BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
54-TC/TCĐN
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 11 năm 1989
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 54-CT/TCĐN NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 1989 HƯỚNG
DẪN CHẾ ĐỘ BÁN NGOẠI TỆ NGHĨA VỤ CHO QUỸ NGOẠI TỆ TẬP TRUNG CỦA NHÀ NƯỚC
Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ
bán ngoại tệ nghĩa vụ đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ thu
ngoại tệ thuộc các Bộ ngành, các thành phần kinh tế của Trung ương và địa
phương theo Quyết định số 218-CT ngày 18-8-1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
như sau:
I- NGHĨA VỤ
BÁN NGOẠI TỆ CỦA CÁC ĐƠN VỊ CHO NHÀ NƯỚC ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ SAU
1. Đối với ngoại tệ tự do chuyển
đổi:
Tất cả các đơn vị có thu ngoại tệ
đều có nghĩa vụ bán ngoại tệ cho Nhà nước theo các mức quy định cho từng nhóm
hàng xuất khẩu và nhóm dịch vụ như sau:
Hàng
xuất khẩu
|
Mức
bán nghĩa vụ (tỷ lệ %)
|
- Nhóm khoáng sản và rau quả
tươi:
|
10% trên doanh thu theo giá
FOB
|
- Nhóm lương thực (gạo, ngô, sắn
lát..):
|
20% "
|
- Nhóm nông sản nguyên dạng và
lâm sản:
|
40% "
|
- Nhóm nông sản chế biến:
|
30% "
|
- Nhóm công nghiệp nhẹ và thuỷ
sản:
|
40% "
|
- Nhóm rau quả khô:
|
50% "
|
- Nhóm thủ công mỹ nghệ:
|
40% "
|
- Nhóm mây tre:
|
60% "
|
- Nhóm gia công:
|
30% trên tiền công
|
Nhóm dịch vụ thu ngoại tệ
- Các nhóm: vận tải đường biển,
hàng không, cung ứng tàu biển:
|
20% trên doanh thu
|
- Du lịch:
|
30% trên doanh thu
|
- Ngân hàng ngoại thương:
|
5% trên doanh thu
|
- Bưu điện, bảo hiểm:
|
10% trên doanh thu
|
- Cục phục vụ ngoại giao đoàn
và các dịch vụ khác của kinh tế đối ngoại (như kho vận, phòng thương mại,
giám định v.v...):
|
50% trên doanh thu
|
- Bán hàng trong nước thu ngoại
tệ:
|
5% trên doanh thu
|
Ghi chú: Nếu đơn vị thực
hiện việc nộp thuế, nộp thu quốc doanh, nộp lợi nhuận v v... bằng ngoại tệ thì
sau khi đã trừ đi các khoản nộp nói trên bằng ngoại tệ, số doanh thu còn lại sẽ
là cơ sở để tính mức bán nghĩa vụ cho Nhà nước.
Tỷ giá để mua ngoại tệ tự do
chuyển đổi nói trên là tỷ giá do Ngân hàng ngoại thương quy định.
Trường hợp xuất khẩu hàng hoá hoặc
cung cấp dịch vụ cho các nước ngoài khu vực xã hội chủ nghĩa để trả nợ chính phủ
thì căn cứ vào số ngoại tệ thực tế trừ nợ chính phủ, Bộ Tài chính sẽ trả lại
cho đơn vị trực tiếp giao hàng xuất khẩu tiền Việt Nam tương ứng theo tỷ giá
mua vào của Ngân hàng ngoại thương. Đơn vị chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ
tiền hàng, phí bảo hiểm, phí vận tải... bằng số tiền Việt Nam do Bộ Tài chính
đã trả.
Nếu có trường hợp chi phí của
đơn vị lớn hơn số tiền mà Bộ Tài chính trả thì đơn vị phải tự trang trải bằng
các nguồn khác, Bộ Tài chính không bù lỗ các trường hợp này.
2. Đối với ngoại tệ là Rúp chuyển
nhượng:
Theo chế độ quản lý tài chính về
xuất nhập khẩu theo Nghị định thư hiện nay và do tính chất hạn chế trong phương
thức thanh toán qua đồng Rúp chuyển nhượng, việc bán nghĩa vụ Rúp chuyển nhượng
được quy định như sau:
a) Đối với doanh thu Rúp chuyển
nhượng của các đơn vị được Nhà nước giao chỉ tiêu hàng xuất khẩu theo Nghị định
thư đã ký hàng năm thì không áp dụng phương thức bán nghĩa vụ như đối với doanh
thu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Toàn bộ số Rúp thu được do xuất khẩu được
Nhà nước thanh toán lại bằng tiền Việt Nam theo tỷ giá nhóm hàng, nhóm dịch vụ
mà Bộ Kinh tế đối ngoại xác định.
b) Đối với Rúp chuyển nhượng của
các đơn vị kinh doanh dịch vụ, kinh doanh xuất khẩu không nằm trong diện được Bộ
Kinh tế đối ngoại mua lại toàn bộ doanh thu:
- Nhà nước khuyến khích các đơn
vị kinh doanh đối ngoại có doanh thu RCN mở rộng quan hệ trực tiếp với bên được
nhận hàng hoá xuất khẩu (hoặc được nhận cung cấp dịch vụ) để họ thanh toán trả
lại bằng hàng hoá vật tư tương ứng với doanh thu ngoại tệ của đơn vị mình.
