THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số
: 343-TTg
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 12 năm 1971
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHẾ ĐỘ BÁO CÁO THỐNG KÊ VỀ KẾ TOÁN ĐỊNH KỲ
CHÍNH THỨC CỦA CÁC ĐƠN VỊ CUNG ỨNG VẬT TƯ KỸ THUẬT
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ nghị định số 27-CP
ngày 22-2-1962 của Hội đồng Chính phủ quy định các nguyên tắc về việc lập và
ban hành các chế độ biểu mẫu và phương án điều tra thống kê.
Căn cứ nghị quyết số 02-CP ngày 2-1-1971 của Hội đồng Chính phủ về việc tổ chức
lại hệ thống thông tin kinh tế (phần nói riêng về hệ thống thông tin thống kê
và kế toán).
Để đáp ứng yêu cầu của công tác kế hoạch hóa, cải tiến công tác quản lý trong
các đơn vị cung ứng vật tư kỹ thuật.
Theo đề nghị của ông Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, ông Bộ trưởng Bộ Tài
chính và ông Bộ trưởng Bộ Vật tư.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. -
Nay ban hành kèm theo quyết định này chế độ báo cáo
thống kê và kế toán định kỳ chính thức tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng và năm của
đơn vị cung ứng vật tư kỹ thuật đã hạch toán độc lập (gọi tắt là đơn vị cung ứng)
do Trung ương và địa phương quản lý.
Điều 2. -
Chế độ báo cáo nói ở điều 1 sẽ áp dụng thống nhất từ
ngày 1 tháng 1 năm 1972.
Điều 3. -
Các văn bản quy định về chế độ biểu mẫu báo cáo thống
kê và kế toán định kỳ chính thức của đơn vị cung ứng ban hành trước đây trái với
chế độ này đều không còn hiệu lực.
Điều 4. -
Tổng cục Thống kê căn cứ quyết định này và tùy theo
yêu cầu chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ trong từng thời kỳ mà quy định
(hoặc bổ sung) nội dung của biểu mẫu báo cáo theo phương châm tinh giản, thiết
thực và có hiệu lực. Trước khi quy định, Tổng cục Thống kê cần trao đổi ý kiến
với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Vật tư.
Điều 5. -
Thủ trưởng các đơn vị cung ứng như: cục, tổng công ty,
công ty hoặc kho, trạm cung ứng tương đương công ty thuộc các Bộ, các ngành,
các địa phương có trách nhiệm tổ chức thực hiện chế độ báo cáo này, phải kiểm
tra, xem xét, ký tên, đóng dấu vào các báo cáo và chịu trách nhiệm về sự chính
xác của số liệu, về sự kịp thời của báo cáo.
Thủ trưởng các đơn vị cung ứng,
kế toán trưởng và các cán bộ, nhân viên giúp việc làm báo cáo thống kê, kế toán
không thi hành hoặc thi hành sai chế độ, thể lệ đã quy định sẽ bị thi hành kỷ
luật theo đúng điều 5 của Điều lệ về kỷ luật lao động trong các xí nghiệp, cơ
quan Nhà nước đã ban hành kèm theo nghị định số 195 - CP ngày 31 - 12 - 1964 của
Hội đồng Chính phủ, trong trường hợp nghiêm trọng, có thể bị truy tố trước pháp
luật.
Điều 6.
Các ông Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ,
cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các ông Chủ tịch Ủy ban hành chính khu
tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn,
đôn đốc các đơn vị cung ứng thuộc phạm vi mình quản lý thực hiện nghiêm chỉnh
chế độ báo cáo này.
Điều 7. -
Ông Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, ông Tổng cục trưởng Tổng
cục Thống kê và ông Bộ trưởng Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn và theo dõi
việc thi hành quyết định này.
|
KT.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|
CHẾ ĐỘ
BÁO CÁO THỐNG KÊ VÀ KẾ TOÁN ĐỊNH KỲ CHÍNH THỨC CỦA CÁC ĐƠN VỊ
CUNG ỨNG VẬT TƯ KỸ THUẬT.
(Ban hành kèm theo quyết định số 343-TTg ngày 14-12-1971 của Thủ tướng Chính
phủ)
I - Ý NGHĨA MỤC
ĐÍCH
Chế độ báo cáo thống kê và kế
toán định kỳ chính thức này áp dụng cho các đơn vị cung ứng vật tư kỹ thuật đã
hạch toán độc lập (gọi tắt là đơn vị cung ứng) nhằm mục đích:
1. Kiểm tra một cách có hệ thống
và toàn diện tình hình thực hiện kế hoạch cung ứng, tài vụ, lao động và tiền
lương, v.v… của đơn vị cung ứng thuộc các ngành, các cấp.
2. Thu thập những số liệu cần
thiết cho việc phân tích hoạt động kinh tế của đơn vị cung ứng và của các tổ chức
quản lý cung ứng cấp trên.
3. Làm căn cứ cho việc xây dựng,
bảo vệ, điều chỉnh và xét duyệt các chĩ tiêu nhập, cung ứng dự trữ vật tư kỹ
thuật, các chỉ tiêu kế hoạch tài vụ, lao động tiền lương và các chỉ tiêu kế hoạch
khác.
4. Cải tiến và từng bước thống
nhất công tác hạch toán ở các đơn vị cung ứng làm cho các chỉ tiêu, biểu mẫu
báo cáo không trùng lắp, nặng nề, thuận tiện cho công tác cơ khí hóa tính toán,
nhằm đảm bảo cung cấp những nguồn tin chính xác, kịp thời cho công tác thông
tin kinh tế.
