BỘ CÔNG THƯƠNG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 307/TB-BCT
|
Hà Nội, ngày 22
tháng 09 năm 2011
|
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA THỨ TRƯỞNG TRẦN TUẤN ANH TẠI HỘI NGHỊ NGÀNH CÔNG THƯƠNG 14
TỈNH TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ LẦN THỨ XIII
Ngày 16 tháng 9 năm 2011, tại thị xã
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, đồng chí Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương đã chủ
trì Hội nghị ngành công thương 14 tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ lần thứ XIII
- năm 2011; đồng chủ trì Hội nghị, có đồng chí Hoàng Ngọc Đường, Phó Bí thư Tỉnh
ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn.
Tham dự Hội nghị có đồng chí Dương Đình Hân, Phó Trưởng ban chỉ đạo Tây Bắc;
lãnh đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh trong
vùng có: đồng chí Nguyễn Chương, Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Lai Châu; đồng chí Nguyễn Văn Sơn, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang; đồng chí Phạm
Minh Huấn, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
Tuyên Quang, đồng chí Bùi Đức Hải, Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Sơn La. Đại diện các đơn vị thuộc Bộ có: Tổng cục Năng
lượng; các Vụ: Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Thị trường trong nước, Xuất
nhập khẩu, Thương mại miền núi; các Cục: Công nghiệp địa phương, Xúc tiến thương
mại, Quản lý thị trường, Điều tiết điện lực; Lãnh đạo Sở Công Thương 14 tỉnh
trung du và miền núi Bắc Bộ; đại diện một số Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp
trong ngành.
Sau khi nghe Báo cáo tổng hợp tình
hình hoạt của ngành công thương các tỉnh trong khu vực năm 2010 và 9 tháng đầu
năm 2011, định hướng hoạt động các tháng cuối năm 2011; ý kiến của các đơn vị
tham dự Hội nghị, Thứ trưởng Trần Tuấn Anh đã kết luận như sau:
I. Đánh giá chung
Bộ Công Thương biểu dương, đánh giá
cao sự nỗ lực phấn đấu của ngành công thương 14 tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ
và những kết quả đạt được khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực trong năm 2010
và 9 tháng đầu năm 2011. Một số thành tựu nổi bật là:
1. Về công nghiệp
- Năm 2010, giá trị sản xuất công
nghiệp (theo giá cố định năm 1994) đạt: 44.827 tỷ đồng, tăng 24,07% so với năm
2009.
- Trong 9 tháng đầu năm 2011, giá trị
sản xuất công nghiệp đạt 37.563 tỷ đồng, tăng 19,42% so với cùng kỳ năm 2010 và
bằng 69,59% kế hoạch năm 2011. Trong đó, có một số tỉnh có mức tăng trưởng khá
như: Yên Bái (44,7%); Bắc Giang (tăng 44,4%); Lào Cai (41,9%); Hà Giang (tăng
38,4%).
Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của
Vùng đều đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Một số ngành sản xuất công nghiệp chủ
lực của vùng tiếp tục đóng vai trò quan trọng có tác động thúc đẩy tăng trưởng
công nghiệp toàn vùng và cả nước như: Quặng các loại đạt 3.408 ngàn tấn; tinh
quặng đồng 20% Cu đạt 38 ngàn tấn; quặng barit 19 ngàn tấn; đá xây dựng 386 triệu
m3; gang đúc đạt 19 ngàn tấn; thiếc thỏi đạt 255 tấn; thép cán đạt
5.038 tấn; chì thỏi đạt 2.939 tấn; một số các sản phẩm khác có nhiều đóng góp
cho GTSXCN của vùng như: gạch nung; xi măng; gỗ chế biến; phân bón hóa học; sữa tươi thanh trùng ...
- Hoạt động đầu tư cho phát triển
công nghiệp trên địa bàn toàn Vùng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong lĩnh
vực khai thác khoáng sản, luyện kim, sản
xuất phân bón hóa chất, thủy điện, chế biến nông lâm sản...Trong đó, công
nghiệp chế biến sâu các loại khoáng sản
được quan tâm.
- Hoạt động khuyến công của các tỉnh
đã có nhiều chuyển biển tích cực; nội dung, chương trình phong phú, thiết thực
hơn. Trong 9 tháng đầu năm 2011 toàn Vùng triển khai được 192 dự án với tổng
kinh phí tăng 54,74% so với cùng kỳ năm 2010.
2. Về thương mại
Hoạt động thương mại diễn ra sôi động,
sức mua tăng cao, các mặt hàng phong phú và đa dạng, thị trường nông thôn, vùng
sâu, vùng xa được quan tâm.
- Năm 2010, tổng mức lưu chuyển hàng
hóa bán lẻ trên toàn Vùng đạt 77.929 tỷ đồng, tăng 19,20% so kế hoạch năm, tăng
23,22% so cùng kỳ năm 2009.
- Trong 9 tháng đầu năm 2011, tổng mức
lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ xã
hội toàn Vùng đạt 70.140 tỷ đồng bằng 78,15% so với kế hoạch năm và tăng 22,56%
so với cùng kỳ năm 2010.
