BỘ NỘI THƯƠNG
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số : 615-QĐ/NT
|
Hà Nội, ngày 03 tháng 9 năm 1970
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH CHẾ ĐỘ KIỂM TRA CỦA CÔNG
NHÂN, VIÊN CHỨC Ở CÁC ĐƠN VỊ TRỰC TIẾP KINH DOANH THUỘC NGÀNH NỘI THƯƠNG
BỘ
TRƯỞNG BỘ NỘI THƯƠNG
Căn cứ Nghị định số 80-CP ngày 16-7-1962 của Hội đồng Chính
phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Nội thương;
Thi hành Chỉ thị số 87-TTg ngày 24-8-1963 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
công tác kiểm tra;
Căn cứ Luật công đoàn;
Để phát huy tác dụng kiểm tra của quần chúng, góp phần chống buông lỏng quản lý
và cải tiến công tác quản lý trong ngành;
Sau khi đã thảo luận và nhất trí với Công đoàn thương nghiệp Việt Nam ,
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều 1. Nay ban hành chế độ kiểm tra của
công nhân, viên chức ở các đơn vị trực tiếp kinh doanh thuộc ngành nội thương;
Điều 2. Các đồng chí cục trưởng các cục kinh
doanh, giám đốc sở, trưởng ty thương nghiệp, có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ
với Công đoàn thương nghiệp cùng cấp trong việc chỉ đạo cấp dưới thi hành chế
độ này.
Điều 3. Chế độ này có hiệu lực thi hành kể
từ ngày ký và hủy bỏ bản quy định về tổ chức quần chúng tự kiểm tra tại các
cửa hàng mậu dịch quốc doanh ban hành theo công văn số 2401-NT/TT ngày
24-10-1968.
Điều 4. Các đồng chí chánh văn phòng Bộ,
trưởng ban thanh tra Bộ, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI THƯƠNG
Hoàng Quốc Thịnh
|
CHẾ ĐỘ KIỂM TRA
CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC Ở CÁC ĐƠN VỊ TRỰC TIẾP KINH DOANH
THUỘC NGÀNH NỘI THƯƠNG
I. Định nghĩa và phạm vi thi hành
Điều 1. Kiểm tra của công nhân, viên chức là
một hình thức kiểm tra của quần chúng nhằm thực hiện quyền làm chủ tập thể của
công nhân, viên chức ở nơi làm việc của họ để giám sát những hoạt động kinh tế
của đơn vị đó trên các mặt chấp hành chính sách, thực hiện kế hoạch, quản lý
tài sản.
Điều 2. Chế độ kiểm tra của công nhân, viên
chức chỉ thi hành ở các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh như công ty cấp I,
cấp II, xí nghiệp tổng hợp huyện, hợp tác xã mua bán huyện, các cửa hàng, kho,
trạm thu mua, trạm vận tải, trạm hay xưởng sản xuất, gia công, chế biến, sửa
chữa, trại chăn nuôi, khách sạn, công trường xây lắp, công trường khai thác lâm
sản và nông trường…
Chế độ này không áp dụng ở các văn
phòng Bộ, cục và sở, ty.
II. Nhiệm vụ và quyền hạn của công
nhân, viên chức.
Điều 3. Là người làm chủ tập thể, công nhân,
viên chức ở các đơn vị trực tiếp kinh doanh thuộc ngành nội thương có quyền và
có trách nhiệm tham gia kiểm tra các hoạt động kinh tế trong đơn vị làm việc
của mình. Cụ thể là:
a) Tham gia kiểm tra tình hình thực
hiện kế hoạch ở tổ công tác hay ở đơn vị làm việc của mình, tìm ra nguyên nhân
khuyết điểm và đề xuất biện pháp bổ khuyết nhằm hoàn thành tốt kế hoạch của tổ
hay của đơn vị;
b) Phát hiện những thiếu sót trong
việc quản lý lao động và quản lý tài sản của đơn vị bao gồm tiền, hàng, nguyên
vật liệu, tài sản cố định, vật rẻ tiền mau hỏng và phế liệu, phế phẩm.
c) Phát hiện những sự vi phạm chính
sách, chế độ, thể lệ, nguyên tắc của Đảng và Nhà nước về công tác nội thương,
chỉ thị của cấp trên và nội quy cơ quan, bất cứ người vi phạm là cá nhân hay
tập thể, nhân viên trong đơn vị hay ngoài đơn vị, nhân viên cấp dưới hay cán bộ
cấp trên.
d) Tự kiểm tra việc làm của bản thân
mình.