Trường hợp vì bên nhận hàng hoá
xuất khẩu (hoặc nhận cung cấp dịch vụ) không thanh toán bằng hàng hoá tương ứng
nên doanh thu ngoại tệ phải đưa vào thanh toán qua ngân hàng hợp tác kinh tế quốc
tế (MBES) thì Nhà nước mới mua số RCN này.
Số Rúp mà Nhà nước mua sẽ do đơn
vị tự nguyện bán một phần hay toàn bộ sau khi trừ đủ những khoản tiền bằng Rúp
mà đơn vị phải giữ lại để thanh toán với các đơn vị khác như các chi phí về bảo
hiểm và vận tải, chi mua hàng nhập khẩu, chi phí bồi thường thiệt hại do người
mua hàng xuất khẩu (hoặc người được cung cấp dịch vụ) khiếu nại.
Như vậy, Nhà nước không quy định
mức bán nghĩa vụ bắt buộc đối với số ngoại tệ RCN này. Số Rúp chuyển nhượng dự
kiến bán cần được đưa vào kế hoạch thu chi ngoại tệ của đơn vị gửi Bộ Tài chính
để Bộ Tài chính chủ động bố trí vào kế hoạch ngoại tệ chung của Nhà nước và kế
hoạch chi ngân sách Nhà nước.
- Thủ tục bán RCN qui định như
sau:
Đơn vị có phát sinh nguồn thu
RCN được Nhà nước mua cần thông báo cho Bộ Tài chính biết:
+ Xuất xứ của nguồn thu RCN mà
đơn vị dự kiến bán cho Bộ Tài chính.
+ Xác nhận của Ngân hàng Ngoại
thương Trung ương về việc số RCN đó đã đưa vào tài khoản thanh toán tại Ngân
hàng hợp tác kinh tế quốc tế (MBES).
+ Quyết toán giá thành hoặc chi
phí làm ra đồng RCN đó (bản quyết toán này phải có xác nhận của cơ quan tài
chính cùng cấp).
Sau khi nghiên cứu các tài liệu
trên. Bộ Tài Chính sẽ thoả thuận với đơn vị về mức tỷ giá để mua số RCN mà đơn
vị dự kiến bán. Mức tỷ giá thoả thuận này đảm bảo nguyên tắc bù đắp đủ những
chi phí hợp lý mà đơn vị đã bỏ ra.
3. Tổ chức việc mua bán ngoại tệ
cho qui ngoại tệ tập trung của Nhà nước, mối quan hệ giữa tài chính và ngân
hàng trong việc này.
Về việc Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam mua ngoại tệ của các đơn vị bán nghĩa vụ cho quĩ ngoại tệ tập trung của
Nhà nước:
Quy chế để thực hiện việc mua
bán ngoại tệ và chế độ quản lý thu chi ngoại tệ nói trong văn bản này vẫn thực
hiện theo Thông tư số 07-TC/TCĐN ngày 28-3-1989 của Bộ Tài chính "Hướng dẫn
việc quản lý và điều hành quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước".
Thông tư này chỉ hướng dẫn bổ
sung thêm một số điểm sau đây:
- Thực hiện nghiệp vụ mua ngoại
tệ cho quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được
hưởng một khoản thủ tục phí là 0,1% trên tổng số ngoại tệ mua được quy ra đồng
Việt Nam theo tỷ giá mua vào do Ngân hàng Nhà nước quy định (đối với đồng ngoại
tệ tự do chuyển đổi) và theo tỷ giá mua vào do Bộ Tài chính quy định (đối với
RCN).
- Bộ Tài chính mở các tài khoản
sau đây:
01-720-001: TK tiền gửi đồng Việt
Nam để mua ngoại tệ RCN
02-720-001: TK tiền gửi đồng Việt
Nam để mua ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Các tài khoản trên được mở tại
các chi nhánh ngân hàng ngoại thương nơi thực hiện nghiệp vụ mua ngoại tệ cho
Nhà nước.
Mỗi tài khoản nói trên được phép
"dư nợ" đến một tỷ đồng. Quá số dư một tỷ đồng Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam tạm ngừng việc mua ngoại tệ và đợi Bộ Tài chính chuyển tiền đến, khi đó
ngân hàng tiếp tục thực hiện việc mua ngoại tệ cho Nhà nước.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
tính toán lãi suất trên số "dư nợ" hoặc "dư có" của các tài
khoản nói trên theo các chế độ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước quy định rồi
"ghi nợ" hoặc "ghi có" vào các tài khoản đó và thông báo
cho Bộ Tài chính biết.
