ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
SỐ:
31/2005/QĐ-UB
|
TP.Hồ
Chí Minh, ngày 17 tháng 02 năm 2005
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỀ BAN HÀNH PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH VỀ HỆ THỐN CƠ SỞ GIẾT
MỔ GIA SÚC,GIA CẦM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2010 VÀ QUI ĐỊNH
VỀ HOẠT ĐỘNG GIẾT MỔ, VẬN CHUYỂN, KINH DOANH ĐỘNG VẬT, SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 93/2001/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2001 của Chính phủ về
phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho thành phố
Hồ Chí Minh;
Căn cứ Nghị định số 163/2004/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ về
quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm;
Căn cứ Chỉ thị số 403/TTg ngày 11 tháng 7 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về
việc chấn chỉnh công tác kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thực phẩm có
nguồn gốc động vật;
Căn cứ Quyết định số 123/1998/QĐ-TTg ngày 10 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung của thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020;
Căn cứ Thông tư Liên bộ số 05 LB/TT ngày 24 tháng 5 năm 1997 của Liên Bộ Thương
mại và Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hướng dẫn những điều kiện trong giết
mổ, buôn bán và vận chuyển lợn, trâu, bò;
Căn cứ Tiêu chuẩn Việt Nam về yêu cầu vệ sinh cơ sở giết mổ TCVN 5452-91 ban
hành ngày 17 tháng 7 năm 1991;
Xét đề nghị của Sở Thương mại tại tờ trình số 4639A/TM ngày 27 tháng 12 năm
2004 và của Chi cục Thú y tại tờ trình số 1206/CV-CCTY ngày 28 tháng 12 năm
2004;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.
Nay ban hành kèm theo quyết định này Phương án quy hoạch về hệ thống cơ sở giết
mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 và Qui định
về hoạt động giết mổ, vận chuyển, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật trên
địa bàn thành phố.
Điều 2.
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Điều 3.
Sở Thương mại có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Y tế, Sở Nội
vụ, Công an thành phố, Chi cục trưởng Chi cục Thú y có kế hoạch triển khai
hướng dẫn Ủy ban nhân dân các quận, huyện thực hiện Phương án quy hoạch về hệ
thống cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2010 và Qui định về hoạt động giết mổ, vận chuyển, kinh doanh động vật, sản
phẩm động vật trên địa bàn thành phố; đồng thời tổ chức kiểm tra, giám sát nhằm
thực hiện tốt Phương án và Qui định này.
Điều 4. Chánh
Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố; Giám đốc Sở Thương
mại, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Giám đốc Sở Y Tế, Giám
đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Giám đốc Sở Tài chính, Giám đốc Công an thành
phố, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Giám đốc Sở Nội vụ, Chi cục trưởng Chi cục
Thú y thành phố, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường thành phố, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân các quận - huyện; Thủ trưởng các sở, ban ngành thành phố; các
tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm thi hành quyết định này./.
Nơi nhận :
- Như trên
- Thường trực Thành ủy
- Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố
- Thường trực Ủy ban nhân dân thành phố
- UBMTTQVN và các Đoàn thể TP
- Văn phòng và các Ban Thành ủy
- Các Ban Hội đồng nhân dân thành phố
- VPHĐ-UB : các PVP
- Các Tổ NCTH
- Lưu (TM/L).
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC
Nguyễn Thiện Nhân
|
PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH
VỀ HỆ THỐNG CƠ SỞ GIẾT MỔ GIA SÚC, GIA CẦM TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 31/2005/QĐ-UB ngày 17 tháng 02 năm 2005
của UBND thành phố Hồ Chí Minh).
Phần thứ nhất:
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIẾT
MỔ, LƯU THÔNG, KINH DOANH, TIÊU THỤ GIA SÚC, GIA CẦM VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI LĨNH VỰC NÀY TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố từ nay đến năm 2010, đi đôi với việc đổi mới công
nghệ, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại hóa của các ngành, các
lĩnh vực then chốt, thực hiện đồng thời việc cải tạo, chỉnh trang và đầu tư
phát triển đồng bộ các cơ sở hạ tầng, xây dựng thành phố trở thành một trong
những trung tâm dịch vụ, thương mại, tài chính và văn hóa của cả nước và khu
vực Đông Nam Á.
Để đáp ứng các yêu cầu trên,
đồng thời đảm bảo nếp sống văn minh đô thị vệ sinh an toàn thực phẩm cho người
dân thành phố, việc bố trí các cơ sở giết mổ như hiện nay không còn phù hợp,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái và đời sống dân cư đô thị,
không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và nguy cơ về lây truyền dịch tễ cho
đàn gia súc, gia cầm chăn nuôi trên địa bàn thành phố. Đặc biệt, đợt dịch cúm
gia cầm vừa qua đã làm nổi rõ những nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng
của hoạt động kinh doanh, giết mổ gia súc, gia cầm và yêu cầu di dời hoạt động
giết mổ ra khỏi khu dân cư ngày càng trở nên cấp bách. Trước tình hình đó, việc
quy hoạch lại hệ thống cơ sở giết mổ ở thành phố với định hướng lâu dài là một
nhu cầu hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
I . ĐẶC ĐIỂM
GIẾT MỔ, LƯU THÔNG VÀ KINH DOANH GIA SÚC GIA CẦM:
Các hoạt động liên quan đến giết
mổ lưu thông, kinh doanh gia súc, gia cầm có một số đặc điểm khách quan riêng
biệt cần hết sức quan tâm trong vấn đề quy hoạch :
1. Hoạt
động ảnh hưởng đến môi trường đồng thời chịu sự tác động bởi môi trường bên
ngoài:
Bản thân hoạt động của các cơ sở
giết mổ tạo ra nguy cơ ô nhiễm môi truờng do việc vận chuyển, tiếp nhận động
vật sống và trong quá trình sản xuất tạo ra tiếng ồn, mùi hôi, đặc biệt chất
thải, nước thải nếu không được xử lý đúng mức. Tuy nhiên, sản phẩm tạo ra sau
khi giết mổ lại là nguồn thực phẩm cho con người và cũng chịu một nguy cơ cao
bị vấy nhiễm từ môi trường bên ngoài trong quá trình giết mổ và vận chuyển sản
phẩm đi tiêu thụ.
Đây là đặc điểm rất quan trọng
cần lưu ý trong việc quy hoạch cơ sở giết mổ nhất là khi đưa vào các khu công
nghiệp tập trung.
2. Tập
quán tiêu dùng:
Hiện nay, tập quán sử dụng thịt
nóng trong tiêu dùng và trong chế biến vẫn còn phổ biến trong nhân dân. Người
tiêu dùng chưa có ý thức trong việc lựa chọn sản phẩm động vật đã được kiểm tra
của cơ quan thú y, thịt xuất phát từ các cơ sở giết mổ có uy tín hoặc nơi bày
bán hợp vệ sinh. Việc lựa chọn chỉ thông qua hình thức bên ngoài và thuận tiện
khi mua sản phẩm ....
Đây là tập quán có khả năng vẫn
còn tồn tại lâu dài, là một trong những yếu tố tác động gây trở ngại đến nỗ lực
nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ quan chức năng. Do
đó, để phù hợp với tập quán trên, việc bố trí cơ sở giết mổ không thể không gắn
liền với thị trường kinh doanh và mạng lưới tiêu thụ. Tuy nhiên,cũng cần phải
từng bước thay đổi tập quán tiêu dùng của người dân để phù hợp với nếp sống văn
minh đô thị thông qua việc cải tạo, nâng cấp các chợ đầu mối thực phẩm và phát
triển hệ thống cửa hàng, siêu thị chuyên doanh thịt được trang bị hiện đại.
3. Về
vấn đề đầu tư:
Thị trường tiêu thụ sản phẩm
động vật chủ yếu là ở thành phố, khó có khả năng mở rộng ra các tỉnh như một số
ngành nghề sản xuất khác. Việc mở rộng thị trường chủ yếu dựa vào việc nâng cao
chất lượng sản phẩm động vật, nguồn nguyên liệu cho chế biến và hoạt động xuất
khẩu. Trong khi đó, chi phí cho việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang
thiết bị khá cao, đặc biệt hệ thống xử lý nước thải, chất thải. Do đó, đối với
những cơ sở có quy mô công suất lớn, quy trình giết mổ đạt tiêu chuẩn chỉ những
tổ chức có đủ năng lực về quản lý và tài chính mới có thể thực hiện được.
4. Vấn
đề tác động xã hội:
- Việc kinh doanh, vận chuyển,
giết mổ gia súc, gia cầm hiện nay chủ yếu ở trình độ còn thấp, thủ công, phần
lớn người tham gia vào các hoạt động giết mổ là lao động phổ thông, chưa có ý
thức tự giác chấp hành các quy định về vệ sinh trong quá trình sản xuất, từ đó
ảnh hưởng xấu đến chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Song song đó, hoạt động giết
mổ hiện nay cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục ngàn người
lao động, nhất là những người vận chuyển sản phẩm động vật bằng phương tiện thô
sơ, người lao động thủ công, phụ việc ở các cơ sở giết mổ, những người buôn bán
lẻ...
-Do đó, việc thay đổi phương
thức quản lý hoặc thực hiện các giải pháp theo quy định của cơ quan quản lý nhà
nước đều tác động ít nhiều đến thu nhập, sinh hoạt và đời sống của nhiều thành
phần lao động có liên quan.
II. THỰC
TRẠNG GIẾT MỔ, LƯU THÔNG, KINH DOANH VÀ TIÊU THỤ GIA SÚC, GIA CẦM TẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH:
1. Thực
trạng hệ thống giết mổ gia súc gia cầm hiện nay của thành phố:
Hiện nay, toàn thành phố có 41
cơ sở giết mổ (có 02 cơ sở được phép giết mổ trâu bò và 01 cơ sở giết mổ dê)
với số lượng gia súc được giết mổ hàng đêm bình quân 6.500 -7.000 con heo
(tương đương khoảng 325- 350 tấn), 100-150 con trâu bò (khoảng 10 -15 tấn),
15-20 con dê (khoảng 450kg- 600kg); trong đó chủ yếu tập trung ở 06 cơ sở có
công suất lớn gồm : Vissan, Nam Phong, Tabico, Trung tâm Bình Chánh, Trung tâm
Quận 12, Thị trấn Hóc Môn; cung cấp khoảng 80% lượng thịt và sản phẩm động vật
cho nhu cầu tiêu thụ của thành phố; các cơ sở còn lại có công suất giết mổ
20-100 con heo/đêm (tương đương khoảng 1- 5 tấn) chủ yếu phục vụ nhu cầu từng
địa phương. Riêng tại một số xã vùng xa ở Cần Giờ, Củ Chi có những điểm giết mổ
bình quân chỉ 2-5 con heo/đêm (tương đương khoảng 100kg- 250kg), chưa kể các
điểm giết mổ trái phép.
a) Tổng công suất toàn bộ hệ
thống giết mổ gia súc của thành phố đạt 330-370 tấn/ngày (tương đương khoảng
6.600 - 7.400 con gia súc), trong đó chủ yếu từ các hệ thống sau đây:
- Các cơ sở giết mổ quốc
doanh với công suất 190 -200 tấn thịt/ngày (tương đương khoảng 3.800 –
4.000 con gia súc) chiếm 50% tổng công suất của thành phố. Tuy nhiên trong số
công suất giết mổ 190 - 200 tấn thịt/ngày, thì thực tế các đơn vị quốc doanh
trực tiếp giết mổ khoảng 50-55 tấn thịt/ngày (tương đương khoảng 1.000 – 1.100
con gia súc), số còn lại là cho tư nhân thuê lò mổ hoặc cho mượn danh nghĩa.
- Các cơ sở giết mổ của các
Hợp tác xã với công suất 30-35 tấn thịt/ngày (tương đương khoảng 600 - 700
con gia súc), chiếm 10% tổng công suất của thành phố. Tuy nhiên, trong thực tế
các Hợp tác xã trực tiếp giết mổ khoảng 5 - 10 tấn thịt/ngày (tương đương
khoảng 100 – 200 con gia súc), số còn lại là do tư nhân thuê lò để giết mổ.
- Các cơ sở giết mổ của tư
nhân với công suất 75-120 tấn/ngày (tương đương khoảng 1.500 – 2.400 con
gia súc) chiếm 30% tổng công suất.
- Các cơ sở giết mổ lậu với
công suất 30-35 tấn/ngày (tương đương khoảng 600 – 700 con gia súc) chiếm 10%
tổng công suất của thành phố.
Đa số các điểm giết mổ gia súc
trên địa bàn thành phố đều thủ công và lạc hậu, không đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm và vệ sinh môi trường, nguồn nước cung cấp không tốt, không thông qua
kiểm định, nước thải thì không có hệ thống xử lý, tự thoát ra môi trường xung
quanh, thẩm thấu xuống lòng đất, gây ô nhiễm đất và nguồn nước trên sông rạch,
làm ô nhiễm vệ sinh môi trường xung quanh. Chỉ có các hệ thống giết mổ của các
đơn vị quốc doanh như : Công ty Vissan, Tổng Công ty Nông nghiệp Sài gòn, là
tương đối đảm bảo được về vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm.
b) Hệ thống giết mổ gia cầm :
Trước khi có dịch cúm gia cầm,
trên toàn thành phố mỗi ngày có khoảng 100.000 con gia cầm được giết mổ để phục
vụ cho nhu cầu của thành phố, từ các cơ sở giết mổ nằm rải rác khắp các quận
huyện.
Thực tế từ trước đến nay, hoạt
động giết mổ gia cầm hoàn toàn không có sự quản lý của các cơ quan chức năng,
không được quy định trong danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và cũng
không thuộc đối tượng điều chỉnh của Quyết định số 78/2002/QĐ-UB ngày 08/7/2002
của Ủy ban nhân dân thành phố. Do đó, hoạt động giết mổ gia cầm đang trong tình
trạng tự phát tại các khu dân cư nằm rải rác trên địa bàn thành phố. Các hoạt
động liên quan đến giết mổ gia cầm thường tiến hành tại các hộ dân để cung cấp
thịt gia cầm làm sẵn cho các chợ lẻ hoặc các siêu thị, nhà hàng, bếp ăn tập thể
hoặc giết mổ tại các chợ với hình thức vừa kinh doanh gia cầm sống, vừa giết mổ
gia công tại chỗ.
Đặc biệt có sự hình thành một số
khu vực tập trung nhiều hộ dân hành nghề mang tính tự phát trong khu dân cư như
địa bàn phường 5, 6, 13 - quận 8 hoặc có xu hướng thành lập điểm giết mổ gia
cầm tại một số vựa kinh doanh gia cầm sống như xã Bình Hưng huyện Bình Chánh.
Đa số đều tự giết mổ, theo kiểu hộ gia đình chỉ có một vài cơ sở mới trang bị
hệ thống giết mổ theo dây chuyền do xuất hiện dịch cúm gia cầm.
Nhận định chung về
hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm hiện nay trên địa bàn thành phố rất thủ công.
Do chưa có quy hoạch nên hệ thống giết mổ không đáp ứng được nhu cầu của thành
phố, một số lớn các cơ sở nằm xen kẽ trong khu dân cư, hầu hết đều không có hệ
thống xử lý nước thải nên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, không bảo đảm an
toàn vệ sinh môi trường, vệ sinh dịch tễ. Trong hệ thống giết mổ hiện nay vẫn
còn tồn tại một hệ thống giết mổ lậu khá lớn rất nguy hiểm đến sức khỏe người
tiêu dùng mà Nhà nước không quản lý được.
Riêng các cơ sở chế biến thực
phẩm từ thịt gia súc, gia cầm (heo, gà, vịt quay) đều tự giết mổ thủ công và
chế biến tại chỗ nơi giết mổ, không đảm bảo vệ sinh, môi trường. Đây là việc
làm sai quy định an toàn vệ sinh thực phẩm, cần phải kiên quyết chấn chỉnh.
2. Thực
trạng hệ thống kinh doanh thịt gia súc, gia cầm:
Hiện nay có 3 hệ thống kinh
doanh chủ yếu như sau :
2.1. Các chợ đầu mối:
o Chuyên bán buôn về gia súc
như: chợ Phạm Văn Hai, chợ Bàu Nai (Q.Tân Bình), chợ An Lạc (Q.Bình Tân), chợ
sỉ thịt gia súc (H. Hóc Môn) hàng ngày cung cấp cho thành phố khoảng 400 - 500
tấn thịt các loại, chiếm 85 - 90% thị trường tiêu thụ của thành phố. Nguồn hàng
của các chợ khá đa dạng từ các cơ sở giết mổ chính thức trong thành phố, các
tỉnh đưa về và các cơ sở giết mổ lậu.
o Chuyên bán buôn về gia cầm
sống như : trước khi dịch cúm gia cầm xảy ra, hoạt động kinh doanh gia cầm sống
tập trung tại các chợ Trần Chánh Chiếu (Q.5), chợ Bình Đăng (Q.8), chợ Bình
Hưng (H.Bình Chánh), và một số khu vực gia cầm sống tại các quận 12, Gò Vấp,
Hóc Môn hàng ngày cung cấp cho thành phố khoảng 100-150 tấn thịt các loại.
