BỘ
TÀI CHÍNH-BỘ NÔNG TRƯỜNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
31-TT-LB
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 12 năm 1963
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI CÁC NÔNG TRƯỜNG
QUỐC DOANH
Nhiệm vụ của ngành Nông trường
quốc doanh ngày càng to lớn trong việc phục vụ kế hoạch phát triển nền kinh tế
quốc dân và tích lũy vốn cho Nhà nước để thực hiện công nghiệp hóa nước nhà.
Hiện nay các nông trường quốc
doanh cũng sản xuất, chế biến và kinh doanh nhiều mặt hàng như các xí nghiệp quốc
doanh khác, việc áp dụng chế độ thuế khóa cần phải thống nhất để bảo đảm tích
lũy cho Nhà nước, đồng thời phát huy tác dụng giám đốc bằng đồng tiền các hoạt
động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Căn cứ tinh thần điều lệ thuế hiện
hành do các Nghị định số 421-TTg, 425-TTg ngày 18-12-1954 và Thông tư số
437-TTg ngày 18-12-1954 của Thủ tướng Chính phủ ban hành, liên Bộ Tài chính-
Nông trường hướng dẫn việc thi hành đối với các nông trường quốc doanh cụ
thể như sau:
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC THỂ LỆ ÁP DỤNG CỤ THỂ ĐỐI VỚI CÁC
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH.
A. THUẾ DOANH NGHIỆP:
1. Các sản phẩm trồng
trọt của nông trường đã qua chế biến, thì khi bán ra phải nộp thuế doanh
nghiệp 2% trên doanh số bán ra như: bán sắn lát, khoai lát khô, bột sắn, bột
khoai, chuối khô, bánh kẹo v .v… (ngô xay, gạo, khoai sắn khô của nông trường
được để lại bán cho công nhân viên theo chế độ phân phối lương thực của Nhà nước
thì không phải nộp thuế doanh nghiệp vào phần đó). Các sản phẩm trồng trọt của
nông trường quốc doanh chưa qua chế biến thì khi bán ra không phải nộp thuế
doanh nghiệp, ví dụ: bán thóc, gạo, ngô, khoai sắn tươi, cam quýt, chuối tươi v
.v…
2. Đối với các sản phẩm
chăn nuôi của nông trường thì về nguyên tắc khi bán ra đều phải nộp thuế doanh
nghiệp 3% trên doanh số bán ra. Tuy nhiên, để chiếu cố những khó khăn hiện nay
của các nông trường, trong việc chăn nuôi lợn, gà, cừu, tạm thời chưa thu thuế
doanh nghiệp vào các gia súc đó. Trường hợp điều chuyển nội bộ các loại: trâu
bò, lợn, cừu từ vốn lưu động lên tài sản cố định, hoặc chuyển gia súc giống từ
nông trường này đến nông trường khác theo kế hoạch của Bộ Nông trường thì không
phải nộp thuế doanh nghiệp vào doanh số đó.
3. Các nông trường có
khai hoang hoặc tổ chức khai thác lâm sản như: gỗ, củi và các lâm sản khác thì
ngoài việc nộp tiền bán khoản lâm sản, khi bán ra còn nộp thuế doanh nghiệp về
kinh doanh khai thác 2% trên giá bán. Nếu nông trường tự tổ chức chế biến lâm sản
như: xẻ gỗ, gỗ ván sàn, gỗ tà vẹt, đóng bàn ghế, giường và làm than hầm, v .v…
thì chỉ phải nộp một lần thuế doanh nghiệp 2% trên doanh số bán các sản phẩm
nói trên.
4. Nông trường có những
phương tiện vận tải như: ô-tô, xe bò, xe ngựa để chuyển vận trong nội bộ nông
trường thì không phải nộp thuế, nếu có chở thuê cho ngoài thì phải nộp thuế 3%
trên doanh số cước phí thu được.
