THÔNG TƯ
CỦA CHỦ TỊCH TRỌNG TÀI KINH TẾ SỐ 104-TT/PC NGÀY 31-12-1987
HƯỚNG DẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÀ TRỌNG TÀI KINH TẾ NHẰM THI HÀNH QUYẾT
ĐỊNH SỐ 217-HĐBT NGÀY 14-11-1987 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ vào Quyết định số
217-HĐBT ngày 14-11-1987 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách đổi mới
kế hoạch hoá và hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với xí nghiệp quốc
doanh, Trọng tài kinh tế Nhà nước ra Thông tư hướng dẫn một số vấn đề về hợp đồng
kinh tế và Trọng tài kinh tế nhằm thi hành Quyết định nói trên của Hội đồng Bộ
trưởng như sau:
I-
VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ (ĐIỀU 43)
1. Các chủ thể ký kết
hợp đồng kinh tế: Mọi hoạt động trong sản xuất kinh doanh (kể cả lưu thông, dịch
vụ) của xí nghiệp có liên quan đến các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và
các cơ quan Nhà nước, các đơn vị vũ trang khác điều đưa vào hợp đồng kinh tế.
Các chủ thể ký kết hợp đồng kinh
tế (xí nghiệp, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, tổ hợp sản xuất, cơ quan Nhà nước,
đơn vị vũ trang) phải có tư cách pháp nhân. Các hộ tư nhân có quan hệ hợp đồng
với xí nghiệp quốc doanh phải có giấy phép đăng ký kinh doanh và có tài khoản ở
Ngân hàng.
Các chủ thể ký kết hợp đồng kinh
tế trên đây đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Nội dung hợp đồng kinh tế.
Việc ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế phải theo đúng các quy định của pháp luật. Nội dung hợp đồng kinh tế phải
bao gồm các điều khoản chủ yếu theo chế độ hợp đồng kinh tế quy định, cụ thể là
phải có các điều khoản về số lượng sản phẩm hoặc công việc, về chất lượng sản
phẩm hoặc công việc về giá cả, về thời gian, địa điểm và phương thức giao nhận,
về phương thức thanh toán, về trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng, và về
thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Nội dung từng điều khoản của hợp đồng phải
cụ thể, rõ ràng, quy định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bên đối với nhau.
Các bên có thể ký hợp đồng kinh
tế một năm, nửa năm, một quý, một vụ, một tháng, tuỳ theo yêu cầu sản xuất và hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nhà nước khuyến khích các bên ký hợp đồng dài
hạn đối với những mặt hàng ổn định.
3. Hợp đồng kinh tế là một căn cứ
ngày càng quan trọng để xí nghiệp xây dựng và thực hiện kế hoạch.
a) Căn cứ vào số hướng dẫn kế hoạch
của cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp thông báo, vào đơn đặt hàng của Nhà nước
và của các tổ chức tiêu thụ, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, đồng thời
căn cứ vào các thông tin kinh tế, các định mức kinh tế - kỹ thuật của Nhà nước
hoặc của ngành, xí nghiệp chủ động tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế với các
bên liên quan để xây dựng kế hoạch, và phải được cơ bản hoàn thành trước khi xí
nghiệp bảo vệ kế hoạch của mình với cấp trên trực tiếp.
b) Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch
pháp lệnh được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao, xí nghiệp tiến hành bổ
sung, điều chỉnh những hợp đồng đã ký hoặc ký thêm những hợp đồng mới cho phù hợp.
Mọi hoạt động liên doanh, liên kết kinh tế ngoài chỉ tiêu pháp lệnh đều được thể
hiện vào kế hoạch của xí nghiệp và được thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế.
c) Trong quá trình thực hiện kế
hoạch và hợp đồng, nếu chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của xí nghiệp được cấp có thẩm
quyển bổ sung hoặc điều hoặc chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế thì xí
nghiệp phải hiệp thương thoả thuận với các bên liên quan để bổ sung, điều chỉnh
hoặc ký lại các hợp đồng kinh tế cho phù hợp.
d) Chậm nhất là 30 ngày kể từ
ngày hết hiệu lực của hợp đồng, xí nghiệp phải cùng với các bên liên quan thanh
lý và quyết toán thực hiện hợp đồng. Việc thanh lý và quyết toán thực hiện hợp
đồng phải gắn với quyết toán thực hiện kế hoạch. Kết quả thực hiện hợp đồng là
một căn cứ quan trọng để xác định mức độ hoàn thành kế hoạch của xí nghiệp.
4. Việc gửi hợp đồng kinh tế đến
Trong tài kinh tế để theo dõi.
Hợp đồng kinh tế có hiệu lực
ngay sau khi ký kết. Các bên có thể gửi các hợp đồng kinh tế đã ký kết đến cơ
quan Trọng tài kinh tế có thẩm quyền theo sự phân cấp quản lý hiện hành để theo
dõi, giúp đỡ việc thực hiện.
