường v .v…
Nhiệm vụ kế hoạch phát triển
giáo dục trong năm học 1964-1965 rất nặng. Hiện thời, trong công tác giáo dục
đang có một số khó khăn. Vì vậy, Bộ đề nghị các Ủy ban hết sức giúp đỡ các Sở,
Ty Giáo dục thực hiện các chủ trương đề ra trong văn bản này, chú trọng trước hết
đến công tác bổ túc văn hóa cho đối tượng chủ chốt, đến công tác phổ cập vỡ
lòng và phổ cập cấp I và đến công tác bồi dưỡng giáo viên.
Các Sở, Ty Giáo dục khi chấp
hành những nhiệm vụ trên, một mặt cần nâng cao tinh thần triệt để cách mạng, chống
tư tưởng hữu khuynh dụt dè, tiêu cực, bảo thủ, ngại khó, cần đề cao ý thức
tự lực cánh sinh, ý thức kỷ luật, vượt khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, một mặt
cần cải tiến phương pháp chỉ đạo, đi sâu nắm vững tình hình, nắm vững trọng
tâm, trọng điểm, tăng cường công tác quản lý kế hoạch và công tác thống kê, thường
xuyên đôn đốc theo dõi kiểm tra; mặt khác phải coi trọng công tác tư tưởng
trong giáo viên, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giải thích mục đích giáo dục phổ
thông hơn nữa trong cán bộ và trong nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua “hai
tốt” trong nhà trường, phong trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai” trong
cơ quan giáo dục các cấp; sơ kết, tổng kết kinh nghiệm và phổ biến sâu rộng những
kinh nghiệm tốt, những điển hình tốt; chú ý phát hiện những nhân tố mới trong
phong trào và tích cực phát huy kịp thời những nhân tố mới, không ngừng bồi dưỡng
và đẩy mạnh phong trào thi đua.
Trong khi chấp hành, nếu gặp khó
khăn, trở ngại gì, đề nghị các Ủy ban Sở, Ty báo cáo cho Bộ biết để kịp thời giải
quyết.
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Khánh Toàn
|