II - QUY ĐỊNH
VỀ VIỆC NỘP CÁC KHOẢN NGOẠI TỆ GHI TRONG ĐIỀU 2 QUYẾT ĐỊNH 218-CT VÀO QUỸ NGOẠI
TỆ TẬP TRUNG CỦA NHÀ NƯỚC
- Tất cả các khoản ngoại tệ quy
định trong Điều 2 của Quyết định số 218-CT ngày 18-8-1989 của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, dù phát sinh ở địa phương hay vùng lãnh thổ nào cũng đều là ngoại tệ
của Nhà nước. Ngân hàng Ngoại thương nơi phát sinh các khoản ngoại tệ nói trên
khi được các đơn vị có thu ngoại tệ đem đến nộp thì có trách nhiệm thu kịp thời
vào tài khoản tiền gửi quỹ ngoại tệ Nhà nước, đồng thời gửi giấy "báo
có" cho Bộ Tài chính và đơn vị biết.
Đối với các khoản ngoại tệ của
các Tổ chức quốc tế đài thọ cho hội nghị, hội thảo, lớp học và các dịch vụ do
Việt Nam đăng cai, đã được Bộ Tài chính hướng dẫn tại Thông tư số 19-TC/NTNT
tháng 6-1988 nay thống nhất thực hiện là: số ngoại tệ mà các đơn vị được các tổ
chức quốc tế trả để tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, lớp học và các dịch vụ
khác đều phải bán toàn bộ cho quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước theo tỷ giá
do Ngân hàng ngoại thương công bố. Đơn vị dùng tiền Việt Nam do bán ngoại tệ để
chi tiêu cho hội nghị, hội thảo, lớp học...
- Một số đơn vị đã được Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng duyệt (theo các văn bản ban hành sau ngày 01-01-1989) cho sử
dụng một phần (hoặc toàn bộ) nguồn ngoại tệ phải nộp nói trên, nếu đã có thực nộp
cho Nhà nước sau ngày 01-01-1989 thì phải làm báo cáo rõ về tình hình thực hiện
nguồn thu này và số đã nộp với Bộ Tài chính để Bộ Tài Chính chuyển trả lại số
ngoại tệ mà đơn vị đã nộp vào quỹ ngoại tệ tập trung.
Riêng đối với khoản ngoại tệ phạm
pháp do công an và Hải quan tịch thu hoặc bắt được sau khi đã có quyết định xử
lý thì ngân hàng được trích từ tài khoản 02-720-001 một khoản tiền Việt Nam bằng
mức từ 5-10% trên trị giá ngoại tệ thực nộp vào quỹ ngoại tệ Nhà nước theo tỷ
giá ngân hàng quy định tại thời điểm nộp ngoại tệ để chuyển trả cho công an, hải
quan làm nguồn tiền thưởng (theo Thông tư số 33-NH-NT hướng dẫn thi hành Điều lệ
quản lý ngoại hối). Đơn vị không được nhận tiền thưởng bằng ngoại tệ.
- Một số nguồn ngoại tệ mà Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng đã ra văn bản trước ngày 01-01-1989 cho phép các đơn vị được
giữ lại sử dụng thì nay theo Quyết định 218-CT (Điều 2) các văn bản cũ đó đã bị
bãi bỏ, số ngoại tệ này phát sinh từ 01-01-1989 trở đi đều là ngoại tệ của Nhà
nước do Bộ Tài chính quản lý và điều hành.
Các bộ, ngành và địa phương có
trách nhiệm báo cáo Bộ Tài chính toàn bộ số ngoai tệ phát sinh từ 1-1-1989 trở
lại đây trong đó cần tách riêng:
+ Số ngoại tệ phải nộp bắt buộc
phát sinh đến nay, nếu còn ở tài khoản của đơn vị thì các Bộ, ngành, địa phương
phải nộp ngay vào quỹ ngoại tệ của Nhà nước và báo cho bộ Tài Chính biết.
+ Số ngoại tệ phải bán nghĩa vụ,
đơn vị đã thực hiện bán nghĩa vụ được bao nhiêu, số còn lại phải bán tiếp cho
quỹ ngoại tệ Nhà nước thì phải làm thủ tục bán ngay cho quỹ ngoại tệ của Nhà nước.
Báo cáo nói trên cần gửi về Bộ
Tài chính chậm nhất là 30-11-1989. Sau khi đối chiếu các số liệu báo cáo của
các Bộ, ngành với số liệu của Ngân hàng, Bộ Tài chính sẽ xác định số phải nộp đủ
và phải bán đủ ngoại tệ cho quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước trong năm 1989.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01-01-1989.