5. Việc thưởng, phạt vật chất
trong chế độ hợp đồng kinh tế.
- Về thưởng phạt do các bên thoả
thuận ghi trong hợp đồng kinh tế.
Các bên có thể thoả thuận ghi
trong hợp đồng kinh tế một khoản tiền thưởng cho bên nào thực hiện tốt đầy đủ
hay vượt mức hợp đồng đã ký cũng như một khoản tiền phạt đối với bên nào không
thực hiện tốt các điều cam kết trong hợp đồng. Các khoản thưởng, phạt này không
do Nhà nước quy định và không phải là điều khoản bắt buộc khi ký kết hợp đồng
kinh tế mà hoàn toàn do các bên tự nguyện và cùng nhau thoả thuận ghi trong hợp
đồng. Mức thưởng, phạt cụ thể do các bên chủ động tính toán trên nguyên tắc bảo
đảm lợi ích hạch toán và quyền lợi chính đáng của tập thể lao động trong đơn vị
và không được hạch toán vào giá thành sản phẩm phí lưu thông.
- Về phạt vật chất theo quy định
của Nhà nước:
a) Các trường hợp từ chối, trì
hoãn ký kết hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh mà không phải vì lý do khách quan
không thể khắc phục nổi và các trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết,
thì bên vi phạm phải chịu phạt và bồi thường thiệt hại gây ra.
Các vụ từ chối, trì hoãn ký kết
hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh thì bị phạt tiền từ 1.000 đồng đến 5.000 đồng.
Trường hợp đã gây ra thiệt hại đáng kể cho bên vi phạm, thì bên từ chối, trì
hoãn ký kết hợp đồng trên đây phải bị phạt theo tỷ lệ 1% của giá trị hàng hoá
trao đổi hoặc dịch vụ mà không ký được.
Đối với các vi phạm hợp đồng đã
ký kết thì bên vi phạm bị phạt từ 1 đến 5% của giá trị bị vi phạm trong hợp đồng
và phải bồi thường thiệt hại thực tế gây ra. Tiền phạt vi phạm hợp đồng nộp vào
ngân sách Nhà nước, tiền bồi thường thiệt hại trả cho bên bị vi phạm. Trường hợp
các bên không nhất trí về mức tính toán thiệt hại thực tế thì Trọng tài kinh tế
tế nơi xét xử căn cứ vào tình hình cụ thể của vụ việc tranh chấp hoặc vi phạm,
vào kết luận của giám định kỹ thuật và mức độ thiệt hại gây ra mà quyết định số
tiền phải bồi thường.
b) Tiền phạt vi phạm hợp đồng và
tiền bồi thường thiệt hại đối với đơn vị hạch toán kinh tế độc lập và đơn vị dự
toán đều được trích từ tài khoản của bên vi phạm và được xử lý theo các quy định
hiện hành về tài chính.
c) Quá thời hạn nộp phạt vi phạm
hợp đồng và bồi thường thiệt hại (không quá 30 ngày kể từ ngày ký quyết định
xét xử của Trọng tài kinh tế) mà bên vi phạm không chấp hành đầy đủ quyết định
đó, thì Ngân hành Nhà nước tự động trích tài khoản của bên vi phạm để trả cho
bên được nhận, đồng thời bắt phạt chậm trả theo tỷ lệ 0,2% một ngày trên số tiền
chậm nộp. Tiền phạt chậm trả này được trả cho bên bị vi phạm.
Trường hợp tài khoản của bên vi
phạm có tiền và Ngân hàng Nhà nước đã nhận được quyết định xét xử của Trọng tài
kinh tế đã quá 30 ngày mà không trích nộp, thì Ngân hàng phải chịu phạt chậm
thanh toán cũng theo tỷ lệ 0,2% một ngày và trả số tiền phạt này cho bên được
hưởng.
II-
VIỆC XÉT XỬ CỦA TRỌNG TÀI KINH TẾ (ĐIỀU 44)
1. Các cơ quan Trọng
tài kinh tế có nhiệm vụ xét xử các tranh chấp và vi phạm hợp đồng kinh tế giữa
các đơn vị, tổ chức (bao gồm tổ chức quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã
các loại và tổ chức kinh tế tập thể khác, các cơ quan Nhà nước, các đơn vị vũ
trang, các đoàn thể và tổ chức xã hội) kể cả hộ tư nhân được phép kinh doanh,
có tài khoản ở Ngân hàng và có quan hệ hợp đồng với tổ chức quốc doanh, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên ký kết hợp đồng, góp phần tăng cường
quản lý kinh tế, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng kinh tế ký
kết theo chỉ tiêu pháp lệnh và các hợp đồng liên doanh, liên kết kinh tế ngoài
chỉ tiêu pháp lệnh đều được bảo đảm hiệu lực bằng chế độ trọng tài kinh tế.