Điều 4. Công nhân, viên chức thực hiện quyền
tham gia kiểm tra của mình một cách thường xuyên và có tổ chức:
a) Nếu thấy ở đơn vị mình có những
thiếu sót gì thuộc các điểm a, b, c ở điều 3 thì có thể ghi ngay ý kiến của
mình vào sổ góp ý của công nhân, viên chức. Nếu xét thấy chưa tiện ghi vào sổ
đó thì có thể phản ánh trực tiếp với ban kiểm tra của đơn vị, hoặc với đồng chí
phụ trách công đoàn ở nơi mình làm việc hay với đơn vị cấp trên.
b) Góp ý kiến trong những lúc hội ý
ở tổ, ở nhóm, trong hội nghị cơ quan và hội nghị công nhân, viên chức của đơn
vị.
Điều 5. Phải xuất phát từ lợi ích chung mà
thực hiện sự kiểm tra của mình, kiên quyết đấu tranh với những sự vi phạm chính
sách, chế độ, những khuyết điểm làm tổn hại đến tài sản của cửa hàng, xí nghiệp…
nhưng với thái độ xây dựng, không được gây chia rẽ, bè phái.
Điều 6. Để thực hiện được quyền làm chủ tập
thể và nâng cao năng lực quản lý và kiểm tra của mình, mọi người phải học tập
các chính sách, chế độ, thể lệ, nguyên tắc, nội quy liên quan đến công việc của
mình và của đơn vị mình.
III. Trách nhiệm và quyền hạn của
công đoàn thương nghiệp các cấp.
Điều 7. Công nhân, viên chức tham gia kiểm
tra dưới sự lãnh đạo của tổ chức quần chúng của mình là công đoàn thương
nghiệp.
Điều 8. Công đoàn thương nghiệp Việt Nam là
người hướng dẫn và chỉ đạo công đoàn thương nghiệp các cấp về việc này; đề xuất
với Bộ Nội thương những vấn đề do quần chúng phát hịên mà chính quyền cấp dưới
chưa giải quyết hoặc không đủ thẩm quyền giải quyết; tổng kết kết quả và kinh nghiệm
về công tác kiểm tra của công nhân, viên chức trong ngành để phổ biến chung.
Điều 9. Dưới sự chỉ đạo của Công đoàn thương
nghiệp Việt Nam, công đoàn thương nghiệp các sở, ty có nhiệm vụ:
a) Hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi, đôn
đốc công đoàn thương nghiệp cấp dưới thực hiện chế độ kiểm tra của công nhân,
viên chức;
b) Can thiệp với chính quyền cùng
cấp giải quyết những vấn đề do quần chúng phát hiện mà chính quyền cấp dưới
chưa giải quyết hay giải quyết không thỏa đáng;
c) Tổng kết kết quả và kinh nghiệm
kiểm tra của công nhân, viên chức trong phạm vi tỉnh và thành phố.
Điều 10. Công đoàn cơ sở từ công ty cấp I,
cấp II, xí nghiệp hoặc hợp tác xã mua bán huyện đến các cửa hàng, kho, xưởng,
trạm, trại… có trách nhiệm và quyền hạn như sau:
a) Tổ chức, động viên công nhân,
viên chức phát huy quyền làm chủ tập thể, tích cực tham gia kiểm tra các hoạt
động kinh tế ở đơn vị làm việc của họ;
b) Can thiệp với chính quyền cùng
cấp giải quyết những vấn đề do công nhân, viên chức đã phát hiện và trả lời cho
công đoàn biết lý do chưa giải quyết hoặc không giải quyết;
c) Báo cáo lên công đoàn cấp trên để
can thiệp với chính quyền cấp trên giải quyết những việc mà công nhân, viên
chức đã phát hiện hay góp ý nhưng chính quyền cùng cấp không giải quyết mà
không có lý do chính đáng, hoặc những khó khăn mà chính quyền cùng cấp gây trở
ngại cho sự tham gia kiểm tra của công nhân, viên chức;
d) Phối hợp với chính quyền cùng cấp
tổ chức đều đặn và có kết quả thiết thực hội nghị công nhân, viên chức ở tổ
công tác, ở cửa hàng, kho, xưởng, trạm, trại… theo đúng chế độ đã quy định;
đ) Báo cáo tình hình và kết quả kiểm
tra của công nhân, viên chức trước mỗi kỳ hội nghị của công nhân, viên chức;
e) Được dự các cuộc họp của chính
quyền cùng cấp bàn những biện pháp thực hiện kế hoạch, quản lý tài sản, chấp
hành chính sách hoặc giải quyết những vấn đề do công nhân, viên chức đề xuất.
g) Dựa trên kết quả kiểm tra của
quần chúng, trao đổi góp ý kiến với chính quyền cùng cấp những hình thức khen
thưởng hoặc kỷ luật đối với công nhân, viên chức nào có thành tích hay phạm
khuyết điểm trong việc thực hiện kế hoạch, bảo vệ tài sản và chấp hành chính
sách;
h) Chỉ đạo và giúp ban kiểm tra của
công nhân, viên chức làm tròn nhiệm vụ.