- Công tác phát triển thị trường được
các tỉnh quan tâm, chỉ đạo các doanh nghiệp triển khai mở rộng thị trường nội địa
nhất là thị trường nông thôn, các doanh nghiệp đã có sự đầu tư xây dựng các cửa
hàng bán lẻ, mở hệ thống đại lý bán hàng và tổ chức đưa hàng hóa thiết yếu bán lưu động tại vùng sâu vùng
xa.
- Về hoạt động xuất khẩu, năm 2010
kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 1.916 triệu USD, tăng 14% kế hoạch năm, tăng
20,7% so cùng kỳ 2009.
Trong 9 tháng đầu năm 2011, công tác
xuất khẩu hàng hóa của hầu hết các tỉnh đạt kết quả tốt, một số tỉnh có mức
tăng cao so với cùng kỳ năm 2010 và so với kế hoạch năm 2011 như: Yên Bái, Bắc
Giang, Hòa Bình, Thái Nguyên...Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn vùng đạt 2.142 triệu
USD, tăng 79,96% so với cùng kỳ năm 2010.
3. Công tác quản lý
nhà nước
Các mặt hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực công thương đã được triển khai tích cực và đồng bộ. Các Sở Công
Thương trong khu vực đã chủ động phối hợp
với các Sở, ngành, đơn vị liên quan thực hiện các giải pháp kích cầu, tháo gỡ
khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, xuất khẩu... để
nâng cao năng lực sản xuất của ngành. Các hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến
thương mại, khuyến công, quản lý thị trường, quản lý điện năng, quản lý kỹ thuật,
an toàn môi trường, quản lý khai thác, chế biến khoáng
sản, công tác thanh tra, kiểm tra... đã được quan tâm và đạt được nhiều kết quả
cụ thể như báo cáo tại Hội nghị đã nêu.
Một số các chỉ tiêu của ngành nhằm đảm
bảo đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa đã được cải tiến như: về cấp điện trong
năm qua đã tăng 4%, nâng tỷ lệ bình quân số Hộ sử dụng điện lên 86,86%, từng bước
rút ngắn khoảng cách so với bình quân cả nước; hoạt động thương mại đã đảm bảo
cung ứng các mặt hàng thiết yếu, mặt hàng chính sách xã hội đến nhân dân vùng
sâu, vùng xa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công
là cơ bản nêu trên, ngành công thương các tỉnh 14 tỉnh trung du và miền núi Bắc
Bộ hiện nay còn đứng trước những hạn chế, khó khăn như:
- Thời gian qua số lượng các dự án sản
xuất lớn nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh trong khu vực đi vào
hoạt động chưa nhiều, chưa tạo nên sự chuyển biến rõ cho toàn vùng trung du miền
núi Bắc Bộ.
Các tiềm năng về khoáng sản, thủy điện, thương mại khu vực biên
giới, công nghiệp chế biến nông lâm sản gắn với các vùng nguyên liệu chưa đóng
góp nhiều cho phát triển của ngành và cho phát triển kinh tế xã hội trong Vùng;
- Quy mô sản xuất công nghiệp còn nhỏ,
trình độ kỹ thuật còn hạn chế, năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh
doanh chưa cao. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến
thô và gia công. Có rất ít các sản phẩm công nghiệp có giá trị gia tăng lớn.
Năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011 sản
xuất công nghiệp và hoạt động thương mại đều được duy trì ở mức tăng trưởng
khá, song tính bình quân về giá trị sản xuất công nghiệp và tổng mức lưu chuyển
hàng hóa bán lẻ, thì các tỉnh trong vùng còn khoảng cách khá xa so với bình
quân cả nước;
- Hoạt động của các cửa khẩu chưa sôi
động, cơ sở vật chất hạ tầng của một số khu kinh tế cửa khẩu còn thiếu, chưa rõ
cơ chế quản lý vận hành, chưa thu hút được các doanh nghiệp vào kinh doanh tại
khu kinh tế cửa khẩu;
- Hoạt động khuyến công và tư vấn
phát triển công nghiệp tuy có nhiều đổi mới, song số lượng và quy mô các đề án,
dự án của các tỉnh trong Vùng năm nay không lớn. Một số tỉnh chưa thực sự coi
trọng hoạt động khuyến công trong quá trình hỗ trợ phát triển công nghiệp nông
thôn;
- Hoạt động đầu tư phát triển khu, cụm
công nghiệp có nhiều hạn chế, số khu, cụm công nghiệp được thành lập và hoàn chỉnh
hạ tầng không nhiều, tỷ lệ lấp đầy thấp.
II. Nhiệm vụ trong thời gian tới
Thống nhất với mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề
ra trong báo cáo tổng kết của Vùng cho thời gian tới và để khắc phục những khó
khăn, tồn tại của ngành, đẩy mạnh các hoạt động nhằm hoàn thành kế hoạch của từng
địa phương và toàn vùng, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu chung của
toàn ngành công thương trong năm 2011; tạo đà phát triển cho những năm tiếp
theo của giai đoạn 2011-2015, đề nghị các địa phương triển khai tốt và tập
trung vào một số nội dung sau:
1. Đề nghị Ủy ban
nhân dân các tỉnh tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số
02/NQ-CP ngày 09 tháng 1 năm 2011 và Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm
2011 của Chính phủ nhằm tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội.
