BAN TÀI CHÍNH-QUẢN
TRỊ TRUNG ƯƠNG-BỘ TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 60-TT/LB
|
Hà Nội , ngày 16
tháng 10 năm 1992
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA LIÊN BỘ TÀI CHÍNH - BAN TÀI CHÍNH - QUẢN TRỊ TW SỐ 60 -
TT/LB NGÀY 16-10-1992 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH SỐ 247-CT NGÀY 2-7-1992 CỦA
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ MỘT SỐ CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC LÀM KINH TẾ TRỰC
TIẾP XÂY DỰNG NGÂN SÁCH CỦA ĐẢNG
Thi hành Quyết định số 247-CT
ngày 2-7-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số chế độ đối với các tổ
chức làm kinh tế trực tiếp xây dựng ngân sách của Đảng, Bộ Tài chính và Ban tài
chính - Quản trị Trung ương hướng dẫn thực hiện như sau:
I. PHẠM VI VÀ
ĐỐI TƯƠNG ÁP DỤNG.
1. Các công ty, xí nghiệp sản xuất,
kinh doanh dịch vụ hạch toán kinh tế độc lập (dưới đây gọi tắt là các cơ sở sản
xuất kinh doanh) thuộc quyền sở hữu của Đảng, do Ban Tài chính - Quản trị Trung
ương hoặc Ban tài chính - quản trị các tỉnh uỷ, thành uỷ (gọi tắt là cơ quan
tài chính của Đảng) thành lập để trực tiếp xây dựng ngân sách của Đảng, được
bình đẳng trước pháp luật như mọi thành phần kinh tế khác, được hoạt động sản
xuất, kinh doanh trên các lĩnh vực theo khuôn khổ qui định của Nhà nước, nộp mọi
khoản thuế theo luật định, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức
năng của Nhà nước và của Đảng.
2. Tất cả các cơ sở sản xuất
kinh doanh của Đảng hiện đang hoạt động, phải làm các thủ tục đăng ký lại như
qui định tại Quyết định số 196-CT ngày 5-6-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Thông tư số 40-TC/TCT-CS ngày 22-8-1992 của Bộ Tài chính và hướng dẫn đăng ký
kinh doanh của Ban tài chính-quản trị Trung ương tại văn bản số 376-SX/TCQT
ngày 13-8-1992.
II. NỘP THUẾ
VÀ CẤP LẠI TIỀN THUẾ.
Điều 3 Quyết định 247-CT của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng qui định: "Từ năm 1992 đến hết năm 1996, Nhà nước
trợ cấp cho ngân sách Đảng một khoản tương đương với số thuế mà các tổ chức
kinh tế nói ở điểm 1 quyết định này nộp vào Ngân sách Nhà nước theo luật định,
để đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh của các tổ chức làm kinh tế và bổ sung một
phần kinh phí hoạt động của Đảng". Hướng dẫn cụ thể việc thực hiện như
sau:
1. Trách nhiệm nộp thuế của cơ sở
sản xuất kinh doanh.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh của
Đảng phải thực hiện đúng các luật thuế đã qui định về kê khai đăng ký kinh
doanh nộp đúng, đủ và kịp thời các loại thuế phải nộp vào kho bạc nhà nước nơi
đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động.
2. Trình tự, thủ tục nộp thuế, hạch
toán và cấp lại các loại thuế đã nộp (không kể thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu).
a) Căn cứ vào chế độ, thủ tục kê
khai, thu nộp của từng loại thuế đã qui định trong các luật thuế, pháp luật thuế
và các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính, cơ quan thuế có trách nhiệm hướng dẫn,
kiểm tra, đôn đốc các cơ sở sản xuất kinh doanh kê khai và nộp thuế đầy đủ,
đúng hạn vào Ngân sách Nhà nước. Khi thu thuế, cơ quan thuế phải cấp cho cơ sở
nộp thuế biên lai thuế, ghi rõ số tiền và loại thuế đã nộp (biên lai do Bộ Tài
chính phát hành).
b) Cơ quan kho bạc Nhà nước căn
cứ vào số tiền thuế và loại thuế đã nộp của từng cơ sở sản xuất kinh doanh để hạch
toán vào đúng các chương - khoản - hạng mục của mục lục Ngân sách Nhà nước, như
sau:
- Đối với số tiền thuế đã nộp của
các cơ sở sản xuất kinh doanh đóng trên địa bàn, nhưng trực thuộc Ban tài chính
- quản trị Trung ương quản lý thì ghi rõ vào chương 85A thuộc loaị - khoản - hạng
tương ứng và mục 47 "thu khác của ngân sách trung ương", kho bạc nhà
nước hạch toán số tiền thuế này vào tài khoản 741 đồng thời để lại 100% ghi vào
"tiểu khoản ngân sách trung ương", để Bộ Tài chính cấp lại số tiền
thuế đã nộp cho Ban tài chính - quản trị trung ương.