Nguồn hàng của các chợ chủ yếu là ở các tỉnh lân cận và các trang trại ở ngoại
thành mang đến, không rõ nguồn gốc nên rất khó kiểm soát.
Thực chất hệ thống các chợ đầu
mối, về cơ sở vật chất còn yếu kém, các điểm buôn bán chưa đảm bảo về vệ sinh
an toàn thực phẩm, mặc dù Chi cục thú y đã có kiểm soát.
2.2. Các chợ bán lẻ :
Hiện nay trên địa bàn thành phố
có khoảng 200 chợ bán lẻ chính thức kinh doanh thịt gia súc, gia cầm các loại
lấy từ các chợ đầu mối. Ngoài ra còn có hơn 100 chợ tự phát, buôn bán lẻ thịt
một cách bừa bãi, dưới lòng lề đường, góc đường... nguồn gốc thịt ở các nơi này
đa số là thịt lậu, không kiểm soát được.
Nhìn chung cơ sở vật chất tại
các chợ bán lẻ rất yếu kém, không đảm bảo vệ sinh dịch tễ và môi trường, chất
lượng thịt chưa được kiểm soát chặt chẽ. Người bán chưa ý thức được tầm quan
trọng của việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng hóa đặc biệt là
thịt tươi sống các loại, do đặc điểm của thịt tươi dễ bị phân hủy, hư hỏng
trong khi lại không có các phương tiện bảo quản cần thiết, nên một số người bán
đã dùng nhiều thủ đoạn gian dối như : ướp hàn the vào thịt, bơm nước, thuốc vào
thân thịt, bất chấp các nguy cơ ngộ độc thực phẩm, sức khỏe, tính mạng người
tiêu dùng
Trước khi xảy ra dịch cúm gà,
hầu hết tất cả các chợ đều có bán gia cầm sống tại chợ, nhưng hiện nay các chợ
trong khu vực nội thành việc kinh doanh gia cầm sống rất ít, thậm chí không
còn, việc kinh doanh gia cầm sống hiện nay tồn tại chủ yếu ở các chợ ngoại
thành và vùng ven.
2.3. Hệ thống siêu thị và các
cửa hàng :
Nguồn hàng chủ yếu từ các cơ sở
giết mổ chính thức và nguồn thịt các loại nhập khẩu, có chất lượng tốt hơn ở
các chợ, có các phương tiện lưu trữ, bảo quản hiện đại như: kho mát, tủ mát,
giữ nhiệt độ cho thịt tươi sống, nhưng chỉ chiếm khoảng 3 - 5% nhu cầu của
thành phố, chủ yếu phục vụ cho các nhà hàng, khách sạn lớn, hoặc một số bán lẻ
tại siêu thị nhưng tỉ trọng rất nhỏ.
Việc kinh doanh thịt ở các siêu
thị, cửa hàng đã được cải thiện đáng kể, chất lượng thịt đảm bảo về các điều kiện
vệ sinh an toàn thực phẩm, làm cho người tiêu dùng càng ngày càng an tâm.
Mặc dù đã có các quy định về kinh
doanh thịt gia súc và gia cầm nhưng đa số các hộ kinh doanh ở các chợ đều không
tuân thủ; cơ sở vật chất kinh doanh còn yếu kém, không phù hợp, người buôn bán
không được kiểm tra sức khỏe, không trang bị các thiết bị bảo hộ cần thiết như
bao tay, tạp dề… để tránh việc vấy bẩn lên thân thịt; việc kinh doanh tại các
chợ tự phát, lề đường rất mất vệ sinh ngày càng nghiêm trọng dẫn đến nguy cơ
rất cao về ngộ độc thực phẩm.
3. Thực
trạng về hệ thống tổ chức lưu thông vận chuyển bao bì đóng gói thịt gia súc,
gia cầm:
- Về trang thiết bị vận chuyển
gia súc, gia cầm hiện nay ở các cơ sở giết mổ tư nhân rất là thô sơ như việc
vận chuyển bằng xe gắn máy, xe đò, xe ba gác, xe xích lô…không đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm; nhân viên vận chuyển thì không có trang phục bảo hộ.
- Chỉ riêng có các đơn vị quốc doanh,
các siêu thị có phương tiện chuyên dùng (xe bảo ôn) để vận chuyển gia súc, gia
cầm.
Nhìn chung : Việc
vận chuyển gia súc, gia cầm hiện nay chưa có một hệ thống tổ chức vận chuyển
đúng theo quy định. Tuy đã có nhiều qui định nhưng không có cơ quan chức năng
nào chịu trách nhiệm kiểm soát việc thực hiện trong khâu này. Đây là một vấn đề
nan giải, còn buông lỏng.
4. Về vệ
sinh môi trường:
Từ năm 1995 đến nay, cùng với sự
phát triển kinh tế xã hội của thành phố, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng,
vị trí xây dựng các cơ sở giết mổ không còn phù hợp và có nhiều tác động xấu
đến môi trường. Hiện nay có 24/40 cơ sở nằm trong khu dân cư, 10/40 cơ sở nằm
trong khu vực thưa dân cư, chỉ còn 6/40 cơ sở nằm tương đối cách biệt. Trong
đó, các cơ sở có công suất lớn đều nằm trong khu vực nội thành và thuộc diện
phải di dời.
Ngoài Công ty Nam Phong có hệ
thống xử lý chất thải, nước thải và Công ty Vissan với hệ thống xử lý đã xuống
cấp, hầu hết các cơ sở khác không có hệ thống xử lý nước thải - chất thải kín
và đưa trực tiếp ra ngoài, thẩm thấu vào lòng đất hoặc thải ra kinh rạch, sông,
không qua xử lý; cùng với việc vận chuyển gia súc đi sâu vào khu vực dân cư
đông đúc dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
5. Về vệ
sinh an toàn thực phẩm:
Điều kiện hoạt động của các cơ
sở giết mổ không đáp ứng yêu cầu đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm do các
nguyên nhân:
o Phương thức giết mổ lạc
hậu
· Toàn thành phố chỉ có nhà máy
Vissan có dây chuyền giết mổ công nghiệp, nhưng sử dụng phần nhỏ công suất vì
phương thức giết mổ thủ công và giết mổ trái phép lấn át cạnh tranh, hầu hết
các cơ sở giết mổ đều áp dụng phương thức giết mổ thủ công, các công đoạn trong
quá trình giết mổ đều thực hiện trên bệ chỉ cách mặt đất 20-30 cm.
· Việc mổ, xẻ thân thịt nằm trên
bệ dẫn đến tình trạng các thao tác của công nhân và nước thải, chất thải trong
quá trình giết mổ (như lông, huyết) dễ gây nhiễm bẩn cho thân thịt, không đảm
bảo an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là nhược điểm lớn của phương thức
giết mổ thủ công, tuy nhiên do chưa có hướng dẫn, quy định bắt buộc trong quy
trình giết mổ theo những phương thức hợp vệ sinh hơn (như phải treo thân thịt
khi tiến hành mổ lấy lòng và chẻ mảnh) nên hiện nay chưa khắc phục được tình
trạng vấy nhiễm trên thân thịt trong giết mổ gia súc.
o Quy mô, công suất giết mổ
· Hệ thống cơ sở giết mổ hiện
nay về mặt bằng và cơ sở vật chất kỹ thuật chỉ đáp ứng cho công suất giết mổ
khoảng 4.000 con heo/đêm (Công ty Vissan), 1.000 con heo/đêm (Nam Phong), 500
con heo/đêm (Trạm 4). Tuy nhiên, đến nay do nhu tiêu thụ thực phẩm nguồn gốc
động vật trên địa bàn thành phố, công suất giết mổ hàng đêm bình quân là 1.000
-1.500 con heo/đêm, từ đó dẫn đến tình trạng các cơ sở giết mổ đạt công suất rất
là chênh lệch, như Công ty Vissan giết mổ chỉ 500 con heo/đêm, do đó dư công
suất, trong khi các cơ sở có công suất như: Nam Phong, Tabico, 213 Bến Bình
Đông, thì hoạt động vượt công suất thiết kế ban đầu, không đảm bảo vệ sinh
trong quá trình giết mổ.
· Đa số các cơ sở chỉ được phép
hoạt động tạm thời nên tổ chức hoặc cá nhân quản lý cơ sở không mạnh dạn đầu tư
sửa chữa dẫn đến tình trạng xuống cấp, không đảm bảo vệ sinh.
o Quy trình hoạt động
· Hầu hết các cơ sở giết mổ theo
phương thức thủ công, không đảm bảo quy trình kỹ thuật từ khâu nhập gia súc
sống đến các công đoạn trong quá trình giết mổ và nơi xuất sản phẩm, dẫn đến
tình trạng tạp nhiễm chéo giữa các khâu. Cá biệt có một số cơ sở bố trí nơi làm
lòng trong khu vực giết mổ, không có sự tách biệt giữa khu dơ và khu sạch tạo
sự vấy nhiễm nghiêm trọng.
Những hạn chế trên ảnh hưởng đến
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, việc chấn chỉnh quy trình giết
mổ đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn. Trong khi chờ kế hoạch chính thức của các cấp
chính quyền, các cá nhân, tổ chức quản lý cơ sở giết mổ e ngại sự đầu tư chi
phí lớn trong điều kiện phải di dời theo chủ trương của thành phố.
6. Thực
trạng về vệ sinh an toàn dịch tễ :
Các cơ sở giết mổ trên địa bàn
thành phố tiếp nhận nguồn gia súc từ 40 tỉnh, thành trên cả nước, chiếm đến
90%, trong khi tổng đàn gia súc chăn nuôi ở thành phố chỉ tự cung cấp được
khoảng 10% số lượng heo giết mổ hàng đêm, riêng nguồn trâu bò hoàn toàn do các
tỉnh cung cấp. Trong khi công tác kiểm dịch vận chuyển động vật, sản phẩm động
vật hiện nay chưa được phối hợp đồng bộ giữa Chi cục Thú y các tỉnh để kiểm tra
chặt chẽ nguồn gia súc, gia cầm trong lưu thông, các Trạm Kiểm dịch Động vật đầu
mối giao thông ở các cửa ngõ ra vào thành phố không dủ điều kiện kiểm tra về kỹ
thuật. Từ đó, mỗi cơ sở giết mổ đều có nguy cơ trở thành ổ dịch khi có dịch
bệnh xảy ra ở các tỉnh khác.
Mặt khác, hiện nay chưa có những
quy định cụ thể để hạn chế vận chuyển gia súc đi vào các khu đô thị và các vùng
chăn nuôi trọng điểm, ảnh hưởng đến môi trường và vấn đề đảm bảo an toàn dịch
bệnh.
7. Thực
trạng quản lý nhà nước đối với hệ thống giết mổ, kinh doanh, lưu thông vận
chuyển gia súc, gia cầm tại thành phố Hồ Chí Minh:
a. Cơ sở pháp lý :
Theo thống kê, có khoảng 13 văn
bản của các ngành các cấp ban hành quy định tất cả các vấn đề về hoạt động giết
mổ, vận chuyển, kinh doanh gia súc gia cầm.
Hiện nay, văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất là Pháp lệnh thú y ban hành ngày 29/4/2004 thay thế cho Pháp
lệnh thú y ngày 04/02/1993. Từ năm 1995 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị
số 403/TTg ngày 11/7/1995 về việc chấn chỉnh công tác kiểm soát giết mổ và kiểm
tra vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật và sau đó là Thông tư liên bộ số
05/LB-TT ngày 24/5/1997 của liên bộ Thương mại và Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về việc hướng dẫn điều kiện trong giết mổ, buôn bán và vận chuyển
lợn, trâu bò, Thông tư số 16/TT-BTM ngày 15/6/1999 của Bộ Thương mại về việc
hướng dẫn điều kiện mua bán, vận chuyển thực phẩm tươi sống… và một số văn bản
pháp lý của Nhà nước được ban hành qui định về công tác kiểm soát giết mổ và
kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thực tế hiện nay, việc áp dụng
các quy định của pháp luật trong quản lý nhà nước về giết mổ, kinh doanh, vận
chuyển gia súc gia cầm chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Điều này xuất phát
từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong những nguyên nhân đó là các văn
bản của nhà nước chưa khả thi, thiếu tính thực tế, những quy định trong văn bản
chưa tính đến tình hình thực tế hiện nay, khả năng và lực lượng của các cơ quan
Nhà nước quản lý hoạt động này. Ngoài ra việc quản lý nhà nước kém hiệu quả
cũng xuất phát từ những quy định chồng chéo giữa các văn bản, không có hướng
dẫn rõ ràng, việc xử phạt, xử lý chưa kiên quyết, dây dưa, mỗi cơ quan quản lý
Nhà nước vận dụng khác nhau, không có sự thống nhất chung.
b. Trách nhiệm quản lý:
- Trách nhiệm quản lý thuộc các
cơ quan Nhà nước như: Ủy ban nhân dân các Quận, Huyện, Phường, xã, Lực lượng
Quản lý Thị trường, Công an, Chi cục Thú y....Nhưng theo đánh giá của các cơ
quan nhà nước, chỉ quản lý được khoảng 60-70% hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm
trên địa bàn thành phố, còn nằm ngoài sự quản lý của các cơ quan chức năng, từ
đó, để phát sinh hàng loạt nguy cơ về: vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh dịch
tễ, vệ sinh môi trường.
- Các văn bản có nhiều nhưng
chồng chéo, phân công trách nhiệm quản lý không rõ ràng, việc thực hiện của các
cơ quan chức năng chưa đầy đủ, đến nơi đến chốn, chưa có quy hoạch một cách cơ
bản.
8. Nguyên
nhân của thực trạng :
a) Giết mổ gia súc là ngành nghề
kinh doanh có điều kiện, tuy nhiên việc quản lý nhà nước có nơi, có lúc bị
buông lỏng, kiểm tra, kiểm soát chưa thường xuyên, phân công trách nhiệm không
rõ ràng. Đây là nguyên nhân chủ yếu của tình trạng hiện nay.
b) Do điều kiện kinh tế - xã
hội: mức sống đa số người tiêu dùng chưa cao, sự quan tâm vệ sinh an toàn thực
phẩm còn thấp, không thể phân biệt và cũng không quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ
của thực phẩm, kể cả nguồn gốc được giết mổ chính thức hay giết mổ lậu, sẵn
sàng mua ở chợ tự phát, quầy gánh ven đường mất vệ sinh. Từ đó, tạo điều kiện
cho giết mổ lậu và kinh doanh không theo qui định ngày càng gia tăng, hạn chế
khả năng phát triển và đổi mới trang thiết bị của các cơ sở giết mổ chính thức,
giết mổ công nghiệp. Dân nhập cư vào thành phố quá đông, đời sống nghèo khổ, kế
sinh nhai chủ yếu dựa vào mua gánh bán bưng nên việc tổ chức, quản lý, việc
kinh doanh, giết mổ hết sức gay go.
c) Tập quán về thói quen trong
tiêu dùng, kinh doanh, là vấn đề ảnh hưởng và nan giải trong quản lý. Ở đâu
cũng có có thể mua bán, bất chấp các qui định của Nhà nước trở thành thói quen,
ý thức của người tiêu dùng trong việc thích mua “thịt nóng”, còn người kinh
doanh thì ý thức rất kém về vệ sinh an toàn thực phẩm, thậm chí ướp hóa chất
độc, bơm nước vào thịt để “bắt mắt” người tiêu dùng.....
d) Hệ thống chăn nuôi gia súc,
gia cầm ở thành phố nói riêng, cả nước nói chung còn mang tính nhỏ lẻ, phân tán
nên ảnh hưởng đến tổ chức giết mổ công nghiệp và kinh doanh.
Thực trạng đó đòi hỏi thành phố
phải nhanh chóng quy hoạch lại hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm; cần tổ chức
chặt chẽ từ khâu giết mổ, kinh doanh, lưu thông để có chuyển biến nhanh và mạnh
nhằm bảo đảm tốt hơn vệ sinh an toàn thực phẩm đang là vấn đề bức xúc của nhân
dân, đồng thời để phù hợp với một thành phố là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa
học kỹ thuật, du lịch và xuất khẩu.