2. Các Sở, Ngành tăng cường công tác tham mưu cho Ủy ban nhân dân Tỉnh và phối hợp với Bộ Công
Thương và các Bộ, Ngành liên quan kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp về
vốn, tín dụng, giá nguyên vật liệu, giải phóng mặt bằng, cấp điện, xuất nhập khẩu,
thị trường tiêu thụ sản phẩm..., nhất là các dự án trọng điểm.
3. Tập trung sản xuất, kinh doanh các ngành nghề có
tiềm năng thế mạnh của các tỉnh trong Vùng như: Khai thác chế biến khoáng sản; chế biến nông lâm sản; sản xuất vật
liệu xây dựng.
4. Tiếp tục triển khai chương trình đưa hàng Việt về
nông thôn, vùng sâu vùng xa, từng bước nâng cao ý thức, trách nhiệm đối với
hàng Việt và thực hiện hiệu quả Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam” do Bộ Chính trị phát động.
5. Tập trung nguồn lực khai thác những mặt hàng tiềm
năng có lợi thế của các tỉnh để xuất khẩu; nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm
xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu thô, sản phẩm sơ chế.
Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, dịch vụ
và đầu tư tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu,
khai thác tối đa thị trường các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tích
cực tổ chức, tham gia các hội chợ, triển
lãm chuyên ngành trong và ngoài nước để tìm kiếm thị trường mới. Hỗ trợ các
doanh nghiệp xây dựng thương hiệu và đăng ký thương hiệu hàng hóa, đặc biệt các sản phẩm chế biến từ nông lâm
sản.
6. Bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu;
đảm bảo các mặt hàng, đặc biệt các mặt hàng chính sách như muối iốt, xăng dầu,
phân bón, giống cây trồng... đến được các vùng sâu, vùng xa; chú trọng công tác
quản lý thị trường, dự báo nhằm phát hiện nhanh các tình huống phát sinh để kịp
thời xử lý.
7. Về liên kết vùng: Đề nghị các tỉnh trong Vùng phối hợp chặt chẽ, tận dụng tối đa lợi thế về
liên kết vùng, liên kết tuyến để đẩy nhanh sự phát triển của các tỉnh tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển chung của Vùng và cả nước, cụ thể:
- Hợp tác
phát triển công nghiệp của các địa phương với các địa bàn khác trong Vùng theo
các phương thức: Liên doanh, liên kết cùng triển khai dự án phát triển các mặt
hàng công nghiệp đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu;
phân công sản xuất chuyên môn hóa hoặc
cung cấp công nghệ thích hợp cho nhau; xây dựng và triển khai các dự án phát
triển công nghiệp quy mô Vùng, nhất là các dự án lớn liên quan đến các tỉnh lân
cận nhau, ưu tiên các dự án chế biến nông, lâm sản, thực phẩm và các dự án công
nghiệp chế biến sâu khoáng sản có hàm lượng
vốn và khoa học công nghệ cao...;
- Hợp tác về thương mại giữa các địa phương trong
Vùng theo hướng: Trao đổi hàng hóa hai
chiều, liên kết các hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ triển lãm...
Chủ động tạo điều kiện và khuyến khích các địa phương trong Vùng tăng cường
quan hệ hợp tác giữa phát triển, xây dựng
quan hệ chặt chẽ các địa phương trong Vùng và tuyến hành lang kinh tế Côn Minh
- Hà Nội - Hải Phòng, tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh - Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng.
8. Thống nhất với đề nghị của Hội nghị về việc giao
Sở Công Thương tỉnh Lai Châu đăng cai, phối hợp
với Cục Công nghiệp địa phương tổ chức Hội nghị ngành công thương 14 tỉnh trung
du và miền núi Bắc Bộ lần thứ XIV - năm 2012 tại tỉnh Lai Châu.
Trên đây là ý kiến kết luận của Thứ trưởng Trần Tuấn
Anh tại Hội nghị ngành công thương 14 tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ lần thứ
XIII - năm 2011. Văn phòng Bộ xin thông báo để các cơ quan, đơn vị có liên quan
biết và triển khai thực hiện./.
Nơi nhận:
- UBND, SCT các tỉnh: Bắc Giang, Bắc Kạn,
Cao Bằng, Điện Biên, Hà Giang, Hòa Bình, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ,
Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái;
- Ban chỉ đạo Tây Bắc;
- Lãnh đạo Bộ;
- Tổng cục Năng lượng;
- Các Vụ: CNNg, CNN, TTTN, XNK, TMMN;
- Các Cục QLTT, XTTM, ĐTĐL;
- Lưu: VT, CNĐP (2).
|
TL. BỘ TRƯỞNG
CHÁNH VĂN PHÒNG
Vũ Văn Cường
|