- Đối với số tiền thuế đã nộp của
các cơ sở sản xuất kinh doanh đóng trên địa bàn, nhưng trực thuộc Ban tài chính
- quản trị của tỉnh uỷ hoặc thành uỷ quản lý thì ghi vào chương 85B thuộc loaị
- khoản - hạng tương ứng và mục 47 "thu khác của ngân sách địa
phương", đồng thời kho bạc nhà nước hạch toán số tiền thuế này vào tài khoản
741, để lại 100% cho ngân sách địa phương, để sở tài chính cấp lại số tiền thuế
đã nộp cho Ban tài chính - quản trị tỉnh uỷ hoặc thành uỷ.
c) Việc cấp lại tiền thuế đã nộp
được thực hiện hàng quý như sau:
- Sau mỗi quý, Ban tài chính -
quản trị trung ương tổng hợp các biên lai nộp thuế của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh trực thuộc Ban tài chính - quản trị trung ương quản lý đã nộp vào ngân
sách nhà nước, có xác nhận của cơ quan thuế và cơ quan kho bạc địa phương gửi đến
Bộ Tài chính (Vụ 1 và Vụ ngân sách nhà nước). Sau khi kiểm tra các biên lai nộp
thuế nói trên, Bộ Tài chính sẽ cấp lại số tiền thuế đã nộp cho Ban tài chính -
quản trị trung ương.
- Sau mỗi quý, Ban tài chính -
quản trị tỉnh uỷ hoặc thành uỷ, tổng hợp các biên lai nộp thuế của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh trực thuộc mình đã nộp thuế vào ngân sách nhà nước, có xác nhận
của cơ quan thuế và cơ quan kho bạc địa phương gửi đến sở tài chính vật giá
(Phòng quản lý ngân sách nhà nước). Sau khi kiểm tra các biên lai nói trên ,bộ
tài chính sẽ cấp lại số tiền thuế đã nộp cho Ban tài chính - quản trị tỉnh uỷ,
thành uỷ.
3. Trình tự, thủ tục nộp thuế, hạch
toán và xét cấp lại tiền thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu
đã nộp.
a) Các cơ sở làm kinh tế trực tiếp
xây dựng ngân sách Đảng nói tại điểm 1, mục 1 Thông tư này, nếu có hoạt động xuất,
nhập khẩu thì phải nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nếu có sản xuất các mặt
hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt,
theo đúng qui định trong các luật thuế và theo văn bản hướng dẫn thi hành. Khi
thu thuế, cơ quan thu thuế phải cấp cho cơ sở nộp thuế biên lai thu thuế ghi rõ
số tiền và loại thuế đã nộp (biên lai do Bộ Tài chính phát hành).
b) Cơ quan kho bạc nhà nước căn
cứ vào tiền thuế và loại thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt
đã nộp của tất cả các cơ sở làm kinh tế trực tiếp xây dựng ngân sách Đảng của
trung ương và địa phương ghi vào tài khoản thu ngân sách trung ương.
c) Xét cấp lại tiền thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Sau mỗi quí, căn cứ vào bản tổng
hợp của các Ban tài chính - quản trị tỉnh uỷ, thành uỷ về số thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp, Ban tài chính quản trị trung
ương tổng hợp cùng với số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc
biệt của các đơn vị trực thuộc Trung ương đã nộp gửi Bộ Tài chính. Sau khi kiểm
tra, Bộ Tài chính làm thủ tục chuyển kịp thời cho Ban tài chính - quản trị
trung ương. Ban tài chính - quản trị trung ương phân phối số thuế này vào mục
đích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
III. TRỢ GIÚP
CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, ĐỂ TẠO CƠ SỞ VẬT CHẤT CHO SẢN XUẤT KINH DOANH
Điều 4 của Quyết định 247-CT đã
qui định "Trong trường hợp thật cần thiết, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ
Tài chính xem xét, giải quyết việc trợ giúp các tổ chức làm kinh tế trực tiếp
xây dựng ngân sách Đảng một phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị
và vốn lưu động trong khả năng Ngân sách nhà nước cho phép và tính vào phần
Ngân sách nhà nước trợ cấp cho ngân sách Đảng".