Phần thứ
hai:
QUY HOẠCH HỆ THỐNG CƠ SỞ
GIẾT MỔ GIA SÚC, GIA CẦM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010
I. MỤC TIÊU
QUY HOẠCH:
- Xác định giết mổ kinh
doanh gia súc, gia cầm : là một mặt hàng kinh doanh có điều kiện. Nhà
nước cần phải thực hiện quản lý, có trách nhiệm quản lý chặt chẽ, phải có tổ chức
quy hoạch, kiểm soát thường xuyên.
- Đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm cho người tiêu dùng: phải thực hiện phương thức giết
mổ theo hướng ngày càng tiên tiến, hiện đại, xóa phương thức giết mổ thủ công
không còn phù hợp, giảm thiểu nguy cơ vấy nhiễm trên sản phẩm động vật.
- Khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường từ những hoạt động lưu thông vận chuyển, giết mổ động
vật và kinh doanh phân phối, đảm bảo nếp sống văn minh đô thị của người dân
thành phố.
- Đảm bảo an toàn dịch tễ,
bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đồng thời bảo vệ đàn gia
súc chăn nuôi trên địa bàn thành phố.
II. YÊU CẦU:
- Thiết lập đồng bộ 3 yếu tố:
+ Cơ sở giết mổ
+ Quy định trong lưu thông
+ Quy định trong kinh doanh
(Quy định cả về con người lẫn
phương tiện giết mổ, vận chuyển, kinh doanh sản phẩm gia súc, gia cầm sống và
làm sẵn).
- Quy hoạch phải phù hợp với quy
hoạch phát triển chung về kinh tế-xã hội của thành phố, của từng địa bàn các
quận huyện,
- Quy hoạch mang tính chiến lược
lâu dài, khả thi và tương đối ổn định, phục vụ yêu cầu quản lý của các cơ quan
chức năng.
- Đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ
nông sản của người chăn nuôi. Hỗ trợ công tác chống giết mổ gia súc trái phép
trên địa bàn thành phố.
- Thuận tiện trong việc vận
chuyển, kinh doanh, gắn với hệ thống mạng lưới tiêu thụ động vật, sản phẩm động
vật.
- Có dự án phân kỳ về thời gian
thực hiện, không tạo sự biến động về nguồn sản phẩm động vật cung cấp cho thị
trường và tổng công suất giết mổ đáp ứng được thị trường thành phố và dự trù
cho việc xuất khẩu.
- Góp phần nâng cao nhận thức về
vệ sinh an toàn thực phẩm và thay đổi dần tập quán sử dụng thịt nóng của đại bộ
phận người tiêu dùng hiện nay.
III. CƠ SỞ
QUY HOẠCH :
1. Các
văn bản có liên quan :
- Pháp lệnh thú y ngày 29/4/2004
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Chỉ thị số 403/TTg ngày
11/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh công tác kiểm soát giết mổ
và kiểm tra vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật.
- Quyết định số 123/1998/QĐ-TTg
ngày 10/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch
chung của thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
- Quyết định số 166/2001/QĐ-TTg
ngày 26/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp và chính sách phát
triển chăn nuôi lợn xuất khẩu giai đoạn 2001-2010.
- Quyết định số 167/2001/QĐ-TTg
ngày 26/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp và chính sách phát
triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001- 2010.
- Quyết định số 99/NN-TY-QĐ ngày
20/02/1995 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) ban hành Quy định về vệ sinh thú y đối với
cơ sở giết mổ động vật.
- Thông tư liên bộ số 05/LB-TT
ngày 24/5/1997 của liên Bộ Thương mại và Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về
việc hướng dẫn điều kiện trong giết mổ, buôn bán và vận chuyển lợn, trâu, bò.
- Thông tư số 16/TT-BTM ngày
15/6/1999 của Bộ Thương mại về việc hướng dẫn điều kiện mua bán, vận chuyển
thực phẩm tươi sống.
- Quyết định số 62/2002/QĐ-BNN
ngày 11/7/2002 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban
hành Quy định xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật.
- Văn bản số 689/TY-DT ngày
21/10/2002 của Cục Thú y hướng dẫn thực hiện Quy định vùng, cơ sở an toàn dịch
bệnh động vật.
- Quyết định số 96/2002/QĐ-UB
ngày 27/8/2002 của Ủy ban nhân dân thành phố về Phê duyệt chương trình mục tiêu
phát triển bò sữa thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2002 - 2005.
- Quyết định số 78/2002/QĐ-UB
ngày 08/7/2002 của Ủy ban nhân dân thành phố về công bố danh sách các ngành
nghề sản xuất kinh doanh không cấp mới giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh trong khu dân cư tập trung.
- Quyết định số 144/2003/QĐ-UB
ngày 11/8/2003 của Ủy ban nhân dân thành phố về duyệt quy hoạch phát triển hệ
thống mạng lưới Chợ - Siêu thị Trung tâm thương mại của 22 quận huyện trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010.
- Báo cáo tổng hợp Điều chỉnh
quy hoạch kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 (thực hiện theo
Chỉ thị số 32/1998/CT-TTg ngày 23/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ).
- Niên giám thống kê 2002 của
Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (xuất bản tháng 4/2003)
2. Định
hướng quy hoạch hệ thống chợ, siêu thị và trung tâm thương mại trên địa bàn
thành phố đến năm 2010:
Ủy ban nhân dân thành phố đã ban
hành Quyết định số 144/2003/QĐ-UB về duyệt quy hoạch phát triển hệ thống mạng
lưới Chợ - Siêu thị Trung tâm thương mại của 22 quận huyện trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 như sau :
- Xây dựng 03 chợ đầu mối kinh
doanh nông sản ở khu vực ngoại thành (Thủ Đức, Bình Chánh, Hóc Môn) trên cơ sở
di dời 10 chợ hiện hữu bố trí trong khu vực nội thành, đưa các chợ đầu mối thịt
nội thành ra 3 chợ đầu mối, để tập trung kiểm soát.
- Đối với các chợ bán lẻ trong
thành phố, cần tập trung nâng cấp các chợ hiện hữu, đặc biệt là nâng cấp khu
vực bán buôn thực phẩm, kiên quyết giải tán các chợ tự phát và những nơi buôn
bán thịt không theo quy họach, khuyến khích phát triển các hệ thống siêu thị,
các cửa hàng bán lẻ về thực phẩm trong thành phố, đặt biệt chú ý đến địa bàn
dân cư, khu công nghiệp theo quy họach.
3. Quy
hoạch hệ thống giao thông:
- Thành phố phối hợp với một số tỉnh
lân cận nâng cấp các quốc lộ 1A, 22, 13, 50 và 51.
- Mở các trục giao thông mới nối
liền thành phố với các vùng đô thị phát triển, các khu công nghiệp tập trung.
4. Các
chương trình, mục tiêu phát triển của ngành nông nghiệp:
- Tiếp tục phát huy thế mạnh về
bò sữa, heo, gà, đưa tỷ trọng chăn nuôi từ 35% trong cơ cấu giá trị sản xuất
ngành nông nghiệp vào năm 2000 lên 38% vào năm 2005 và 42% vào năm 2010. Phát triển
loại hình trang trại chăn nuôi thâm canh cao, phát triển các vùng chăn nuôi
trọng điểm của thành phố tại các huyện Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn.
- Thực hiện chương trình xây
dựng vùng an toàn dịch bệnh động vật phục vụ việc phát triển chăn nuôi lợn xuất
khẩu và phát triển chăn nuôi bò sữa.
III. ĐỊNH
HƯỚNG QUY HOẠCH GIA SÚC, GIA CẦM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2010 :
1. Nhu cầu
tiêu thụ gia súc – gia cầm của thành phố:
a) Gia súc :
Từ năm 1998 đến năm 2003, nhu
cầu tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc động vật mỗi năm tăng bình quân 11,34%.
Hiện nay, mỗi ngày toàn thành phố tiêu thụ khoảng 550-600 tấn thịt và thực phẩm
chế biến có nguồn gốc động vật, tương ứng với 7.500-8.000 con heo, 350-400 con
trâu bò, chưa kể đến một lượng lớn thịt và thực phẩm chế biến được nhập từ nước
ngoài phục vụ cho một số siêu thị, nhà hàng. Riêng những ngày cao điểm như: lễ,
tết, nhu cầu tiêu thụ gia súc, gia cầm có thể tăng thêm 20%-50%, đạt khoảng 600
– 800 tấn thịt gia súc, gia cầm/ngày.
Nếu ước tính đến năm 2010, nhu
cầu thực phẩm có nguồn gốc động vật chiếm khoảng 750-850 tấn/ngày, chưa kể phục
vụ nhu cầu xuất khẩu trong những năm tới khi có thị trường.
Lượng sản phẩm động vật tiêu thụ
trên địa bàn thành phố tăng do sự tăng dân số, dự kiến đến năm 2010 là khoảng 9
triệu người. Mặt khác do thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, đòi
hỏi nhu cầu về sản phẩm động vật ngày càng cao.
Nhu cầu về thịt gia súc của
thành phố trong 6 năm từ 1998 đến 2003:
|
1998
|
1999
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
Heo (tấn/ngày)
|
214
|
235
|
273
|
315
|
324
|
332
|
Trâu Bò (tấn/ngày)
|
35
|
37
|
38
|
39
|
42
|
45
|
Nhu cầu về thịt (tấn/ngày)
|
249
|
272
|
311
|
354
|
366
|
377
|
b) Gia cầm :
Thực tế trước khi chưa có dịch
cúm gia cầm, thì việc giết mổ và kinh doanh gia cầm mang tính chất kinh doanh
theo hộ gia đình, không có cơ quan chức năng nào kiểm soát, mỗi ngày lượng gia
cầm thành phố tiêu thụ khoảng 100.000 – 150.000 con gà, vịt, tương đương khoảng
100 -150 tấn/ngày thịt gia cầm. Nếu ước tính đến năm 2010, nhu cầu thực phẩm có
nguồn gốc gia cầm khoảng 200 -250 tấn/ngày.
Nhu cầu về thịt gia cầm của
thành phố trong 6 năm từ 1998 đến 2003:
|
1998
|
1999
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
Gà Vịt (tấn/ngày)
|
45
|
52
|
72
|
95
|
98
|
100
|
c) Nguồn cung cấp:
Hàng đêm có khoảng 6.400 -7.000
con heo và 100 -120 con trâu bò được giết mổ tại các lò mổ trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh, chiếm khỏang 80% nhu cầu thịt gia súc. Phần còn lại giết mổ là
từ các tỉnh đem về, riêng nguồn trâu bò hoàn toàn do các tỉnh cung cấp. Ngoài
ra còn có một lượng lớn thịt gia súc gia cầm giết mổ sẵn được vận chuyển về
tiêu thụ tại thành phố.
- Nguồn cung cấp thịt từ các
cơ sở giết mổ gia súc gia cầm của thành phố:
Heo: 320-350 tấn/ngày
Trâu bò: 10-15 tấn/ngày
Gà, vịt: 100-120 tấn/ngày
Chiếm 88% tổng nhu cầu của thành
phố
- Nguồn cung cấp thịt từ các
cơ sở giết mổ gia súc gia cầm của các tỉnh:
Heo: 30-35 tấn/ngày
Trâu bò: 25-30 tấn/ngày
Gà, vịt: 10-20 tấn/ngày
Chiếm 10% trên tổng nhu cầu của
thành phố
- Nguồn cung cấp thịt
các loại được nhập khẩu tiêu thụ mỗi ngày:
Bò : 0,5 - 1 tấn/ngày
Một số loại thịt khác : 0,5 – 1
tấn/ngày
Chiếm khoảng 2% tổng nhu cầu của
thành phố.
Xuất phát từ dự kiến nhu cầu nêu
trên và thực trạng hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm hiện nay, đến năm 2010
thành phố cần xây dựng các hệ thống giết mổ gia súc có tổng công suất 750 - 800
tấn thịt/ngày, tăng khoảng gần 45% so với năm 2003, 2004, hệ thống giết mổ gia
cầm có tổng công suất 250-300 tấn/ngày (chiếm 87% tổng nhu cầu tiêu thụ của
thành phố), còn lại khoảng 100- 150 tấn/ngày do các Tỉnh mang đến tiêu thụ tại
thành phố (chiếm 13% tổng nhu cầu tiêu thụ của thành phố).
2. Quy
hoạch cụ thể các điểm giết mổ gia súc – gia cầm
Việc quy hoạch hệ thống cơ sở
giết mổ mới phải đảm bảo đáp ứng được các mục tiêu và yêu cầu đề ra:
- Địa điểm xây dựng các
cơ sở giết mổ mới phải được quy hoạch ở khu vực biệt lập, có vành đai bảo vệ
môi trường và đủ diện tích tối thiểu để bố trí các khu vực phù hợp với công
suất giết mổ. Các cơ sở giết mổ phải có biện pháp xử lý nước thải, chất thải
đạt tiêu chuẩn theo quy định trước khi đưa ra môi trường bên ngoài.
Các cơ sở giết mổ phải được bố
trí theo tuyến đường Xuyên Á gồm Quốc lộ 1A (Xa lộ Đại Hàn) và Quốc lộ 22 để
thuận tiện cho việc lưu thông hàng hóa, giữ vai trò quyết định trong việc cung
cấp thịt cho yêu cầu xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng của toàn thành phố thông
qua các chợ đầu mối nông sản và hệ thống siêu thị, cửa hàng chuyên doanh thịt,
đồng thời không ảnh hưởng đến các vùng chăn nuôi trọng điểm.
Các cơ sở giết mổ với quy mô
lớn, theo phương thức giết mổ công nghiệp tiên tiến, phải trang bị kho trữ lạnh
có công suất lớn phục vụ chiến lược an ninh thực phẩm và tham gia ổn định giá
thị trường trong các tình huống cần thiết. Tùy quy trình công nghệ được chọn
đầu tư, chủ đầu tư xác định diện tích tối thiểu cần thiết để trình các cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
- Quy trình giết mổ phải
ngày càng hoàn thiện, giảm thiểu tình trạng vấy nhiễm trên sản phẩm động vật.
Đối với các cơ sở giết mổ mới xây dựng hoặc nâng cấp sửa chữa, phải áp dụng
phương thức giết mổ treo, bán công nghiệp. Riêng các cơ sở giết mổ có công suất
lớn bắt buộc thiết kế theo quy trình giết mổ công nghiệp.
- Cơ sở giết mổ chủ
yếu tập trung xây dựng 3 nhà máy giết mổ công nghiệp phục vụ cho thị trường
thành phố, chế biến và xuất khẩu. Khi xây dựng xong đưa vào hoạt động các nhà
máy này thì các lò giết mổ thủ công phải chấm dứt hoạt động, chỉ còn lại một số
lò thủ công ở vùng sâu, vùng xa nhưng được kiểm sóat chặt chẽ. Một số hướng xử
lý, giải quyết các lò giết mổ thủ công này như sau :
- Tại các quận nội thành : Di
dời toàn bộ các cơ sở giết mổ đang tồn tại trong khu vực dân cư ra ngoại thành
theo thông báo của Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành, chấm dứt hoạt động
vào năm 2005- 2006. Việc tổ chức sắp xếp lại các cơ sở giết mổ nêu trên sẽ thực
hiện theo kế hoạch trong qui hoạch này.
- Tại các quận ven thành phố
gồm quận 2, 9, 12, Thủ Đức : là những quận có tốc độ đô thị hóa nhanh và có
các dự án trọng điểm của thành phố nên hạn chế chỉ còn tồn tại một số điểm giết
mổ xa dân cư, có công suất nhỏ được nâng cấp đảm bảo các điều kiện qui trình
giết mổ để phục vụ thị trường tại chỗ đến năm 2005 – 2007 chấm dứt hoàn toàn.
- Tại các huyện ngoại thành:
cải tạo một số cơ sở giết mổ hiện có với công suất nhỏ (5 – 10 con) ở một số xã
vùng sâu vùng xa, nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ tại chỗ. Để phục vụ cho chương
trình xây dựng vùng an toàn dịch bệnh động vật, các cơ sở giết mổ trong vùng
chăn nuôi trọng điểm như Củ Chi chỉ giết mổ gia súc chăn nuôi tại địa phương,
không được tiếp nhận nguồn gia súc từ các tỉnh và không tập trung giết mổ với
qui mô lớn.