5. Nông trường có bộ
phận sửa chữa máy móc trong nội bộ nếu có chữa thuê cho ngoài thì nộp 5% trên
doanh số thu được về sửa chữa.
6. Đối với một số vật
liệu kiến trúc như: vôi, gạch, ngói…của nông trường sản xuất ra thì phần để lại
dùng vào kiến thiết cơ bản trong nông trường không phải nộp thuế, phần bán ra
ngoài thì phải nộp thuế doanh nghiệp 2%.
B. THUẾ HÀNG HÓA:
Thuế hàng hóa đánh vào một loại
hàng theo những thuế suất nhấn định ghi ở hàng thuế biểu kèm theo theo điều lệ
tạm thời về thuế hàng hóa số 426-TTg ngày 18-12-1954. Trị giá hàng dùng làm căn
cứ để tính thuế, gọi tắt là “giá tính thuế” do cơ quan tài chính địa phương ấn
định (đối với hàng công nghệ phẩm sản xuất trong nước giá tính thuế là giá bán
buôn công nghiệp; đối với sản phẩm nông lâm nghiệp sản xuất trong nước, giá
tính thuế là giá bán buôn (trong đó có cả thuế) của mậu dịch quốc doanh ở địa
phương).
Kèm theo đây bảng thuế suất về một
số loại hàng mà các nông trường hiện đang sản xuất, trong đó có 5 mặt hàng hiện
nay sản xuất của nông trường còn gặp khó khăn, tạm thời chưa thu thuế hàng hóa
là: dầu sả, cà phê xuất khẩu (cà phê bán nội địa, vẫn phải nộp thuế hàng hóa),
sữa hộp, sữa bánh, chè băm do nông trường tận dụng lá già trong các đợt đốn chè
và trực tiếp chế biến lấy.
C. THUẾ SÁT SINH:
Trong lúc chờ đợi ban hành những
bổ sung về điều lệ thuế sát sinh cho thích hợp với tình hình mới, liên Bộ căn cứ
những nguyên tắc thể lệ thuế sát sinh hiện hành nhắc lại một số điểm chính sau
đây:
- Thuế sát sinh đánh vào bốn loại
súc vật giết thịt là: trâu, bò, lợn, dê.
- Người tự chăn nuôi súc vật ít
nhất trên ban thàng được ủy ban hành chính địa phương cho phép mổ để ăn thì được
miễn thuế sát sinh về phần thịt để lại ăn, còn phần bán ra thì phải nộp thuế.
Thuế suất thuế sát sinh ấn định
là 10% trên giá con vật mổ thịt. Giá con vật mổ thịt căn cứ vào trọng lượng con
vật sau khi đã mổ thịt và giá tính thuế cơ quan tài chính ấn định, căn cứ giá
bán buôn trên thị trường trong đó có cả thuế.
Đối với nông trường, mua súc vật
về giết thịt cũng như trường hợp được phép giết súc vật do các tổ, đội sản xuất
chăn nuôi đều phải nộp thuế sát sinh dù mổ để ăn trong các dịp liên hoan hay mổ
bán cho các bếp ăn tập thể hoặc bán ra ngoài. Riêng đối với các tổ chức công
đoàn phân công viên tranh thủ chăn nuôi ngoài giờ hành chính nếu giết súc vật tự
chăn nuôi trên ba tháng để ăn thì được miễn thuế sát sinh về phần thịt để ăn,
phần dư bán ra vẫn phải nộp thuế.
II. THỦ TỤC NỘP THUẾ
1. Về thuế doanh nghiệp: Nông
trường có nhiệm vụ khai báo và nộp thuế cho cơ quan tài chính ở gần nơi cơ quan
văn phòng nông trường đó trụ sở (phòng tài chính huyện). Thuế doanh nghiệp
thu hai lần trong một tháng.
Lần thứ nhất, từ ngày 15 đến 20
hàng tháng tính trên doanh số đã thực hiện 15 ngày đầu tháng.