Cụ thể là:
Khi có phát sinh mới thật cần
thiết phải có vốn đầu tư, các cơ quan tài chính Đảng phải lập luận chứng kinh tế
kỹ thuật trình cơ quan Đảng có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở đó Bộ Tài chính
và Uỷ ban Kế hoạch nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Khoản trợ cấp giúp này cũng được
ghi bổ sung vào phần Ngân sách nhà nước trợ giúp ngân sách Đảng trong năm. Các
đơn vị sản xuất, kinh doanh được trợ giúp đột xuất phải có trách nhiệm quản lý
chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả.
IV. SỬ DỤNG
VÀ QUẢN LÝ
Tiền thuế cấp lại cho ngân sách
Đảng được coi như nguồn kinh phí Nhà nước trợ cấp cho ngân sách Đảng để đầu tư
mở rộng sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế và để bổ sung một phần
kinh phí hoạt động của Đảng. Tiền thuế được cấp lại phân phối như sau:
- Dùng phần lớn số thuế để đầu
tư mở rộng sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Nguồn vốn này cần phải
được quản lý như nguồn vốn ngân sách cấp. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải
có dự án được duyệt mới được sử dụng nguồn vốn này.
- Số thuế còn lại dùng để bổ
sung kinh phí hoạt động của Đảng và ngoài ngân sách hàng năm đã thông báo cho
ngân sách Đảng.
Tất cả số thuế chuyển trợ cấp lại,
các nguồn vốn ngân sách trợ cấp giúp theo kế hoạch và đột xuất, cũng như nguồn
vốn tự bổ sung của các cơ sở kinh tế đều phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng
đúng qui định và phải được thể hiện trong sổ sách kế toán của từng đơn vị, phải
thực hiện theo chế độ quản lý vốn của Nhà nước, hàng quí, năm các cơ sở sản xuất,
kinh doanh phải báo cáo, quyết toán theo chế độ qui định hiện hành. Ban tài
chính - quản trị trung ương tổng hợp quyết toán ngân sách báo cáo Ban bí thư và
đồng gửi Bộ Tài chính. Hàng quí, năm Ban tài chính - quản trị tỉnh uỷ, thành uỷ
làm báo cáo quyết toán với Ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ đồng thời gửi Sở tài
chính vật giá, theo các nội dung như gửi Ban tài chính - quản trị trung ương.
V. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Việc nộp thuế và cấp lại tiền
thuế là hai hoạt động riêng biệt về thu ngân sách và cấp phát từ ngân sách. Cơ
quan tài chính nhà nước và cơ quan thuế các cấp chịu trách nhiệm hướng dẫn kiểm
tra về mặt nghiệp vụ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải làm đầy đủ các thủ
tục: đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và nộp thuế tại cơ quan thuế địa phương.
Thực hiện việc mở sổ sách theo Pháp lệnh kế toán, thống kê và chịu sự quản lý,
kiểm tra của cơ quan thuế và cơ quan chức năng khác của Nhà nước.
2. Cơ quan tài chính - quản trị
trung ương Đảng và các tỉnh uỷ, thành uỷ có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, kiểm
tra đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh về thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế,
làm các thủ tục xin cấp lại và phân phối tiền thuế được cấp lại đúng mục đích
có hiệu quả.
3. Tổng số thuế thu được từ các
tổ chức làm kinh tế của Đảng được tính vào kết quả thực hiện kế hoạch thu hàng
năm của hệ thống thuế nhà nước.
4. Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ 1-10-1992, bãi bỏ Thông tư số 02-TT/LB ngày 19-11-1990 của Liên bộ Tài
chính - Ban tài chính - quản trị trung ương.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có khó khăn vướng mắc cần kịp thời báo cáo Bộ Tài chính và Ban tài chính - quản
trị trung ương để nghiên cứu giải quyết.
Hồ
Tế
(Đã
ký)
|
Lê
Đức Thịnh
(Đã
ký)
|