IV. Tổ chức. nhiệm vụ và quyền hạn của ban kiểm tra của công
nhân, viên chức.
Điều 11. Ban kiểm tra của công nhân, viên
chức là một tổ chức nồng cốt của quần chúng, vừa làm hạt nhân cho phong trào
kiểm tra của công nhân, viên chức, vừa giúp đỡ công đoàn ở cửa hàng, kho,
xưởng, trạm, trại… lãnh đạo phong trào đó.
Điều 12. Ở các cửa hàng, kho, xưởng, trạm,
trại, khách sạn, đội công trình xây dựng, đội khai thác lâm sản, nông trường và
văn phòng công ty nếu có từ 7 người trở lên thì đều thành lập ban kiểm tra của
công nhân, viên chức, ở những nơi có dưới 7 người thì không thành lập ban kiểm
tra; đồng chí phụ trách công đoàn ở đó trực tiếp tổ chức và lãnh đạo phong trào
kiểm tra của công nhân, viên chức.
Ở công ty cấp I, cấp II không thành
lập ban kiểm tra của công nhân, viên chức để chỉ đạo các ban kiểm tra ở các đơn
vị trực thuộc công ty. Ban chấp hành công đoàn cơ sở phân công 1 hoặc 2 đồng
chí thường vụ để thay mặt công đoàn tổ chức và chỉ đạo phong trào kiểm tra của
công nhân, viên chức trong phạm vi toàn công ty.
Điều 13. Tùy theo quy mô lớn hay nhỏ của từng
đơn vị, ban kiểm tra của công nhân, viên chức ở mỗi nơi có thể có từ 3 đến 11
người, do đại hội công nhân, viên chức bầu ra, chọn trong những người gương mẫu
trong việc thực hiện nhiệm vụ, thẳng thắn, tích cực, có tinh thần đấu tranh bảo
vệ của công, bảo vệ chính sách. Bao gồm 1 trưởng, 1 phó và một số ủy viên.
Mỗi nhiệm kỳ hoạt động của ban là 6
tháng, hết nhiệm kỳ thì bầu lại. Trong nhiệm kỳ, nếu có ủy viên nào trong ban
kiểm tra vi phạm chính sách và đã mất tín nhiệm với quần chúng thì phải đưa ra
khỏi nhiệm vụ đó.
Điều 14. Ban kiểm tra của công nhân, viên
chức là một tổ chức trực thuộc công đoàn cơ sở, có nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Giúp đồng chí phụ trách công đoàn
ở đơn vị mình (cửa hàng, kho, xưởng, trạm, trại…) làm những việc ghi ở điều 10,
trừ điểm h.
b) Kiểm tra đột xuất công việc của
cá nhân hay bộ phận nào trong đơn vị nếu xét cần thiết phải tiến hành kiểm tra
ngay không thể chờ đợi sự kiểm tra của chuyên môn;
c) Nếu thấy có hiện tượng vi phạm
chính sách, chế độ, có thể lập biên bản và nếu xét cần thiết, có thể tạm giữ
hiện vật lại để báo cáo cho thủ trưởng đơn vị hoặc cơ quan có trách nhiệm giải
quyết.
d) Tham gia với tổ chức kiểm tra của
chính quyền xác minh những vấn đề do công nhân, viên chức phát hiện;
đ) Khi cần thiết, có thể được chính
quyền của đơn vị cho sử dụng một số giờ hành chính để làm công tác kiểm tra đột
xuất;
e) Thường xuyên phản ánh cho công
đoàn của đơn vị biết những việc đã làm và kết quả kiểm tra của công nhân, viên
chức.
Điều 15. Lề lối làm việc trong ban là làm
việc tập thể, nhưng phải có sự phân công trách nhiệm cho từng ủy viên. Phải có
sự sinh hoạt đều đặn để nắm tình hình và giải quyết những việc xảy ra được kịp
thời.