Lần thứ hai, vào ngày 5 đầu
tháng sau, tính trên doanh số đã thực hiện cả tháng sau khi đã trừ số thuế đã nộp
lần thứ nhất. Nếu chưa có điều kiện kết toán doanh thu hàng tháng đúng hạn thì
sẽ căn cứ vào kế hoạch kinh doanh tiêu thụ hàng tháng mà tính thuế (lần đầu 50%
kế hoạch, lần thứ hai 50%) sau khi kết toán được doanh thu sẽ điều chỉnh lại số
thuế đã nộp, nếu thiếu thì nộp thêm ngay, thừa thì để trừ vào tháng sau.
2. Về thuế hàng hóa: Thuế
hàng hóa phải nộp ngay tại nông trường khi bắt đầu vận chuyển hàng đi và nộp từng
chuyến hàng một, nên khi bán hàng nông trường phải tính giá bán là giá có cả
thuế hàng hóa để rồi nông trường sẽ trích số thuế đó ra nộp cho cơ quan tài
chính địa phương. Nông trường là cơ sở sản xuất ra hàng hóa phải có nghĩa vụ
khai báo và nộp thuế đầy đủ, kịp thời. Sau khi đã thu thuế, cơ quan thuế địa
phương cấp giấy chứng nhận đã nộp thuế để mang kèm theo hàng chuyển vận đi.
3. Tổ chức công đoàn ở
nông trường có kinh doanh và chế biến thì cũng áp dụng chế độ thuế nói chung.
III. NHIỆM VỤ CHẤP HÀNH CHÍNH SÁCH THUẾ CỦA CÁC NÔNG TRƯỜNG
VÀ CƠ QUAN TÀI CHÍNH
ĐỊA PHƯƠNG:
1. Các nông trường quốc doanh có nhiệm
vụ:
- Tổ chức học tập phổ biến chính
sách thể lệ thuế xuống đến tổ, đội sản xuất.
- Nghiêm chỉnh chấp hành chế độ
khai báo và nộp thuế cho cơ quan tài chính địa phương.
- Triệt để chấp hành kỷ luật nộp
sản phẩm cho Nhà nước và tích cực giúp đỡ các cơ quan tài chính và các cơ quan
khác có trách nhiệm thu mua nông sản phẩm và quản lý thị trường.
- Các bộ phận tài vụ kế toán, kế
hoạch và cung tiêu chế biến phải nghiên cứu tính toán để ghi chi tiêu tiền thuế
phải nộp vào ngân sách Nhà nước trong các kế hoạch thu chi tài vụ kế hoạch giá
thành hàng bán ra.
- Nông trường phải gửi báo cáo tình
hình sản xuất, tiêu thụ, lỗ lãi nộp ngân sách hàng tháng, hàng quý, năm cho cơ
quan tài chính và thường xuyên trao đổi bàn bạc với cán bộ tài chính địa phương
trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, để cùng nhau thực hiện tốt nhiệm vụ
thu nộp vào ngân sách Nhà nước và thi hành đầy đủ chế độ kế toán tài vụ Nhà nước
đã ban hành.
2. Cơ quan tài chính địa phương có nhiệm
vụ:
- Giúp đỡ các nông trường tổ chức
việc phổ biến học tập chính sách và thể lệ thuế.
- Giám sát và đôn đốc các nông
trường thực hiện thu nộp kịp thời và đầy đủ các loại thuế, lợi nhuận và khấu
hao vào ngân sách Nhà nước và giúp đỡ nông trường giải quyết những khó khăn trở
ngại trong sản xuất tiêu thụ để nông trường có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Cán bộ tài chính chuyên trách phải
thường xuyên đi sát từng nông trường, đi sâu vào kế toán, tài vụ để giúp nông
trường thực hiện đúng chế độ đã ban hành và nắm chắc mọi hoạt động kinh tế của
nông trường để cùng nông trường đã tham gia xây dựng kế hoạch thu chi tài vụ và
xét duyệt quyết toán của nông trường.
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ NÔNG TRƯỜNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Trí
|