2.1. Hệ thống giết mổ gia súc
công nghiệp :
Tập trung 03 đầu mối giết mổ
công nghiệp như sau:
o Nhà máy giết mổ Tân Tạo
(Bình Chánh):
Đây là nhà máy giết mổ tập trung
chủ lực với công nghệ hiện đại, công suất từ 200 - 250 tấn thịt/ngày (4.000 con
– 5.000 con), đến năm 2010 tùy theo nhu cầu của thị trường, công suất giết mổ
gia súc tại nhà máy có thể tăng lên công suất từ 250 - 300 tấn thịt/ngày (5.000
con – 6.000 con) và đến 2020, công suất dự kiến có thể tăng lên từ 300 - 400
tấn thịt/ngày (6.000 con – 8.000 con); dự kiến nhà máy sẽ đón nguồn hàng từ các
tỉnh miền Tây và các tỉnh khác trong cả nước. Chủ đầu tư là Công ty Vissan xây
dựng với diện tích là 5ha. Vissan sẽ cung cấp thịt cho thị trường thành phố
đồng thời phục vụ chế biến xuất khẩu. Các lò giết mổ thủ công của Vissan sẽ
chấm dứt khi nhà máy này hoạt động kể từ tháng 01 năm 2007.
o Nhà máy giết mổ tại xã Tân
Hiệp (Huyện Hốc Môn)
Chủ đầu tư do Liên Minh hợp tác
xã thành phố với sự tập hợp của 4 HTX có lò giết mổ thủ công đang hoạt động sẽ xây
dựng tại xã Tân Hiệp, huyện Hốc Môn, diện tích 7 ha, có công suất dự kiến 150 -
200 tấn thịt/ngày (3.000 – 4.000 con), tùy theo nhu cầu của thị trường, đến năm
2010 công suất giết mổ gia súc tại nhà máy có thể tăng lên công suất từ 200 - 300
tấn thịt/ngày (4.000 con – 6.000) và đến 2020, công suất dự kiến có thể tăng
lên từ 300 - 400 tấn thịt/ngày (6.000 con – 8.000); với dây chuyền giết mổ công
nghiệp hiện đại sẽ đón nguồn hàng từ các tỉnh miền Đông, miền Trung, Campuchia...
Thịt cung cấp cho thị trường thành phố, cho hệ thống HTX, siêu thị và chế biến
xuất khẩu. Dự kiến nhà máy này hoạt động từ tháng 01/2007.
o Nhà máy giết mổ tại xã Bình
An, Dĩ An, Bình Dương (giáp ranh Quận Thủ Đức ).
Do Tổng công ty Nông nghiệp Sài
Gòn làm chủ đầu tư xây dựng, diện tích 4ha với công suất dự kiến 50 - 100 tấn
thịt/ngày (1.000 con – 2.000 con), do tình hình nhu cầu tiêu thụ của thị
trường, nhà máy có thể tăng công suất từ 100 - 200 tấn thịt/ngày (2.000 con –
4.000 con) vào năm 2010 và có khả năng tăng công suất cho đến 2020, theo công
suất dự kiến từ 200 - 300 tấn thịt/ngày (4.000 con – 6.000 con), sẽ đón nguồn
hàng từ các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, miền Bắc, miền Trung. Thị trường tiêu
thụ tại thành phố, cung cấp thịt cho chế biến, xuất khẩu. Dự kiến nhà máy đi
vào hoạt động từ tháng 01/2007 và lò giết mổ thủ công Nam Phong chấm dứt hoạt
động.
Nhìn chung : Vào năm
2007, với tổng công suất giết mổ gia súc 400 – 550 tấn thịt/ngày (8.000 con –
11.000 con) của 3 cơ sở giết mổ theo phương thức công nghiệp hiện đại, đủ đáp ứng
được yêu cầu giết mổ của thành phố. Dự kiến cho đến năm 2010 tổng công suất 3
nhà máy giết mổ có khả năng mổ tăng lên đến 550 – 800 tấn (11.000 con – 16.000
con) thịt/ngày và đến 2020 dự kiến công suất giết mổ lên đến 800 – 1.100 tấn thịt/ngày
(16.000 con – 22.000 con).
(Đính kèm phụ lục 02 :
Công suất hệ thống giết mổ gia súc đến 2020)
2.2. Hệ thống giết mổ
gia súc thủ công :
- Dự kiến những cơ sở gây ô
nhiễm nghiêm trọng, xen lẫn trong khu dân cư, nằm trong khu vực nội thành như :
213 Bến Bình Đông, Tabico (HTX Tân Bình), Gò Vấp, Trạm 4, sẽ phải di dời ngay
trong năm 2005 và Vissan, Nam phong sẽ phải di dời trong năm 2006.
- Trong thời gian chuyển đổi từ
nay đến cuối năm 2006, thành phố sẽ cho phép 25 cơ sở giết mổ gia súc được tồn
tại hoạt động tạm thời. Trong đó có khoảng 7 cơ sở được xây mới tại các khu vực
ngoại thành xa khu dân cư để thay thế tạm thời những cơ sở đã bị xoá bỏ trong
giai đoạn 2004-2005 trong khi chờ đợi các lò mổ công nghiệp hiện đại công suất
lớn đi vào hoạt động.
- Các cơ sở này phải từng bước
khắc phục về vệ sinh, môi trường như : về quy trình giết mổ (phải giết mổ
treo), đảm bảo nguồn nước cung cấp sạch cho giết mổ, xây dựng hệ thống xử lý
nước thải, lọc lắng.....được Sở Tài nguyên Môi trường và Chi cục thú y Thành
phố chấp nhận, trong một thời hạn tồn tại hoạt động nhất định.
- Riêng đối với các cơ sở làm
heo quay và gà vịt quay, phải đưa về lò giết mổ theo qui định, không được giết
mổ và quay tại chỗ nhằm đảm bảo về vệ sinh môi trường và an tòan thực phẩm.
Quy hoạch chi tiết các Cơ sở giết mổ gia súc tạm
thời đến Năm 2010
* Đối với các quận nội
thành:
Đến cuối năm 2005, có 04 cơ sở
giết mổ trong khu vực nội thành, phải chấm dứt hoạt động, do hoàn toàn không có
hệ thống xử lý nước thải và nằm sâu trong khu dân cư. Các cơ sở giết mổ này sau
khi đóng cửa, sẽ di chuyển việc giết mổ gia súc về các cơ sở giết mổ khác như :
Công ty Vissan, Trung tâm Bình Chánh, Ấp 6 Hưng Long – huyện Bình Chánh, Thị
trấn Hốc Môn, Thị trấn Quận 12, An Hạ - Củ Chi.
1- Cơ sở giết mổ gia súc 213 Bến
Bình Đông (Quận 8)
2- Cơ sở giết mổ gia súc Trạm 4 của
Vissan (Quận 8)
3- Cơ sở giết mổ gia súc Tabico
(Q.Tân Bình)
4- Cơ sở giết mổ gia súc Gò Vấp
(Q.Gò Vấp)
Việc phải tiếp tục duy trì hoạt
động đến cuối năm 2006 của 02 cơ sở giết mổ trong nội thành :
1- Công ty Vissan (Q. Bình Thạnh)
2- Công ty Nam Phong
(Q.BìnhThạnh)
Là do 02 nhà máy giết mổ công
nghiệp hiện đại của Công ty Vissan và của Tổng Công ty nông nghiệp đến đầu năm
2007 mới xây dựng xong đi vào hoạt động và để đảm bảo duy trì số công nhân lao
động liên tục. Đồng thời do Công ty Vissan vừa đầu tư xây dựng hòan tất hệ
thống xử lý nước thải khoảng 15 tỷ đồng, trang thiết bị giết mổ của Công ty
được đảm bảo vệ sinh an tòan thực phẩm và có một dây chuyền giết mổ treo trâu
bò.
Riêng Công ty Nam Phong để duy
trì họat động đến cuối năm 2006, phải giảm số lượng công suất giết mổ từ 1000
con heo, xuống còn 500 con heo, để đảm bảo cho việc xử lý nước thải không bị
quá công suất dẫn đến gây ô nhiễm môi trường xung quanh.
* Đối với Các Quận,
Huyện ngọai thành :
- Sau khi công bố quy họach giết
mổ gia súc từ nay đến 2010, thì các cơ sở giết mổ phải tự sửa chữa, nâng cấp,
đảm bảo nguồn nước cung cấp sạch, khắc phục lại hệ thống xử lý chất thải, được
Chi cục thú y thành phố và Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận, để tồn tại
thêm một thời gian họat động (trong giai đoạn quá độ khi các cơ sở giết mổ công
nghiệp hiện đại chưa hình thành). Lịch trình được tổ chức sắp xếp lại như sau:
a) Quận 2:
- Sửa chữa, nâng cấp cơ sở
giết mổ Bình Trưng Đông đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y và môi trường theo quy
định. Đến cuối năm 2006 ngưng hoạt động cơ sở giết mổ Bình Trưng Đông do phát
triển khu dân cư. Từ năm 2007 trên địa bàn Quận 2 không còn cơ sở giết mổ, việc
cung cấp thịt cho nhu cầu người dân sẽ do chợ đầu mối Tam Bình – Thủ Đức và hệ
thống chợ, Siêu thị đảm nhận.
- Đến năm 2010
trên địa bàn Quận 2 sẽ không còn cơ sở giết mổ gia súc.
b) Quận 9 :
- Trong năm 2004, sẽ ngưng họat
động cơ sở giết mổ Long Thạnh Mỹ và đến cuối năm 2006, Quận 9 sẽ ngưng hoạt
động cơ sở giết mổ Phước Long do nằm trong khu tập trung đông dân cư. Theo quy
họach của Quận, do hướng phát triển các khu dân cư phía Đông của Thành phố, do
đó việc cung cấp thịt sẽ do các chợ đầu mối và các chợ lân cận phục vụ cho dân
cư.
- Đến năm 2010 trên địa
bàn Quận 9 sẽ không còn cơ sở giết mổ gia súc.
c) Quận Thủ Đức :
- Đến cuối năm 2004, ngưng hoạt
động 02 cơ sở giết mổ tại Thị trấn Thủ Đức, Tam Bình và cuối năm 2005 sẽ ngưng
họat động cơ sở giết mổ tại Hiệp Bình Chánh, do các cơ sở giết mổ này nằm trong
khu vực tập trung đông dân cư và điều kiện vệ sinh không đảm bảo; xây dựng một
điểm cơ sở giết mổ mới tại Phường Bình Chiểu thay thế tại điểm cơ sở giết mổ
Tam Bình, với phương thức giết mổ treo. Như vậy, đến năm 2007 trên địa bàn quận
Thủ Đức sẽ không còn các cơ sở giết mổ thủ công, việc cung cấp thịt sẽ do chợ
đầu mối Tam Bình – Thủ Đức, các chợ bán lẻ, siêu thị cung cấp.
- Đến năm 2010 trên địa bàn
Quận Thủ Đức không còn các cơ sở giết mổ thủ công.
d) Quận 7:
- Tiếp tục duy trì, nâng cấp
điều kiện vệ sinh thú y cơ sở giết mổ Tân Thuận Đông đến năm 2010. Do đây là
điểm giết mổ có nhu cầu phục vụ cho việc giết mổ và cung cấp tại chỗ của địa
phương.
- Đến năm 2010 trên địa bàn
Quận 7 có 01 cơ sở giết mổ tự cung, tự cấp cho địa phương.
e) Quận 12:
- Duy trì, chấn chỉnh điều kiện
vệ sinh thú y, quy trình giết mổ và thiết kế xây dựng lại hệ thống xử lý nước
thải cơ sở giết mổ Trung tâm Quận 12. Cơ sở này sẽ ngưng hoạt động đến cuối năm
2007. Việc cung cấp thịt cho nhu cầu người dân do chợ Tân Xuân –Hóc Môn, chợ
Tam Bình – Thủ Đức và hệ thống các chợ, các cửa hàng thực phẩm lân cận cung cấp.
- Đến năm 2010 trên địa bàn
Quận 12 sẽ không còn cơ sở giết mổ gia súc.
f) Huyện Nhà Bè:
- Theo quy họach của Huyện, đến
cuối năm 2004 sẽ xây dựng cơ sở giết mổ mới tại Thị trấn Nhà Bè hoạt động tạm
thời đến 2007, theo phương thức bán công nghiệp (giết mổ treo), phục vụ cho nhu
cầu của thị trấn Nhà Bè và xã Phú Xuân.
- Nâng cấp, điều chỉnh quy trình
giết mổ của cơ sở Phước Kiểng đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y và vệ sinh môi
trường theo quy định, phục vụ nhu cầu của người dân tại 2 xã Phước Kiển và Hiệp
Phước, đến năm 2007 cơ sở này sẽ ngưng họat động, do phát triển khu dân cư và
việc cung cấp thịt cho thị trường sẽ do chợ đầu mối Bình Điền đảm nhận.
- Theo quy họach của Huyện đến
năm 2007, sẽ xây dựng thêm 01 cơ sở giết mổ mới tại xã Hiệp Phước công suất 500
con heo/đêm thay thế cho cơ sở giết mổ xã Phước kiểng và Thị trấn Nhà bè, với
qui trình giết mổ bán công nghiệp (giết mổ treo) để phục vụ nhu cầu giết mổ và
cung cấp thịt tại chỗ.
- Đến năm 2010 trên địa
bàn huyện Nhà Bè có 01 cơ sở giết mổ tự cung, tự cấp cho địa phương.
g) Huyện Cần Giờ:
- Đây là một Huyện xa Thành phố,
nên việc tiếp tục duy trì, nâng cấp điều kiện vệ sinh thú y cơ sở giết mổ thị
trấn Cần Thạnh đến năm 2010.
- Đến cuối năm 2004 sẽ ngưng
hoạt động toàn bộ 06 điểm giết mổ trong khu dân cư, không đảm bảo điều kiện vệ
sinh thú y tại các xã Bình Khánh và An Thới Đông.
- Theo quy họach của Huyện năm
2005, sẽ chọn địa điểm xây dựng 02 cơ sở giết mổ tập trung tại xã Bình Khánh và
An Thới Đông, theo qui trình giết mổ bán công nghiệp (giết mổ treo) để thay thế
các cở sở giết mổ không đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Đến năm 2010 trên địa bàn
huyện Cần Giờ có 03 cơ sở giết mổ, mỗi cơ sở có công suất từ 20-30 con heo/đêm.
k) Quận Bình Tân:
- Tiếp tục duy trì họat động cơ
sở giết mổ Trung tâm Bình Chánh (thuộc Công ty Vissan) đến cuối năm 2006 sẽ
ngưng họat động, sau khi cơ sở giết mổ công nghiệp hiện đại của Công ty Vissan
tại Khu công nghiệp Tân Tạo. Quận Bình Tân đi vào họat động vào năm 2007.
- Đến năm 2010 trên địa bàn
Quận Bình Tân có 01 cơ sở giết mổ công nghiệp hiện đại.
m) Huyện Bình Chánh:
- Đến cuối năm 2005 sẽ ngưng
hoạt động của cơ sở giết mổ tại ấp 1, xã Phong Phú. Đồng thời, tiếp tục duy trì
cơ sở giết mổ tại Ấp 3, xã Bình Chánh đến cuối năm 2007 sẽ ngưng hoạt động.
- Cơ sở giết mổ tại ấp 6, xã
Hưng Long với công suất 500 -1000 con heo. Đây là lò giết mổ thủ công đang xây
dựng được các ngành thành phố cho phép. Để giải quyết khó khăn cho chủ đầu tư
tạm thời cho hoạt động đến năm 2007. Nếu muốn tiếp tục hoạt động phải tổ chức
lại dây chuyền giết mổ công nghiệp.
- Đến năm 2010 trên địa bàn
Huyện Bình Chánh không còn cơ sở giết mổ thủ công, việc giết mổ phải tập
trung vào cơ sở giết mổ tại Khu công nghiệp Tân tạo và được tiêu thụ tại Chợ
đầu mối Bình điền – Quận 8, để phân phối thịt gia súc trên các chợ địa bàn của
Bình Chánh.
n) Huyện Hóc Môn:
- Đến cuối năm 2005 sẽ ngưng
hoạt động của cơ sở giết mổ Bà Điểm.
- Điều chỉnh toàn bộ quy trình
giết mổ của cơ sở giết mổ trung tâm Hóc Môn đến năm 2007.
- Sửa chữa toàn bộ cơ sở giết mổ
Xuân Thới Sơn đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y, duy trì hoạt động đến cuối năm
2007.
Tạm thời duy trì hoạt động của
cơ sở giết mổ Đông Thạnh thuộc HTX đến năm 2006 khi nhà máy giết mổ công nghiệp
xã Tân Hiệp hoạt động vào năm 2007.
- Đến năm 2010 trên địa bàn
huyện Hốc Môn 01 cơ sở giết mổ công nghiệp hiện đại.
o) Huyện Củ Chi:
- Trong năm 2004 theo quy họach
của huyện sẽ ngưng họat động cơ sở giết mổ tại xã Trung Lập Hạ, Thị trấn Củ Chi.
- Tạm thời cho duy trì các điểm
Cơ sở giết mổ đến 2005 như : cơ sở giết mổ Tân Thạnh Đông, Tân Phú Trung .