II. NỘI DUNG
Nội dung chế độ báo cáo thống kê
và kế toán định kỳ chính thức gồm 2 phần:
A. Báo cáo số liệu:
a) Báo cáo của các đơn vị cung ứng
đã hạch toán độc lập do trung ương quản lý.
b) Báo cáo của các đơn vị cung ứng
đã hạch toán độc lập do địa phương quản lý.
Hệ thống báo cáo bằng số liệu gồm
những chỉ tiêu, biểu mẫu sau đây:
1. Cung ứng vật tư kỹ thuật cho
các đơn vị sử dụng và các đơn vị sử dụng trọng điểm.
2. Xuất vật tư kỹ thuật.
3. Nhập vật tư kỹ thuật.
4. Tồn kho vật tư kỹ thuật.
5. Nhập, xuất, tồn kho vật tư kỹ
thuật.
6. Lao động trong danh sách.
7. Tiền lương của lao động trong
danh sách.
8. Tăng giảm lao động.
9. Sử dụng thời gian lao động.
10. Năng suất lao động.
11. Tai nạn lao động.
12. Chất lượng công nhân kỹ thuật.
13. Chất lượng cán bộ khoa học kỹ
thuật, nghiệp vụ chuyên môn.
14. Mạng lưới cung ứng.
15. Nhà kho, bãi
16. Thiết bị máy móc phục vụ
cung ứng.
17. Nhập, xuất, tồn kho nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu sử dụng nội bộ.
18. Khối lượng vận tải vật tư kỹ
thuật.
19. Thực hiện định mức tiêu hao
xăng, dầu cho vận tải.
20. Bảng tổng kết tài sản.
21. Vốn cơ bản.
22. Tăng giảm tài sản cố định và
quỹ khấu hao.
23. Tài sản thừa, thiếu, tổn thất.
24. Chi phí lưu thông.
25. Lãi, lỗ.
26. Quỹ xí nghiệp.
27. Các khoản thanh toán với
ngân sách.
28. Công, nợ phải thanh toán.
29. Kinh phí sự nghiệp và kinh
phí chuyên dùng.
30. Thu, chi tiền mặt.
31. Thực hiện vốn đầu tư xây dựng
cơ bản.
32. Công trình hoàn thành, giá
trị tài sản cố định và năng lực mới tăng.
33. Chi phí thực tế công trình tự
làm.
Việc phân loại các kỳ hạn của từng
chỉ tiêu, biểu mẫu báo cáo do Tổng cục Thống kê quy định.
B. Báo cáo phân tích bằng lời
văn.
Giải thích rõ số liệu, các
nguyên nhân hoàn thành hoặc không hoàn thành kế hoạch, nêu lên những nhận định
tình hình trong kỳ báo cáo, những khó khăn, thuận lợi, những tồn tại cũng như
những khả năng tiềm tàng cần phát huy và triển vọng thực hiện kế hoạch trong kỳ
tới.
III - THỜI HẠN
NHẬN BÁO CÁO
Tất cả báo cáo thống kê và kế
toán định kỳ chính thức của các đơn vị cung ứng gửi lên cấp trên đều là báo cáo
mật và tối mật của Nhà nước. Các báo cáo gửi đi phải được bảo vệ theo đúng chế
độ Nhà nước quy định.
Thời hạn nhận báo cáo quy định
như sau:
- Báo cáo tháng của tất cả các
đơn vị cung ứng phải có ở nơi nhận từ 3 đến 6 ngày sau khi kết thúc tháng báo
cáo.
- Báo cáo quý, 6 tháng, 9 tháng
phải có ở nơi nhận từ 7 đến 15 ngày sau khi kết thúc kỳ báo cáo.
- Báo cáo năm phải có ở nơi nhận
từ 15 đến 30 ngày sau khi kết thúc năm báo cáo.
- Báo cáo của các đơn vị cung ứng
trọng điểm phải có ở nơi nhận sớm hơn thời hạn trên.
Thời gian nhận báo cáo cụ thể của
từng biểu và của từng cấp do Tổng cục Thống kê quy định.
Riêng đối với các công ty cung ứng
vật tư nông nghiệp, ngoài việc báo cáo tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng, năm, cần
phải báo cáo cho các cơ quan quản lý cấp trên tình hình cung ứng vật tư theo thời
vụ nông nghiệp. Các báo cáo theo thời vụ do Tổng cục Thống kê bàn với Ủy ban
Nông nghiệp trung ương rồi quy định cụ thể.
IV - TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Các ngành ở trung ương và các Ủy
ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần có kế hoạch phổ biến
chế độ báo cáo này, cùng các quy định cụ thể về chế độ, nội dung biểu mẫu của Tổng
cục Thống kê cho các đơn vị cung ứng quán triệt chấp hành, nếu cần sửa đổi, bổ
sung nội dung biểu mẫu báo cáo, thì báo cho Tổng cục Thống kê biết để Tổng cục
Thống kê nghiên cứu, trao đổi ý kiến với các Bộ, ngành có liên quan và ra văn bản
sửa đổi bổ sung.
Các ngành ở trung ương và các Ủy
ban hành chính tỉnh, thành phố phải hướng dẫn và đôn đốc các đơn vị cung ứng tổ
chức thực hiện chế độ ghi chép ban đầu của Nhà nước đã ban hành, đồng thời tổ
chức tốt việc thông tin trong nội bộ đơn vị cung ứng theo nghị quyết số 02-CP
ngày 2-1-1971 của Hội đồng Chính phủ để phục vụ yêu cầu quản lý và chỉ đạo của
đơn vị cung ứng và có cơ sở số liệu chính xác, kịp thời để thực hiện chế độ báo
cáo này. Thông qua việc thực hiện chế độ báo cáo này, các ngành và các Ủy ban
haàh chính tỉnh, thành phố cần chấn chỉnh tổ chức và công tác thống kê, kế toán
ở cơ sở cho phù hợp với nhiệm vụ mới.