2. Khi xẩy ra tranh chấp và vi
phạm hợp đồng, các bên đương sự phải chủ động gặp nhau bàn bạc giải quyết. Nếu
các bên đã hiệp thương bàn bạc, tìm mọi cách cùng nhau tháo gỡ khó khăn để thực
hiện tốt nghĩa vụ hợp đồng của cả hai bên nhưng vẫn không tự giải quyết được,
thì khiếu nại đến trọng tài kinh tế có thẩm quyền để xét xử theo pháp luật về hợp
đồng kinh tế và Trọng tài kinh tế. Khi nhận được đơn khiếu nại, nếu các đương sự
chưa cùng nhau hiệp thương giải quyết vụ, việc tranh chấp, thì Trọng tài kinh tế
hướng dẫn các bên hiệp thương tự giải quyết trước. Nếu các bên hiệp thương
không có kết quả thì trọng tài kinh tế chuẩn bị hồ sơ tiến hành xét xử. Nếu vụ,
việc tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng có tính chất nghiêm trọng làm thiệt hại lớn
đến tài sản xã hội chủ nghĩa, đã có những tài liệu, chứng cứ rõ ràng, cần phải
được xử lý kịp thời, thì không phải thông qua hiệp thương giữa các bên, mà Trọng
tài kinh tế có thể chủ động lập hồ sơ đưa ra xét xử ngay. Nếu vụ, việc tranh chấp
hoặc vi phạm hợp đồng có liên quan đến hành chính và hình sự, thì sau khi xét xử
xong phần hợp đồng kinh tế, Trọng tài kinh tế chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm
quyền để xem xét, xử lý về hành chính và hình sự. Những vụ tranh chấp và vi phạm
hợp đồng xẩy ra giữa các hộ tư nhân với nhau, giữa một bên là cơ sở kinh tế quốc
doanh và một bên là kinh tế gia đình, hộ cá thể hoặc hộ tư nhân không được phép
kinh doanh và không có tài khoản ở Ngân hàng, thì đều thuộc quyền xét xử của
Toà án nhân dân.
Mọi tranh chấp và vi phạm hợp đồng
được phát hiện theo đơn khiếu nại, qua thanh tra hoặc theo các nguồn thông tin
khác gửi đến đều phải được xem xét, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.
Khi xét xử, Trọng tài kinh tế phải
tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc, thủ tục tố tụng trọng tài và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về quyết định xét xử của mình. Các bên đương sự phải
chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xét xử của Trọng tài kinh tế.
3. Khi xét xử, Trọng tài kinh tế
được thu lệ phí trọng tài là 500 đồng, nếu là vụ từ chối, trì hoãn ký kết hợp đồng,
hoặc là từ 1.000 đến 5.000 đồng tuỳ theo giá trị hợp đồng, nếu là vụ tranh chấp
và vi phạm hợp đồng đã ký kết. Đối với vụ vi phạm hợp đồng, Trọng tài kinh tế
được trích 10% số tiền phạt vi phạm hợp đồng. Riêng đối với vi phạm hợp đồng mà
bên vi phạm không chịu khiếu nại hoặc đối với hợp đồng ký trái với pháp luật
thì ngoài việc trích 10% số tiền phạt vi phạm hợp đồng, Trọng tài kinh tế còn
được trích 1% số tiền bồi thường của vụ vi phạm này.
Các khoản thu về lệ phí trọng
tài, trích tiền phạt vi phạm hợp đồng và trích tiền bồi thường kể trên điều nộp
vào Ngân sách Nhà nước tại tài khoản của Trọng tài kinh tế nơi xét xử theo sự
hướng dẫn của Bộ Tài chính và Trọng tài kinh tế Nhà nước để chi cho công tác xét
xử , tuyên truyền phòng ngừa và thưởng cho tập thể, cá nhân có công phát hiện vụ
vi phạm hợp đồng, đóng góp vào việc xét xử đạt kết quả tốt, bảo vệ được tài sản
xã hội chủ nghĩa.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày ký, bãi bỏ các Thông tư của Trọng tài kinh tế Nhà nước gồm
Thông tư số 46-TT/PC ngày 3-11-1986 hướng dẫn việc ký kết hợp đồng kinh tế đối
với hộ tư nhân và xét xử các tranh chấp và vi phạm đối với những hợp đồng kinh
tế đó; Thông tư số 42-TT/PC ngày 15-10-1986 hướng dẫn việc đăng ký hợp đồng
kinh tế; Thông tư số 36-TT/PC ngày 16-9-1986 hướng dẫn vấn đề thưởng, phạt vật
chất trong chế độ hợp đồng kinh tế, và những quy định trước đây trái với Thông
tư này.