- Tiếp tục duy trì cơ sở giết mổ
tại xã Phú Hòa Đông, Phước Thạnh, An Nhơn Tây, An Phú và Hòa Phú đến 2007 với
công suất nhỏ từ 6 – 10 con heo/đêm.
- Thành lập một số cơ sở giết mổ
mới như : cơ sở giết mổ tại xã Tân An Hội, thay thế cơ sở giết mổ thị trấn Củ
Chi, cơ sở giết mổ tại An Hạ thay thế Cơ sở giết mổ tại Tân Phú Trung, An Nhơn
Tây mới thay An Nhơn Tây cũ. Các cơ sở giết mổ Hòa Phú, Phú Hòa Đông, Phước
Thạnh, An Nhơn Tây cũ, An Phú, nằm trong khu dân cư, ô nhiễm phải di dời từ năm
2007. Củ Chi là vùng chăn nuôi an toàn của thành phố, do đó cần phải phân tán
các cơ sở giết mổ với qui mô nhỏ, để tự tiêu thụ tại chỗ cho địa phương.
Đến năm 2010 trên địa bàn
huyện Củ Chi còn 06 cơ sở giết mổ gia súc với công suất giết mổ thấp phục vụ
cho tiêu thụ tại chỗ.
(Đính kèm phụ lục 01 : Các
cơ sở giết mổ gia súc phân kỳ đến 2010 )
2.3. Định hướng quy hoạch
giết mổ gia cầm :
* Đối với các quận nội thành:
Thành phố kiên quyết chấm dứt
các hoạt động giết mổ gia cầm trong khu vực nội thành, các cơ sở giết mổ gia
cầm chỉ được phép giết mổ ở các quận ven nội và ngoại thành, cấm vận chuyển gia
cầm sống vào nội thành, theo tinh thần Quyết định số 1957/QĐ-UB ngày 12/4/2004
của Ủy ban nhân dân thành phố.
* Đối với các quận ven và
ngọai thành:
Từng bước tập trung quản lý và
kiên quyết đưa hoạt động giết mổ gia cầm ra khỏi khu vực dân cư; tổ chức lại
việc giết mổ và kinh doanh gia cầm sống nằm trên các địa bàn: phường 5, 6, 13 -
Quận 8, khu vựa vịt Bình Hưng -Huyện Bình Chánh; các vựa kinh doanh gà sống của
các quận 12, Gò Vấp, Hóc Môn, cho đến nay đã hình thành 57 cơ sở giết mổ gia
cầm hoạt động tạm thời (01 năm), trong thời gian chờ xây dựng các cơ sở giết mổ
gia cầm công nghiệp.
- Khuyến khích đầu tư xây dựng
một số cơ sở giết mổ gia cầm quy mô vừa và lớn có quy trình giết mổ công nghiệp
hoặc bán công nghiệp tại các quận vùng ven (Bình Chánh, Gò Vấp, Tân Phú, Quận
12, Hóc Môn) phục vụ cho thị trường thành phố.
* Qui họach chi tiết giết mổ
gia cầm: tập trung ở 5 điểm đầu mối.
o An Nhơn, phường 13 (quận Gò
Vấp):
Do Tổng Công ty Nông nghiệp Sài
gòn đầu tư xây dựng, diện tích 2 ha tại trại An Nhơn 2, địa chỉ 139/1558 Lê Đức
Thọ, Phường 13, Quận Gò Vấp. Dự án chia làm 2 giai đoạn :
Giai đoạn 1: thực hiện trước
ngày 15 tháng 7 năm 2004 xây dựng các khu chính như sau:
§ Khu giết mổ bán công nghiệp
với công suất ước tính 7.000-10.000 con/ngày do Công ty trực tiếp quản lý sản
xuất, giết mổ.
§ Khu giết mổ cho tư nhân thuê,
dự kiến khoảng 10-15 lò với tổng công suất khoảng 10.000 con/ngày.
§ Khu chợ buôn bán gà lông.
Giai đoạn 2: thực hiện vào đầu
năm 2005.
§ Xây dựng một hệ thống giết mổ
hiện đại với chu trình khép kín, công suất dự kiến 2.000 con/giờ.
§ Dự kiến tổng công suất giết mổ
gia cầm từ 10.000 – 20.000 con gà/ngày.
§ Thời gian ngưng họat động của
cơ sở giết mổ gia cầm vào năm 2010, do nằm trong khu dân cư.
o Phường Thạnh Xuân (Quận 12).
Do Công ty TNHH Phú An Sinh đầu
tư với công suất giết mổ gia cầm dự kiến : 5.000- 8.000 con/ngày với trang
thiết bị dây chuyền công nghiệp, có hệ thống xử lý nước thải, đáp ứng được nhu
cầu giết mổ gia cầm của thành phố. Thời gian bắt đầu đi vào hoạt động tháng
6/2004 và thời gian ngưng họat động vào năm 2007, do nằm trong khu dân cư.
Theo dự kiến tổng công suất giết
mổ gia cầm từ 5.000– 8.000 con gà/ngày.
o Xã Tân Hiệp (Huyện Hốc Môn )
Do Liên Minh hợp tác xã làm chủ
đầu tư với dây chuyền giết mổ gà công nghiệp, công suất dự kiến khoảng 4.000
con/ giờ. Thời gian đi vào họat động tháng 01/2007. Dự kiến tổng công suất giết
mổ gia cầm đến 2010 từ 48.000 – 60.000 con gà/ngày.
o Xã Bình Hưng và xã Phong
phú ( Huyện Bình Chánh )
Theo quy họach của Ủy ban nhân
dân Huyện Bình Chánh sẽ tổ chức 2 cơ sở giết mổ công nghiệp, bán công nghiệp :
- Cơ sở giết mổ tại xã Bình Hưng
từ việc tổ chức lại việc giết mổ thủ công của hàng chục hộ nhỏ lẻ.
- Cơ sở giết mổ tại xã Phong Phú
để đón nhận nguồn gia cầm từ các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long.
Hai cơ sở trên dự kiến có công
suất từ 20.000 – 30.000 con/ngày và đi vào họat động từ năm 2005.
o Phường 6 ( Quận 8)
Theo quy họach của Ủy ban nhân
dân quận 8, việc xây dựng một điểm giết mổ tập trung tạm thời tại phường 6,
quận 8 để đưa các hộ giết mổ gia cầm nhỏ lẻ tập trung vào một đầu mối để dễ
kiểm tra, kiểm soát và đảm bảo vệ sinh môi trường.
Dự kiến công suất giết mổ gia
cầm tại đây từ 30.000 – 40.000 con/ngày. Thời gian đi vào họat động từ tháng
01/2005 đến năm 2007.
Nhìn chung : Các cơ sở
giết mổ gia cầm tại Quận 8, Gò Vấp, huyện Bình Chánh và 3 cơ cở giết mổ gia cầm
tập trung của Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn và Công ty TNHH Phú An Sinh,
Liên minh HTX thành phố, đã đủ cung cấp gia cầm cho thành phố với tổng công
suất giết mổ từ 70.000 – 100.000 con/ngày, đủ đáp ứng nhu cầu của thành phố.
(Đính kèm theo danh sách
57 cơ sở giết mổ gia cầm thủ công tạm thời họat động)
3. Tổ chức
hệ thống giết mổ :
3.1. Hệ thống tổ chức giết mổ
thủ công :
- Đối với các cơ sở giết mổ gia
súc mới xây dựng thay thế các cơ sở cũ, phải xây dựng hệ thống giết mổ treo và
có hệ thống xử lý nước thải và phải cách xa khu vực dân cư, bán kính từ 100m
đến 200m.
- Đối với các cơ sở giết mổ gia
súc cũ còn được tiếp tục duy trì từ năm 2005 – 2010, phải nâng cấp sửa chữa
theo phương thức hệ thống giết mổ treo và phải có hệ thống xử lý nước thải,
thời gian thực hiện trong năm 2005.
- Việc vận chuyển thịt gia súc
phải đúng theo qui đinh của thành phố, được áp dụng từ tháng 6/2005.
(Đính kèm theo các tiêu
chí qui định của thành phố)
3.2. Hệ thống tổ chức giết mổ
công nghiệp :
- Địa điểm cơ sở giết mổ công
nghiệp phải được quy họach của Ủy ban nhân dân các Quận, Huyện nằm cách xa khu
vực dân cư bán kính 100m đến 200m.
- Phải đảm bảo dây chuyền hệ
thống giết mổ gia súc, gia cầm theo phương thức giết mổ công nghiệp hiện đại.
- Sản phẩm thịt sẽ được cung cấp
vào 3 chợ đầu mối bán buôn (chợ Tân Xuân – Hốc Môn, chợ Bình Điền – Quận 8 và
chợ Tam Bình – Thủ Đức), các siêu thị, các cơ sở chế biến thực phẩm và phải có
nguồn dự trữ để bình ổn giá.
- Phải có xe vận chuyển thịt
chuyên dùng.
(Đính kèm theo các tiêu
chí qui định của thành phố)
4. Tổ chức
hệ thống kinh doanh:
4.1 Đối với các Chợ đầu mối
bán buôn thịt gia súc gia cầm :
- Nơi kinh doanh phải là kho
mát, kho trữ lạnh, phải có hệ thống dàn treo thịt (không để thịt nằm) nơi kinh
doanh.
- Phải có phòng kiểm dịch và khu
xử lý thịt gia súc gia cầm khi cần tiêu hủy.
- Phải có xe vận chuyển thịt
chuyên dùng.
- Dự kiến tháng 6/2005 thực hiện
xong việc di dời chợ thịt đầu mối như chợ thịt Phạm Văn Hai, chợ thịt An Lạc…
ra 3 chợ đầu mối mới theo kế hoạch di dời của thành phố.
4.2. Đối với Chợ bán lẻ :
- Tất cả các điểm bán thịt gia
súc, gia cầm, cũng như việc kinh doanh ở các chợ bán lẻ trong thành phố phải
được chấn chỉnh, cải tạo, nâng cấp theo tiêu chí đã qui định như : phải có bàn
Inox, thịt gia súc phải được treo khi kinh doanh và người kinh doanh phải mặt
tạp dề. Riêng các cửa hàng chuyên doanh thịt gia súc, gia cầm phải có tủ mát để
chứa thịt, phải đảm bảo an tòan vệ sinh thực phẩm (sẽ được áp dụng thực hiện
vào tháng 6/2005).
(Đính kèm theo các tiêu
chí qui định của thành phố)
5. Tổ chức
hệ thống lưu thông vận chuyển
- Cấm vận chuyển gia súc, gia
cầm sống vào nội thành.
- Thịt gia súc, gia cầm và
sản phẩm gia súc gia cầm nếu vận chuyển với số lượng lớn phải có phương tiện
chuyên dùng, đảm bảo yêu cầu vệ sinh, tiêu độc, khử trùng…, nếu vận chuyển bằng
phương tiện thô sơ tiêu thụ tại các chợ phải có thùng Inox chứa, đựng kín, đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (sẽ được áp dụng thực hiện vào tháng 6/2005).
- Tăng cường công tác kiểm tra,
kiểm soát tại tất cả các trạm kiểm dịch đầu mối.
(Đính kèm theo các tiêu
chí qui định của thành phố)
V. GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN:
1. Tăng cường công tác
tuyên truyền giáo dục bằng nhiều hình thức, vận động nâng cao ý thức của người
quản lý, người kinh doanh, người tiêu dùng về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với
thịt gia súc gia cầm; phổ biến cho người dân biết rõ các qui định của Nhà nước
về hoạt động lưu thông, vận chuyển và kinh doanh thịt gia súc gia cầm. Giới
thiệu các cơ sở giết mổ, kinh doanh thịt gia súc gia cầm bảo đảm vệ sinh sạch
sẽ, phê phán và tẩy chay những cơ sở không đảm bảo vệ sinh. Nâng cao ý thức
trách nhiệm, cần có sự biểu dương và phê phán, kỷ luật kịp thời đối với các cơ
quan quản lý nhà nước trong công tác quản lý về hoạt động giết mổ, kinh doanh
gia súc gia cầm.
2. Các ngành và Quận,
Huyện có liên quan cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ tích cực cho các chủ đầu tư
sớm thực hiện xây dựng 3 cơ sở đầu mối giết mổ công nghiệp để có thể đưa vào sử
dụng vào đầu năm 2007 và phải được quy họach nằm cách xa khu vực dân cư theo
bán kính từ 100 đến 200m.
3. Tăng cường kiểm soát
chặt chẽ, thường xuyên đối với các cơ sở giết mổ thủ công tạm thời còn cho phép
tồn tại về các mặt như: vệ sinh thực phẩm, môi trường, công suất giết mổ… qui
định thời gian cụ thể cho các cơ sở khắc phục những khiếm khuyết tồn tại, đồng
thời thực hiện đình chỉ họat động các cơ sở đã tới hạn đóng cửa theo danh sách
lịch trình đã được xác định qui định trong qui họach.
4. Giao Chủ tịch Ủy ban
nhân dân quận huyện chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ chức phối hợp các ngành của
quận huyện và thành phố trong việc kiểm sóat, xử lý triệt để hoạt động giết mổ
lậu, đồng thời sắp xếp chỉnh trang cải tạo lại khu vực kinh doanh thực phẩm
tươi sống ở các chợ trên địa bàn của quận huyện. Các công việc trên phải cơ bản
hoàn thành vào năm 2005.
5. Sở Thương mại chủ trì
phối hợp với Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi cục Thú Y và Sở Y tế
có kế hoạch chương trình làm việc với các tỉnh lân cận như: Bình Dương, Đồng
Nai, Long An, Mỹ Tho, Tây Ninh… trong việc tiếp nhận nguồn gia súc gia cầm đảm
bảo an toàn vệ sinh cho người dân thành phố.
6. Sở Thương mại, Chi cục
Quản lý Thị trường cùng phối hợp với một số ngành để bổ sung hoàn chỉnh qui
trình kiểm tra xử lý đối với hoạt động giết mổ, vận chuyển và kinh doanh thịt
gia súc gia cầm. Đối với các đối tượng giết mổ lậu mang tính thường xuyên với
qui mô số lượng lớn, các ngành chức năng cần lập hồ sơ truy cứu trách nhiệm
hình sự để làm gương cho các đối tượng vi phạm.
VI. CHÍNH
SÁCH HỖ TRỢ:
- Đưa các cơ sở giết mổ phải di
dời vào danh sách hưởng các chế độ hỗ trợ trong chương trình di dời các cơ sở
hoạt động gây ô nhiễm.
- Có chính sách hỗ trợ kinh phí xây
dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải từ ngân sách Nhà nước đối với một số
Doanh nghiệp Quốc doanh, Hợp tác xã.
- Có chính sách thuế phù hợp, ưu
đãi cho vay trong đầu tư.
VII. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Sau khi được Ủy ban
nhân dân thành phố phê duyệt qui họach, các đơn vị liên quan cần sớm triển khai
thực hiện ngay; đồng thời có sự phân công trách nhiệm cụ thể rõ ràng, nghiêm
túc; có chế độ khen thưởng kỷ luật kịp thời để khuyến khích các đơn vị cá nhân
tích cực tham gia công tác. Bên cạnh đó tổ chức phổ biến rộng rãi trên các
phương tiện thông tin, các phường xã, quận, huyện.
2. Là một vấn đề khó
khăn, phức tạp cần tổ chức thành lập bộ phận thường trực thành phố gồm: Sở
Thương mại làm đầu mối cùng với các ngành như Chi cục Quản lý Thị trường, Chi
cục Thú y, Sở Y tế, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế họach và Đầu tư, Sở Qui
hoạch - Kiến trúc, Sở Tài chính, Công an thành phố để làm tham mưu cho Ủy ban
nhân dân thành phố trong việc tổ chức thực hiện qui hoạch này trong thời gian
hai năm. Nhiệm vụ của bộ phận thường trực là lập chương trình kế hoạch để triển
khai thực hiện một cách cụ thể, đồng thời theo dõi tổng hợp, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện qui hoạch của các quận huyện, các ngành có liên quan báo cáo Ủy
ban nhân dân thành phố xem xét chỉ đạo, giải quyết./.
ỦY
BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
QUY ĐỊNH
VỀ
HOẠT ĐỘNG GIẾT MỔ, VẬN CHUYỂN, KINH DOANH ĐỘNG VẬT, SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ
(Ban hành kèm theo
Quyết định số 31/2005/QĐ-UB ngày 17 tháng 02 năm 2005 UBND thành phố Hồ Chí
Minh)
Nhằm thống nhất quản lý nhà nước về công tác kiểm dịch động vật,
kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y tại các cơ sở giết mổ và việc vận
chuyển, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật. Uỷ ban nhân dân thành phố ban
hành Quy định hướng dẫn thực hiện trên địa bàn thành phố như sau:
A. QUY ĐỊNH HOẠT ĐỘNG CƠ SỞ GIẾT MỔ
ĐỘNG VẬT
I- NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG:
1. Cơ sở giết mổ động vật phải có giấy chứng nhận đăng kinh doanh
do cơ quan có thẩm quyền cấp và đảm bảo điều kiện hoạt động theo quy định.