V. Trách nhiệm của chính quyền.
Điều 16. Chủ nhiệm công ty cấp I, cấp II, xí
nghiệp huyện, hợp tác xã mua bán huyện, các đồng chí phụ trách các cửa hàng,
kho, xưởng, trạm, trại… phải phối hợp chặt chẽ với công đoàn cùng cấp và tạo
mọi điều kiện cần thiết cho công nhân, viên chức tham gia kiểm tra một cách
thường xuyên các hoạt động kinh tế ở đơn vị làm việc của họ, không được cản trở
quyền làm chủ tập thể của quần chúng bất cứ bằng hình thức nào:
a) Tổ chức cho công nhân, viên chức
học tập các chính sách, chế độ, thể lệ, nguyên tắc, chỉ thị, nội quy liên quan
đến công việc của họ và của đơn vị;
b) Cụ thể hóa phương hướng và nội
dung kiểm tra của cấp trên cho đơn vị mình để hướng quần chúng vào việc kiểm
tra những mặt yếu của đơn vị;
c) Sắp xếp, bố trí thời gian hợp lý
cho công nhân, viên chức từng bộ phận hay đơn vị sinh hoạt, trao đổi ý kiến,
kịp thời giúp đỡ lẫn nhau trong công tác;
d) Giải quyết kịp thời những việc do
công nhân, viên chức hay ban kiểm tra đã phát hiện và góp ý; dù đã giải quyết
hay chưa thể giải quyết cũng báo cho công đoàn cùng cấp biết;
đ) Báo cáo và can thiệp với chính
quyền cấp trên, giải quyết những vấn đề hợp lý do công nhân, viên chức đề xuất
nhưng mình không đủ thẩm quyền giải quyết;
e) Động viên, khuyến khích những
người nói thẳng, nói thật, có nhiều ý kiến xây dựng, chống mọi thành kiến đối
với họ;
g) Phối hợp chặt chẽ với công đoàn
cùng cấp tổ chức đều đặn hội nghị công nhân, viên chức ở tổ công tác, ở cửa
hàng, kho, xưởng, trạm, trại… theo đúng chế độ đã quy định và thực hiện tốt chế
độ kiểm tra của công nhân, viên chức;
h) Chịu trách nhiệm trước chính
quyền cấp trên về phong trào kiểm tra của công nhân, viên chức ở đơn vị mình;
i) Tổ chức sổ góp ý để công nhân,
viên chức góp ý với đơn vị.
Điều 17. Sổ góp ý của công nhân, viên chức
Từ công ty cấp I, cấp II, xí nghiệp
huyện, hợp tác xã mua bán huyện đến các đơn vị trực thuộc đều phải có sổ góp ý
để công nhân, viên chức có thể thường xuyên góp ý với đơn vị, không phải đợi
đến các cuộc sinh hoạt thường kỳ như phát hiện những thiếu sót về thực hiện kế
hoạch, quản lý tài sản, chấp hành chính sách, hoặc góp ý về biện pháp bổ
khuyết. Sổ góp ý của công nhân, viên chức phải đánh số thứ tự và đánh số trang;
phải lưu trữ ít nhất 2 năm. Thủ trưởng đơn vị phải xem thường xuyên và ghi ý
kiến giải quyết của mình vào sổ đó.
Điều 18. Các cục kinh doanh, các sở, ty và
cục thương nghiệp có nhiệm vụ:
a) Phối hợp chặt chẽ với công đoàn
cùng cấp trong việc tổ chức và động viên công nhân, viên chức tích cực tham gia
kiểm tra ở các đơn vị trực tiếp kinh doanh.
b) Giải quyết kịp thời những vấn đề
do quần chúng đề xuất mà chính quyền cấp dưới không đủ thẩm quyền giải quyết.
Nếu thấy có ý kiến không đúng hoặc đúng nhưng chưa giải quyết được, cũng cần
thông qua công đoàn để trả lời và giải thích cho quần chúng biết.
c) Tận dụng kết quả kiểm tra của
công nhân, viên chức để cải tiến công tác quản lý ở cục, sở, ty và các đơn vị trực
thuộc.
d) Xử lý kịp thời và đúng mức đối
với những thủ trưởng đơn vị cấp dưới không quan tâm đến sự tham gia kiểm tra
của quần chúng, hoặc làm lấy lệ, hoặc cố tình trì hoãn, hoặc gây trở ngại cho
sự tham gia kiểm tra của công nhân, viên chức, ở đơn vị đó.
VI. Điều khoản thi hành
Điều 19. Chế độ này phải được tổ chức học
tập cho tất cả đoàn viên công đoàn, công nhân, viên chức bất cứ ở cương vị nào
từ cục, sở, ty đến đơn vị thấp nhất để mọi người hiểu rõ trách nhiệm và quyền
hạn của mình trong công cuộc thực hiện chế độ kiểm tra của công nhân, viên
chức.
(Ban hành kèm theo Quyết định số
615-NT ngày 03-9-1970 của Bộ Nội thương)
BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI THƯƠNG
Hoàng Quốc Thịnh
|
CÔNG ĐOÀN THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM
TM. BAN THƯỜNG VỤ
CHÁNH THƯ KÝ
Hà Uyên
|