2. Loại động vật và công suất giết mổ thực tế tại cơ sở phải đúng
theo đăng ký kinh doanh và được cơ quan chức năng cho phép. Khi có nhu cầu sửa
chữa thay đổi nâng cao công suất giết mổ, chủ cơ sở phải đăng ký cơ quan chức
năng, trình dự án sửa chữa và chỉ được thực hiện khi đã được sự chấp thuận.
3. Cơ sở giết mổ không được tiến hành chăn nuôi hay sản xuất dưới
bất cứ hình thức nào khác ngoài giấy phép đăng ký, gây ảnh hưởng đến điều kiện
vệ sinh cơ sở và chất lượng sản phẩm sau khi giết mổ.
4. Hoạt động giết mổ động vật phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, vệ sinh môi trường, an toàn lao động, phòng chống cháy nổ và các quy định
khác của Nhà nước.
II- QUY ĐỊNH TRONG THIẾT KẾ, XÂY DỰNG:
Trong thiết kế, xây dựng phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
1. Vị trí cơ sở giết mổ không nằm trong khu vực nội thành hoặc
các khu dân cư tập trung; cách đường quốc lộ, cách trục đường chính tối thiểu 500
mét tính từ tường rào của cơ sở; cách xa khu dân cư tập trung tối thiểu 50 mét;
phải xa trường học, bệnh viện; các cơ sở sản xuất, các cơ sở chăn nuôi. Không
xây dựng trên những vùng đất bị ô nhiễm nặng hoặc thấp trũng ngập nước.
2. Cơ sở giết mổ phải có tường rào bao quanh cao tối thiểu 2,0
mét. Tại cổng ra vào của cơ sở giết mổ phải bố trí khu vực vệ sinh tiêu độc phương
tiện vận chuyển động vật, sản phẩm động vật.
3. Trong cơ sở có các khu vực sau:
- Khu nhốt động vật sống, chuồng cách ly và nơi giết mổ con vật
bệnh.
- Khu sản xuất (giết mổ, pha lóc, đóng gói, bảo quản). Các cơ sở
giết mổ công nghiệp có qui mô công suất lớn phải có kho lạnh bảo quản sản phẩm
với trữ lượng lớn nhằm phục vụ xuất khẩu hoặc góp phần bảo đảm an ninh thực
phẩm nguồn gốc động vật cho thành phố.
- Nơi xử lý tiêu huỷ động vật, sản phẩm động vật
- Khu vực hành chính có phòng làm việc của công chức thú y. Các
cơ sở giết mổ công nghiệp phải có bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm riêng.
- Kho, bãi đậu xe và các công trình phụ.
Việc thiết kế xây dựng phải đảm bảo nguyên tắc không có sự vấy
nhiễm chéo giữa các khu vực, quy trình hoạt động theo một chiều từ khâu dơ đến khâu
sạch, từ động vật sống qua giết mổ, sản xuất đến thành phẩm.
4. Cơ sở phải chủ động để đảm bảo về nguồn điện và hệ thống cung
cấp ánh sáng, đủ cường độ ánh sáng đến từng khu vực; cụ thể: nơi kiểm tra sản
phẩm có ánh sáng trắng với cường độ là 450 Lux, các nơi khác 200 Lux.
5. Nguồn nước sử dụng: Cơ sở phải chủ động để đủ về số lượng, có
áp lực đủ mạnh và đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn Việt Nam về nước sinh hoạt.
Việc lắp đặt hệ thống ống dẫn nước, vòi nước, bồn rửa.... phải
đáp ứng đến từng khu vực, từng công đoạn sản xuất phục vụ cho việc vệ sinh, rửa
dụng cụ thiết bị sử dụng trong giết mổ, cắt khám, chứa đựng, rửa sản phẩm...
6. Đối với nước thải, chất thải: Cơ sở phải có hệ thống thoát nước
tốt; toàn bộ nước sau khi sử dụng phải qua hệ thống xử lý đã được thiết kế theo
hướng dẫn và kiểm tra của cơ quan chức năng. Phân, lông và các loại chất thải
khác phải được thu gom và xử lý bằng biện pháp thích hợp (ủ kín, xử lý sinh
học, vôi, thuốc sát trùng, xử lý nhiệt...) trước khi ra khỏi cơ sở.
7. Các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc giết mổ, chứa đựng,
vận chuyển sản phẩm phải được làm từ vật liệu đảm bảo chắc chắn, an toàn, không
thấm nước, không rỉ sét, không chứa các chất có thể gây ảnh hưởng đến chất
lượng, màu sắc, mùi của sản phẩm và dễ vệ sinh tiêu độc.
8. Tại khu tồn trữ động vật sống:
- Có nhiều ô chuồng, lồng cao ráo, thoáng mát để tồn trữ theo từng
lô, từng chủ động vật, có diện tích đủ để tồn trữ số lượng động vật gấp 2 lần
số giết mổ/ngày theo công suất thiết kế (trâu bò 2,5m2/con; heo 0,9m2/con, không
kể diện tích hành lang hoặc các diện tích phụ khác như máng uống, vách,
tường....). Đối với gia cầm, tuỳ điều kiện của cơ sở có thể nhốt trong lồng
hoặc trên nền rải trấu nhưng phải đảm bảo sức khoẻ cho gia cầm, thuận tiện cho
việc quan sát, kiểm tra lâm sàng của công chức thú y.
- Mỗi ô nhốt có cửa để nhập động vật và cửa khác để thuận tiện
đưa vào khu vực giết mổ hoặc khu vực kinh doanh động vật phục vụ giết mổ.
- Toàn bộ khu chuồng phải có mái che cao và thoáng, nền chuồng
được lát bằng vật liệu có tính bền vững, không thấm nước, đọng nước, không trơn
trượt, có độ nghiêng thoát nước tốt (độ nghiêng 3% về phía rãnh thoát), dễ vệ sinh
tiêu độc.
- Có ô chuồng riêng biệt cách ly động vật bệnh để theo dõi.
- Tường rào hoặc vách ngăn ô chuồng làm bằng vật liệu chắc chắn,
cao tối thiểu 1,5m nếu nhốt đại gia súc (trâu, bò) và từ 1 đến 1,1m dành cho
nhốt tiểu gia súc (heo, dê, cừu).
- Có chuồng ép để kiểm tra lâm sàng: công suất giết mổ dưới 200
trâu bò phải thiết kế có 01 chuồng ép và dưới 500 heo, 01 chuồng ép. Cơ sở giết
mổ có công suất lớn, số chuồng ép tương ứng 500 trâu bò và 1.000 heo có 01chuồng
ép phù hợp dành cho mỗi loài động vật (công suất giết mổ tính trên cơ sở số
lượng giết mổ 01 ngày đêm).
- Có hành lang đủ rộng để đưa động vật vào các ô chuồng và thuận
tiện cho việc kiểm tra lâm sàng, chăm sóc.
- Có đủ nước đến mỗi ô chuồng cho động vật uống và vệ sinh chuồng
trại.
- Có bệ hoặc giá đỡ thích hợp để đưa động vật từ trên phương tiện
vận chuyển vào khu tồn trữ.
- Đối với các cơ sở giết mổ gia súc có quy mô trung bình và lớn
(trên 300 heo, 200 trâu bò), trong khu tồn trữ phải bố trí nơi mổ và khám thú
bệnh hoặc thú buộc chỉ định hạ khẩn cấp ở nơi riêng biệt bằng phương thức giết
mổ thủ công. Đối với cơ sở giết mổ gia cầm (quy mô trên 1.000 con) có bố trí
bàn bằng Inox hoặc bê tông lát gạch men cố định dùng cho mục đích trên.
- Các cơ sở giết mổ công nghiệp có điều kiện về mặt bằng có thể
hình thành khu vực kinh doanh động vật hoặc đấu xảo phục vụ giết mổ. Khu vực
này được bố trí tách biệt với khu vực giết mổ.
9. Tại khu vực sản xuất:
- Kết cấu xây dựng phải đảm bảo bền vững tương ứng với quy trình
công nghệ trong giết mổ. Khu vực giết mổ động vật phải tách riêng biệt qua vách
năng hoặc mặt bằng có diện tích đủ rộng để không gây vấy nhiễm với khu tồn trữ
và các khu khác.
- Có diện tích đủ rộng hoặc có vách ngăn để tránh vấy nhiễm chéo
giữa các công đoạn và quy trình giết mổ phải được bố trí theo trình tự từ khâu
dơ đến khâu sạch.
- Toàn bộ nền khu vực sản xuất phải được lát bằng vật liệu có tính
bền vững, không thấm nước, đọng nước, không trơn trượt, có độ nghiêng thoát
nước tốt, không bám bẩn, dễ vệ sinh tiêu độc. Phần tường, cột ở mặt trong khu
vực sản xuất phải được lót gạch men cao tối thiểu 2 mét, tính từ chân tường.
Phần chân tường (góc tiếp giáp giữa nền và tường) phải có độ nghiêng
hoặc độ cong để dễ vệ sinh, không bám bẩn, bám rêu mốc.
Các cửa sổ phải có kính chắn bụi và lưới ngăn chim, côn trùng,
chuột.... xâm nhập. Khu sản xuất phải có hệ thống thông gió, trao đổi không khí
tốt.
- Việc chọc tiết động vật phải thực hiện trên dàn khung treo hoặc
bệ nghiêng có độ cao tối thiểu 0,4 mét.
- Gây bất tỉnh động vật bằng dòng điện một chiều và phải tuân
thủ các quy định về an toàn lao động trong quá trình sử dụng. Nghiêm cấm việc
sử dụng trực tiếp điện nhà để gây bất tỉnh động vật.
- Các cơ sở phải thiết kế dàn khung cố định hoặc dây chuyền công
nghiệp, bán công nghiệp để treo thân thịt ở các công đoạn sau khi cạo lông (lột
da, mổ lấy phủ tạng, chẻ đôi thân thịt, thú y kiểm tra). Đối với cơ sở mổ heo
bằng phương pháp thủ công, dàn treo cao từ 2-2,2 mét, khoảng cách giữa hai dàn
treo tối thiểu 1,4 mét, cách vách tường 1 mét.
- Khu vực làm lòng phải bố trí riêng biệt, tránh vấy nhiễm cho
thân thịt; có bàn bằng Inox hoặc bệ cao 0,8 mét với diện tích phù hợp với công suất
giết mổ.
10. Khu vực công chức thú y kiểm tra sản phẩm:
- Khu vực riêng biệt với các khu vực khác để hạn chế sự vấy nhiễm
cho sản phẩm.
- Có đủ ánh sáng trắng. Đèn phải được bố trí để có ánh sáng đồng
đều ở toàn bộ khu vực khám.
- Đối với cơ sở giết mổ động vật bằng phương pháp thủ công hoặc
bán công nghiệp, thân thịt khi trình khám phải được treo trên khung cố định (đã
nêu trong điểm 9 Khoản II mục A), phải có khung và móc dành để treo lòng đỏ,
khay đựng lòng trắng, đầu để trên bàn hoặc móc treo.
III. QUY ĐỊNH TRONG VẬN CHUYỂN ĐỘNG VẬT:
1. Đối với phương tiện vận chuyển động vật:
- Phải có dụng cụ che chắn chắc chắn, không có vết nứt, vật nhọn...
Làm gây thương tích cho động vật.
- Sàn xe phải kín, không để rơi vãi các chất thải trên đường vận
chuyển.
- Phải được vệ sinh tiêu độc trước và sau khi vận chuyển, được
cấp giấy chứng nhận vệ sinh thú y khi xuất tỉnh hoặc từ các cơ sở chăn nuôi tập
trung ở thành phố.
2. Đối với động vật:
- Động vật phải xuất phát từ vùng an toàn dịch. Nghiêm cấm vận
chuyển động vật bị dịch bệnh từ địa phương này sang địa phương khác.
- Động vật từ các tỉnh nhập vào thành phố phải có giấy chứng nhận
kiểm dịch động vật vận chuyển trong nước (mẫu 1B) hợp lệ do Chi cục thú y tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương cấp, đã được tiêm phòng các loại vaccin do Cục
Thú y quy định và phải trình phúc kiểm tại các Trạm kiểm dịch động vật đầu mối
giao thông trên tuyến đường vận chuyển.
- Động vật có nguồn gốc trong thành phố nhập vào cơ sở giết mổ
phải có giấy chứng nhận kiểm dịch động vật nội tỉnh do Trạm thú y quận, huyện cấp
hoặc có giấy chứng nhận tiêm phòng còn thời gian miễn dịch.
- Trong quá trình vận chuyển, chủ động vật hoặc người có trách
nhiệm vận chuyển phải đảm bảo chăm sóc, theo dõi tình trạng sức khoẻ cho động vật;
Khi thấy có biểu hiện bệnh, chết, phải báo ngay cơ quan thú y gần nhất để được
hướng dẫn và xử lý.
- Nghiêm cấm việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật trên phương
tiện chở khách và việc vận chuyển sản phẩm động vật chung với động vật hoặc các
loại hàng hoá khác.
IV. QUY ĐỊNH VỀ QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRONG
GIẾT MỔ:
1. Đối với động vật trước khi giết mổ:
- Động vật được chăm sóc đúng kỹ thuật (về chế độ dinh dưỡng nếu
tồn trữ lâu, mật độ, nhiệt độ, ẩm độ thích hợp, khoẻ mạnh, được nghỉ ngơi ít
nhất 6 giờ, nhịn ăn (trâu, bò, dê, cừu: 20 giờ; heo: 24 giờ) và nhịn uống 2-3
giờ trước khi giết mổ để đảm bảo vệ sinh khi giết mổ và chất lượng sản phẩm sau
giết mổ.
- Nghiêm cấm việc đưa vào cơ thể động vật dưới mọi hình thức (ăn,
uống, dẫn truyền, tiêm chích... ) các loại thuốc, hoá chất, các kích thích tố
tăng trưởng... hoặc bất cứ chất nào khác trong thời gian nuôi nhốt động vật chờ
giết mổ làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng, màu, mùi vị của sản phẩm động vật sau
khi giết mổ. Các trường hợp bị phát hiện phải xử lý giết huỷ con vật bị nhiễm,
không được sử dụng dưới mọi hình thức.
- Gia súc phải được tắm rửa bằng nước sạch và được đại
diện cơ quan thú y kiểm tra lâm sàng, xác nhận tình trạng sức khoẻ khi cho giết
mổ.
2. Trong khi giết mổ:
- Khu vực giết mổ, thiết bị dụng cụ dùng trong giết mổ, chứa đựng
sản phẩm phải được vệ sinh sạch sẽ trước, trong và sau khi sản xuất.
- Phải làm bất tỉnh động vật trước khi giết mổ để đảm bảo chất
lượng sản phẩm và tính nhân đạo đối với con thú. Tuỳ từng loại động vật và điều
kiện của cơ sở để gây bất tỉnh bằng phương pháp thích hợp theo sự hướng dẫn của
cơ quan Thú y.
- Đối với việc chọc tiết: Tuỳ quy trình giết mổ (công nghiệp, bán
công nghiệp hay thủ công) để có địa điểm chọc tiết thích hợp; Tuy nhiên, nghiêm
cấm việc chọc tiết trên nền hoặc trong chuồng tồn trữ động vật.
- Động vật phải để chết hoàn toàn trước khi đưa vào bồn trụng lông
để đảm bảo không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm sau khi giết mổ. Nước trụng
lông phải được thay từng phần liên tục trong quá trình giết mổ.
- Đối với các công đoạn làm sạch lông, lột da, mổ lấy phủ tạng,
chẻ đôi thân thịt: Các cơ sở phải thực hiện khi đã treo thân thịt trên dàn
khung cố định hoặc dây chuyền công nghiệp, bán công nghiệp như đã nêu ở phần
trên. Dụng cụ dùng trong quá trình mổ, chẻ phải được rửa, vệ sinh sạch sẽ; Các
thao tác thực hiện phải tuyệt đối tránh vấy nhiễm giữa các công đoạn, giữa các
sản phẩm hoặc từ thân thịt này sang thân thịt khác.
- Công đoạn làm lòng phải bố trí riêng và thực hiện trên bàn Inox
hoặc bệ lát gạch men, nghiêm cấm việc làm dưới nền, sàn.
3. Quy định kiểm tra sản phẩm động vật sau giết mổ:
- Sản phẩm động vật sau khi giết mổ phải được rửa sạch trước
khi đưa vào khu vực kiểm tra.
- Đảm bảo còn đầy đủ các phần trên thân thịt, các cơ quan phủ tạng
cần thiết cho quá trình kiểm tra của công chức thú y. Các phần phủ tạng và đầu
phải bố trí theo thứ tự thân thịt của mỗi con vật khi trình khám.
- Phải có dụng cụ chứa đựng riêng cho những sản phẩm động vật bị
xử lý do không đủ tiêu chuẩn vệ sinh thú y.
- Những người không có trách nhiệm và những người ở khu vực khác
hạn chế vào khu vực kiểm tra để tránh vấy nhiễm cho sản phẩm.
V- TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN
QUẢN LÝ CƠ SỞ GIẾT MỔ:
1. Thực hiện các thủ tục đăng ký theo quy định để đảm bảo về hoạt
động hợp pháp trong kinh doanh, giết mổ của cơ sở. Chịu trách nhiệm trước pháp
luật về các hoạt động của cơ sở.
Chịu sự kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng về các lĩnh
vực liên quan đến hoạt động của cơ sở (Thú y, Y tế, Môi trường, Thương mại...)
2. Thực hiện đúng các nội dung được nêu trong quy định này, tuân
thủ theo sự hướng dẫn của công chức thú y kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh
thú y trong quá trình giết mổ động vật.
3. Để đảm bảo cho cơ sở hoạt động liên tục và ổn định, tổ chức,
cá nhân quản lý phải trực tiếp hoặc bố trí nhân sự đại diện có đủ thẩm quyền
khi cơ sở hoạt động để cùng công chức thú y giải quyết các vấn đề phát sinh.
Các hoạt động của cơ sở giết mổ (giờ giấc, bố trí người đại diện,
những người tham gia gia công giết mổ, số lượng động vật nhập, xuất, giết mổ,
xử lý mỗi ngày, những vấn đề phát sinh...), tổ chức và cá nhân quản lý cơ sở
giết mổ có trách nhiệm ghi vào sổ nhất ký lò mổ (theo mẫu hướng dẫn của cơ quan
thú y).
Khi cơ sở tạm ngừng hoạt động phải báo cáo trước 01 ngày. Khi hoạt
động trở lại phải báo cáo trước ít nhất 3 ngày. Hình thức báo cáo bằng văn bản
và gởi cho cơ quan thú y có thẩm quyền.
4. Chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước
và đóng phí, lệ phí thú y theo quy định của Bộ Tài chính và chịu các khoản chi
phí phát sinh trong quá trình xét nghiệm, xử lý, lưu giữ động vật, sản phẩm động
vật theo quyết định của công chức thú y.
5. Đối với cơ sở giết mổ có tổ chức giết mổ gia công:
Tổ chức, cá nhân quản lý cơ sở giết mổ là đại diện duy nhất có
thẩm quyền và chịu trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của cơ quan chức năng, có trách
nhiệm tổ chức quản lý, điều hành hoạt động giết mổ động vật cho các chủ hàng
hoặc người đại diện giết mổ gia công và yêu cầu mọi người liên quan phải chấp
hành các nội dung trong quy định này.
Những người đăng ký tham gia gia công giết mổ động vật (thuê mặt
bằng của cơ sở giết mổ) phải có giấy phép đăng ký kinh doanh, có trách nhiệm
báo cáo số lượng giết mổ, danh sách số lao động tham gia cho tổ chức hoặc cá
nhân quản lý cơ sở và theo yêu cầu của công chức thú y kiểm tra tại cơ sở.
6. Tổ chức thực hiện và quản lý đối với người lao động trong các
cơ sở giết mổ theo các quy định sau:
- Những người không có trách nhiệm không được vào cơ sở giết mổ,
đặc biệt là khu vực giết mổ, kiểm tra sản phẩm. Hạn chế sự đi lại của người lao
động giữa các khu vực, giữa các công đoạn trong quy trình giết mổ.
- Chỉ những người đủ tiêu chuẩn sức khoẻ theo quy định của Bộ Y
tế mới được làm việc tại các cơ sở giết mổ.
- Công nhân làm việc tại cơ sở giết mổ phải được kiểm tra sức khoẻ
định kỳ 6 tháng/lần theo quy định. Người đang bị các bệnh truyền nhiễm, bệnh
đường hô hấp, tiêu hoá, các bệnh ngoài da, bệnh ký sinh trùng đều phải được
nghỉ và điều trị cho đến khi hết bệnh mới tiếp tục làm việc.
- Phải vệ sinh cá nhân, mặc quần áo bảo hộ lao động trước khi vào
sản xuất. Không đeo đồng hỗ, nữ trang, đầu tóc phải gọn gàng trong quá trình
làm việc. Không hút thuốc, khạc nhổ, ăn uống trong khu vực sản xuất.
- Tuân thủ các quy định về an toàn lao động, vệ sinh trong quá
trình giết mổ và hướng dẫn của công chức thú y công tác tại cơ sở giết mổ.
B. QUY ĐỊNH VỀ KINH DOANH, VẬN CHUYỂN
SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT TƯƠI SỐNG
I. ĐIỀU KIỆN KINH DOANH, VẬN CHUYỂN SẢN
PHẨM ĐỘNG VẬT TƯƠI SỐNG:
Tổ chức, cá nhân mua bán, vận chuyển thực phẩm tươi sống và chế
biến phải có đủ 04 điều kiện sau:
1. Điều kiện về chủ thể kinh doanh:
- Có Giấy chứng nhận kinh doanh (trong đó có đăng ký kinh doanh
mua bán hoặc dịch vụ vận chuyển thực phẩm tươi sống)
- Có Giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Đã được tập huấn kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm và được
cấp giấy xác nhận của cơ quan y tế.
2. Điều kiện về địa điểm và cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết
bị:
2.1. Về địa điểm kinh doanh:
- Có địa điểm kinh doanh ổn định và được sự chấp thuận của cơ quan
có thẩm quyền, phù hợp với sự sắp xếp mạng lưới kinh doanh chung của chợ, của
địa phương.
- Điểm kinh doanh phải đảm bảo hợp vệ sinh, không bị ảnh hưởng
bởi các cơ sở sản xuất có nhiều bụi, khói, chất độc hại. Xa bãi chứa rác thải, nhà
vệ sinh và bệnh viện ít nhất 50 mét.
2.2. Yêu cầu về vật chất và trang thiết bị:
2.2.1. Tại các chợ đầu mối tập trung kinh doanh sản phẩm động vật
tươi sống hoặc các cửa hàng chuyên doanh:
- Được thiết kế xây dựng trong quy hoạch chung của thành phố, có
diện tích tương ứng số lượng sản phẩm kinh doanh, đảm bảo điều kiện vệ sinh về
mặt bằng, tường, nền, trang bị hệ thống làm mát toàn bộ nhà lồng hoặc phần diện
tích kinh doanh.
- Có đủ dàn móc treo thân thịt và được bố trí hợp lý phục vụ cho
việc pha lóc, bày bán.
- Đủ điều kiện về hệ thống điện, ánh sáng; Hệ thống cung cấp nước
sạch, thoát và xử lý nước thải.
- Các quầy kinh doanh, bàn pha lóc, tất cả các thiết bị dụng cụ
tiếp xúc sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh theo quy định.
- Trang bị kho lạnh, tủ lạnh bảo quản sản phẩm.
2.2.2. Đối với các quầy sạp tại các chợ lẻ, thương nhân kinh doanh
phải có đủ các dụng cụ cần thiết như: Cân đã qua kiểm định; thùng, khay chứa
đựng; bàn (quầy, sạp); lồng kính che chắn phù hợp, dao, thớt, vận dụng bao gói,
có nước rửa hợp vệ sinh...
2.2.3. Thương nhân làm dịch vụ vận chuyển phải có những phương
tiện vận chuyển chuyên dùng hoặc phải có dụng cụ, bao bì chứa đựng sản phẩm bảo
đảm chất lượng cho sản phẩm sau khi vận chuyển.
3. Điều kiện về môi trường:
3.1. Có hệ thống cung cấp nước và thoát nước phải hợp vệ sinh.
3.2. Có thùng, sọt có nắp đậy kín để đựng rác, chất thải.
4. Điều kiện về sức khoẻ:
Người bán hàng phải có sức khoẻ phù hợp với ngành nghề kinh doanh
theo quy định của Bộ Y tế, không được mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh ngoài da
và định kỳ khám sức khoẻ theo quy định.
II. QUY ĐịNH KHI VậN CHUYểN, KINH DOANH SảN
PHẩM ĐộNG VậT TƯƠI SốNG:
1. Quy định trong vận chuyển:
1.1. Sản phẩm động vật tươi sống dùng trong kinh doanh và chế biến
phải có nguồn gốc từ các cơ sở giết mổ đã đăng ký kinh doanh và bảo đảm đủ điều
kiện vệ sinh, do cơ quan thú y kiểm tra, đóng dấu kiểm soát giết mổ, cấp
giấy chứng nhận vệ sinh thú y.
Nghiêm cấm việc kinh doanh, vận chuyển sản phẩm động vật chưa qua
kiểm tra của cơ quan chức năng, sản phẩm từ con vật bị bệnh, chết, sản phẩm đã
bị hư hoại, ôi thiu, đổ nhớt, dơ bẩn... Cấm các hành vi tiêm nước, bôi phẩm màu
công nghiệp và các hoá chất độc hại vào sản phẩm, gây nguy hại đến sức khoẻ người
tiêu dùng.
1.2. Việc vận chuyển sản phẩm động vật từ các tỉnh đưa về kinh
doanh, tiêu thụ trên địa bàn thành phố và từ các cơ sở giết mổ tập trung quy mô
lớn phải bằng phương tiện chuyên dùng: Xe có thiết bị làm lạnh để sản phẩm động
vật được bảo quản ở nhiệt độ 100C trở xuống hoặc có dàn treo thân thịt, có chia
ngăn trong thùng xe... để đảm bảo không làm vấy nhiễm hoặc thay đổi chất lượng sản
phẩm sau khi vận chuyển. Riêng nguồn sản phẩm động vật từ chất lượng sản phẩm
sau khi vận chuyển. Riêng nguồn sản phẩm động vật từ các tỉnh đưa về thành phố
tiêu thụ phải xuất phát từ các cơ sở có quy trình giết mổ đảm bảo vệ sinh và có
đăng ký với cơ quan chức năng thành phố.
1.3. Việc vận chuyển từ các lò mổ có quy mô nhỏ và trên thị trường:
Nếu vận chuyển với số lượng ít và bằng phương tiện thô sơ, sản phẩm phải được
chứa trong thùng bằng kim loại có đáy kín, chắc chắn, không rỉ, không thôi màu,
sản phẩm đã được đóng gói, có bao bì hợp vệ sinh, không làm thay đổi chất lượng
sản phẩm sau khi vận chuyển.
Nghiêm cấm việc vắt ngang sản phẩm động vật trên xe gắn máy, dẫm
đạp hay ngồi trên sản phẩm động vật trong quá trình vận chuyển hoặc sử dụng phương
tiện, dụng cụ đã vận chuyển, tiếp xúc các chất độc hại, chất thải để vận chuyển,
chứa đựng sản phẩm động vật. Không được chất đống sản phẩm trên phương tiện vận
chuyển.
1.4. Phương tiện vận chuyển và dụng cụ chứa đựng sản phẩm khi vận
chuyển phải được rửa sạch, tẩy trùng, để khô ráo, sạch sẽ trước và sau khi vận
chuyển.
2. Quy định trong kinh doanh:
2.1. Kinh doanh thực phẩm là kinh doanh có điều kiện; Tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân kinh doanh sản phẩm động vật tươi sống phải chịu trách nhiệm
về nguồn gốc, chất lượng thực phẩm theo tiêu chuẩn quy định, địa điểm và điều
kiện trong kinh doanh để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.2. Thịt động vật tươi sống phải được bày bán trên mặt bàn (quầy,
sạp) cách mặt đất ít nhất là 0,8 mét. Bàn (quầy, sạp) phải có bề mặt phẳng,
nhẵn, không kẽ nứt và phải làm bằng vật liệu không rỉ, không thấm nước, không
thôi màu hay bắt mùi, không có chất độc hại ảnh hưởng đến chất lượng, mùi vị,
màu của thực phẩm, dễ vệ sinh tiêu độc.
Không bày bán nơi cống rãnh lộ thiên, nơi bùn lầy, nước đọng. Nghiêm
cấp việc bày bán kinh doanh trên lòng, lề đường khi không được sự chấp thuận và
quản lý của cơ quan chức năng.
Cấm bán các loại thực phẩm ở dạng tươi sống và đã chế biến chung
trên một mặt bàn (quầy, sạp).
2.3. Dụng cụ dùng trong kinh doanh phải bằng vật liệu không rỉ,
không bị ăn mòn, không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, luôn được giữ sạch
sẽ. Vật dụng dùng để chứa đựng, bao gói phải hợp vệ sinh, không độc hại, chữ in
trên bao bì không được tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm và không thấm qua bao
bì.
2.4. Người bán hàng phải mặc tạp dề, giữ vệ sinh cá nhân, móng
tay phải cắt ngắn và giữ gìn sạch sẽ.
C. XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động giết mổ, vận chuyển,
lưu thông mua bán động vật, sản phẩm động vật và các Đoàn kiểm tra liên ngành khi
phát hiện vi phạm phải đình chỉ ngay hành vi vi phạm, lập biên bản vi phạm hành
chính và ra quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển hồ sơ để cá nhân, cấp
có thẩm quyền ra quyết định xử phạt theo quy định.
D. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Thương mại chủ trì phối hợp với các Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường và Uỷ ban nhân dân các quận, huyện
liên quan thẩm định điều kiện của các cơ sở giết mổ đang hoạt động, đình chỉ
hoặc gia hạn thời gian đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở không đủ điều kiện
vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến môi trường. Hướng dẫn các cơ sở xin
cấp phép mới hoặc đang hoạt động phù hợp với quy hoạch chung của thành phố trong
việc xây dựng, thiết kế hoặc sửa chữa đáp ứng các yêu cầu của quy định này.
2. Sở Thương mại chủ trì phối hợp với Sở Quy hoạch - Kiến trúc,
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên - Môi trường và Uỷ ban
nhân dân nhân dân các huyện triển khai thực hiện các phương án quy hoạch hệ thống
cơ sở giết mổ động vật và quy hoạch hệ thống chợ, siêu thị trên địa bàn thành
phố theo các Quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Thú y tổ chức
thực hiện công tác kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú
y đối với động vận, sản phẩm động vật, phương tiện vận chuyển tại các lò mổ và
kinh doanh trên thị trường, áp dụng các biện pháp xử phạm vi phạm hành chính đối
với các hành vi vi phạm, xử lý kỹ thuật đối với động vật, sản phẩm động vật không
đạt tiêu chuẩn vệ sinh thú y theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền quy định.
4. Sở Y tế tổ chức tập huấn kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành các quy định về chế độ bảo hộ
lao động, phòng dịch đối với những người hoạt động liên quan đến quá trình giết
mổ, vận chuyển, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật và xây dựng kế hoạch
kiểm tra, xử lý vi phạm.
5. Cơ quan Quản lý thị trường chủ trì phối hợp với Công an, Chi
cục thú y kiểm tra chặt chẽ việc lưu thông, vận chuyển động vật, sản phẩm động
vật, xử lý các vụ vi phạm về kinh doanh, giết mổ gia súc, gia cầm trái phép.
Uỷ ban nhân dân thành phố
Phụ lục 01: các cơ sở giết mổ
hoạt động theo phân kỳ đến năm 2010
Phân kỳ
CSGM
|
Giai đoạn 2003 - 2005
|
Giai đoạn 2006 - 2007
|
Giai đoạn 2008 - 2010
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Các Quận Nội thành
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Vissan
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
Nam Phong
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
Gò Vấp
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
Tabico
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
Trạm 4
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
213 Bến Bình Đông
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
Cộng
|
6
|
6
|
6
|
2
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Quận 2
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bình Trưng Đông
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
Cộng
|
1
|
1
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận 9
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Phước Long
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
Long Thạnh Mỹ
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
Cộng
|
2
|
2
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận Thủ Đức
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thị trấn Thủ Đức
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
Tam Bình
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
Hiệp Bình Chánh
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
Bình Chiểu
|
|
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Cộng
|
3
|
3
|
2
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận 7
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tân Thuận Đông
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
Cộng
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận 12
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trung tâm Quận 12
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Cộng
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Nhà Bè
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Phước Kiểng
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Thị Trấn Nhà Bè (mới)
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Hiệp Phước (mới)
|
|
|
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
Cộng
|
1
|
2
|
2
|
2
|
3
|
1
|
1
|
1
|
Huyện Cần Giờ
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cần Thạnh
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
Bình Khánh (3 điểm)
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
An Thới Đông (3 điểm)
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
Bình Khánh (mới)
|
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
An Thới Đông (mới)
|
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
Cộng
|
7
|
7
|
3
|
3
|
3
|
3
|
3
|
3
|
Quận Bình Tân
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trung Tâm Bình Chánh
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
Cơ sở giết mổ công nghiệp (Mới) - KCN Tân Tạo
|
|
|
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
Cộng
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Bình Chánh
|
|
|
|
|
|
|
|
|
ấp 3 Bình Chánh
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
ấp 1 Phong Phú
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
ấp 6 Hưng Long
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Cộng
|
2
|
3
|
3
|
2
|
3
|
0
|
0
|
0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Hóc Môn
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trung tâm Hóc Môn
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Bà Điểm
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
Đông Thạnh
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
Xuân Thới Sơn
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Cơ sở giết mổ công nghiệp (Mới) - xã Tân Hiệp
|
|
|
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
Cộng
|
4
|
4
|
4
|
3
|
3
|
1
|
1
|
1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Củ Chi
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thị trấn Củ Chi
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
Phú Hoà Đông
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Tân Thạnh Đông
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
Tân Phú Trung
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
Phước Thạnh
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Trung Lập Hạ
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
An Nhơn Tây
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
An Phú
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Hoà Phú
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
|
|
|
Tân An Hội (mới)
|
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
An Hạ (mới)
|
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
x
|
Hoà Phú (mới)
|
|
|
|
|
|
x
|
x
|
x
|
An Nhơn Tây (mới)
|
|
|
|
|
|
x
|
x
|
x
|
Phú Hoà Đông (mới)
|
|
|
|
|
|
x
|
x
|
x
|
Phước Thạnh (mới)
|
|
|
|
|
|
x
|
x
|
x
|
Cộng
|
8
|
10
|
9
|
7
|
7
|
6
|
6
|
6
|
Tổng số
|
37
|
41
|
34
|
25
|
22
|
13
|
13
|
13
|
Phụ chú:
+ Năm 2003: Có 37 cơ sở giết mổ (CSGM) thủ công và bán công
nghiệp.
+ Năm 2004: Toàn Thành phố có 41 CSGM (Trong đó xây dựng
mới 02 CSGM thủ công và 02 CSGM bán công nghiệp).
+ Năm 2005: 34 CSGM (trong đó ngưng hoạt động 10 CSGM nằm
trong khu dân cư và không đảm bảo vệ sinh môi trường và xây dựng mới 03 CSGM
bán công nghiệp).
+ Năm 2006: 25 CSGM (trong đó ngưng hoạt động 10 CSGM thủ
công, gần khu vực 02 nhà máy giết mổ công nghiệp hiện đại ra đời. Đồng thời phải
tiếp tục duy trì sự hoạt động của 02 CSGM Công ty Vissan và Công ty Nam Phong
là do 02 CSGM này có hệ thống xử lý nước thải và để đảm bảo công việc cho số
công nhân lao động hoạt động tại CSGM, vì chưa xây dựng xong 02 nhà máy giết mổ
công nghiệp hiện đại tại KCN Tân Tạo - Bình Tân do chủ đầu tư là Công ty Vissan
và tại xã Tân Hiệp - huyện Hốc Môn do chủ đầu tư là Liên minh hợp tác xã).
+ Năm 2007: 22 CSGM (trong đó ngưng hoạt động 05 CSGM nằm
trong khu dân cư, gần khu vực nhà máy giết mổ công nghiệp và đưa vào hoạt động
02 Nhà máy giết mổ công nghiệp hiện đại tại KCN Tân Tạo của Vissan và tại xã
Tân Hiệp, Huyện Hóc Môn. Ngoài ra còn có 01 Nhà máy giết mổ Công nghiệp hiện đại
tại Dĩ An - Bình Dương của Tổng Công ty nông nghiệp Sài Gòn đầu tư xây dựng).
+ Năm 2008 - 2010: 13 CSGM (Trong đó 02 Nhà máy giết mổ
công nghiệp hiện đại và 11 CSGM bán công nghiệp tại các huyện xa Thành phố còn tồn
tại đến 2010, để đáp ứng nhu cầu giết mổ tự cung, tự cấp tại địa phương như: 01
CSGM Quận 7, 01 CSGM huyện Nhà Bè, 03 huyện Cần Giờ, 06 CSGM huyện Củ Chi).
Đồng thời còn có 01 Nhà máy giết mổ Công nghiệp hiện đại tại Dĩ An - Bình Dương
đang hoạt động.
Phụ lục 02: Công suất hoạt động
của hệ thống cơ sở giết mổ gia súc đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
Thời hạn
CSGM
|
Công suất thiết kế
|
Giai đoạn
2004 - 2006
|
Giai đoạn 2007 - 2008
|
Giai đoạn 2009 - 2010
|
Định hướng đến 2020
|
Heo
|
Trâu bò
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Các quận nội thành
|
|
|
6
|
6
|
2
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Vissan
|
4000
|
600
|
500
|
500
|
1000
|
|
|
|
|
|
|
|
|
100 T.bò
|
100 T.bò
|
100 T.bò
|
|
|
|
|
|
Gò Vấp
|
50
|
|
150
|
150
|
|
|
|
|
|
|
Trạm 4
|
500
|
|
300
|
300
|
|
|
|
|
|
|
213 Bến Bình Đông
|
200
|
|
300
|
300
|
|
|
|
|
|
|
Nam Phong
|
1000
|
|
1500
|
1200
|
500
|
|
|
|
|
|
Tabico
|
300
|
|
800
|
800
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận Bình Tân
|
|
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
Trung tâm Bình Chánh
|
1000
|
|
800
|
1000
|
1200
|
|
|
|
|
|
Tân Tạo
|
|
|
|
|
|
2400
|
3000
|
4000
|
4000
|
8000
|
|
|
|
|
|
|
300 T.bò
|
300 T.bò
|
300 T.bò
|
500 T.bò
|
900 T.bò
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Bình Chánh
|
|
|
3
|
3
|
2
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
Xã Bình Chánh
|
20
|
|
15
|
15
|
15
|
|
|
|
|
|
Phong Phú
|
50
|
|
100
|
100
|
|
|
|
|
|
|
Hưng Long
|
1000
|
|
|
500
|
1000
|
1000
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Hóc Môn
|
|
|
4
|
3
|
3
|
3
|
3
|
1
|
1
|
1
|
Thị trấn Hóc Môn
|
500
|
|
300
|
300
|
500
|
500
|
|
|
|
|
Bà Điểm
|
300
|
|
300
|
|
|
|
|
|
|
|
Đông Thạnh
|
150
|
|
200
|
200
|
200
|
|
|
|
|
|
Xuân Thới Sơn
|
50
|
|
50
|
50
|
150
|
150
|
|
|
|
|
Tân Hiệp (mới)
|
|
|
|
|
|
500
|
1500
|
3000
|
3000
|
8000
|
Quận 12
|
|
|
1
|
1
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Trung tâm Quận 12
|
500
|
|
300
|
300
|
500
|
500
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Củ Chi
|
|
|
10
|
9
|
9
|
6
|
6
|
6
|
6
|
0
|
Thị trấn Củ Chi
|
50
|
50
|
30
|
30
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
50 T.bò
|
50 T.bò
|
|
|
|
|
|
|
Phú Hoà Đông
|
30
|
|
30
|
30
|
30
|
|
|
|
|
|
Tân Thạnh Đông
|
30
|
|
30
|
30
|
|
|
|
|
|
|
Tân Phú Trung
|
30
|
|
30
|
30
|
|
|
|
|
|
|
Phước Thạnh
|
30
|
|
30
|
30
|
30
|
|
|
|
|
|
Trung Lập Hạ
|
5
|
|
5
|
|
|
|
|
|
|
|
An Nhơn Tây
|
10
|
|
10
|
10
|
10
|
|
|
|
|
|
An Phú
|
10
|
|
10
|
10
|
10
|
|
|
|
|
|
Hoà Phú
|
50
|
|
50
|
50
|
50
|
|
|
|
|
|
An Hạ
|
500
|
|
20
|
50
|
500
|
500
|
500
|
500
|
500
|
|
Tân An Hội (mới)
|
|
|
|
|
200
|
200
|
200
|
200
|
200
|
|
|
|
|
|
|
50 T.bò
|
50 T.bò
|
50 T.bò
|
50 T.bò
|
50 T.bò
|
|
Phú Hoà Đông (mới)
|
|
|
|
|
50
|
50
|
50
|
50
|
50
|
|
Phước Thạnh (mới)
|
|
|
|
|
50
|
50
|
50
|
50
|
50
|
|
Hoà Phú (mới)
|
|
|
|
|
|
100
|
100
|
100
|
100
|
|
An Nhơn Tây (mới)
|
|
|
|
|
|
30
|
30
|
30
|
30
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận 2
|
|
|
1
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Bình Trưng Đông
|
50
|
|
50
|
100
|
100
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận 9
|
|
|
1
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Phước Long
|
50
|
|
50
|
100
|
100
|
|
|
|
|
|
Quận Thủ Đức
|
|
|
2
|
1
|
1
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
Thị trấn Thủ Đức
|
30
|
|
50
|
|
|
|
|
|
|
|
Hiệp Bình Chánh
|
30
|
|
50
|
|
|
|
|
|
|
|
Bình Chiểu
|
|
|
|
150
|
150
|
150
|
150
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Quận 7
|
|
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
Tân Thuận Đông
|
50
|
|
80
|
100
|
100
|
100
|
100
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Nhà Bè
|
|
|
2
|
2
|
2
|
2
|
2
|
2
|
2
|
0
|
Thị trấn Nhà Bè
|
150
|
|
100
|
150
|
150
|
150
|
150
|
150
|
150
|
|
Phước Kiểng
|
300
|
|
100
|
150
|
200
|
200
|
|
|
|
|
Hiệp Phước (mới)
|
|
|
|
|
|
|
200
|
200
|
200
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Huyện Cần Giờ
|
|
|
7
|
3
|
3
|
3
|
3
|
3
|
3
|
0
|
Cần Thạnh
|
50
|
|
30
|
30
|
30
|
30
|
30
|
30
|
30
|
|
Bình Khánh (3 điểm)
|
10
|
|
10
|
|
|
|
|
|
|
|
An Thới Đông (3 điểm)
|
10
|
|
10
|
|
|
|
|
|
|
|
Bình Khánh (mới)
|
|
|
|
20
|
20
|
20
|
20
|
20
|
20
|
|
An Thới Đông (mới)
|
|
|
|
20
|
20
|
20
|
20
|
20
|
20
|
|
Tỉnh Bình Dương
|
|
|
|
|
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
Bình An (T.Cty NN Sài Gòn)
|
|
|
|
|
|
1000
|
2000
|
3000
|
3000
|
6000
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng công suất
|
11095
|
650
|
6390 và 150 T.bò
|
6805 và 150 T.bò
|
6865 và 150 T.bò
|
7650 và 350 T.bò
|
8100 và 350 T.bò
|
11350 và 450 T.bò
|
11350 và 550 T.bò
|
22000 và 900 T.bò
|
Danh sách các cơ sở giết mổ gia súc tại thành phố năm 2004
STT
|
Tên CSGM
|
Công suất thiết kế (con/ ngày)
|
Công suất thực tế (con/ ngày)
|
Vị trí (năm 2003)
|
Địa chỉ
|
Khu dân cư
|
Thưa dân cư
|
Cách biệt
|
1
|
Vissan
|
2400 heo, 300 t.bò
|
400 heo, 100 t.bò
|
x
|
|
|
420 Nơ Trang Long, P.13 - Q.Bình Thạnh
|
2
|
Nam Phong
|
800 heo
|
1200 heo
|
x
|
|
|
344 Nơ Trang Long, P13 - Q.Bình Thạnh
|
3
|
Tabico
|
300 heo
|
700-1000 heo
|
x
|
|
|
1333 Hương Lộ 2, P.9 -Q. Tân Bình
|
4
|
CHTP Gò Vấp
|
50-100 heo
|
150-200 heo
|
x
|
|
|
21 Huỳnh Khương An, P.5 - Q. Gò Vấp
|
5
|
Trung tâm Quận 12
|
300-400 heo
|
300 heo
|
|
|
x
|
242/1 KP2, P. Tân Thới Hiệp - Quận 12
|
|
Quận 8
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Trạm 4
|
500 heo
|
250-300 heo
|
x
|
|
|
04 Nguyễn Duy, Quận 8
|
7
|
213 Bến Bình Đông
|
100-150 heo
|
300 heo
|
x
|
|
|
213 Bến Bình Đông, Quận 8
|
|
Quận Bình Tân
|
|
|
|
|
|
|
8
|
Trung tâm Bình Chánh
|
1000
|
900-1200 heo
|
|
|
x
|
Đường Trần Đại Nghĩa, ấp 1, Tân Tạo, Bình Chánh
|
|
Huyện Bình Chánh
|
|
|
|
|
|
|
9
|
Thuận Lợi
|
1000 heo
|
chưa hoạt động
|
|
|
x
|
ấp 1, xã Hưng Long - huyện Bình Chánh
|
10
|
Phong Phú
|
50
|
100 heo
|
x
|
|
|
A1/10 QL50, ấp 1, xã Phong Phú - huyện Bình Chánh
|
11
|
ấp 3- Xã Bình Chánh
|
20 - 30 heo
|
10 heo
|
|
x
|
|
C9/32 ấp 3, xã Bình Chánh
|
|
Huyện Hóc Môn
|
|
|
|
|
|
|
12
|
Thị trấn Hóc Môn
|
300
|
280 -300 heo
|
|
x
|
|
ấp Tân Thới Nhất, xã Tân Hiệp Hóc Môn
|
13
|
Bà Điểm
|
500
|
300-350 heo
|
x
|
|
|
55/4 ấp Tiền Lân, xã Bà Điểm - Hóc Môn
|
14
|
Xuân Thới Sơn
|
20 - 30 heo
|
40 heo
|
|
x
|
|
ấp 1, xã Xuân Thới Sơn - Hóc Môn
|
15
|
Đông Thạnh
|
20 heo
|
50 -100 heo
|
x
|
|
|
ấp 5, Tỉnh lộ 16, xã Đông Thạnh
|
|
Huyện Thủ Đức
|
|
|
|
|
|
|
16
|
Thị trấn Thủ Đức
|
50 heo
|
26
|
x
|
|
|
26 Phan Văn Trị, P. Linh Tây
|
17
|
Hiệp Bình Chánh
|
50 heo
|
55 heo
|
x
|
|
|
10/1C ấp Bình Triệu, P. Hiệp Bình Chánh
|
18
|
Tam Bình
|
50 heo
|
40 heo
|
x
|
|
|
78C/4 Hương Lộ 25 P. Tam Bình
|
|
Quận 2
|
|
|
|
|
|
|
19
|
Bình Trưng Đông
|
20-30 heo
|
20 heo
|
x
|
|
|
36 Nguyễn Duy Trinh, P. Bình Trưng Đông
|
|
Quận 9
|
|
|
|
|
|
|
20
|
Phước Long
|
20-30 heo
|
12 heo
|
x
|
|
|
Số 100, ấp Nam Hoà, P. Phước Long A
|
|
Huyện Củ Chi
|
|
|
|
|
|
|
21
|
Thị trấn Củ Chi
|
50 heo, 40 t.bò
|
30 heo, 40 - 60 t.bò
|
|
|
x
|
KP1, thị trấn Củ Chi
|
22
|
Phú Hoà Đông
|
20 - 30 heo
|
25 heo
|
x
|
|
|
ấp Chợ, xã Phú Hoà Đông
|
23
|
Tân Thạnh Đông
|
20 - 30 heo
|
20 heo
|
|
x
|
|
ấp 1, xã Tân Thạnh Đông
|
24
|
Tân Phú Trung
|
20 - 30 heo
|
30 heo
|
|
x
|
|
282/A2 ấp Đình, xã Tân Phú Trung
|
25
|
Phước Thạnh
|
20 - 30 heo
|
12 heo
|
x
|
|
|
ấp Phước Hưng, xã Phước Thạnh
|
26
|
Trung Lập Hạ
|
5 - 10 heo
|
3 heo
|
x
|
|
|
ấp Trung Hoà, xã Trung Lập Hạ
|
27
|
An Hạ
|
200 heo
|
30 heo
|
|
x
|
|
Quốc Lộ 22, ấp Chợ, xã Tân Phú Trung
|
28
|
Hoà phú
|
50 heo
|
100 heo
|
|
x
|
|
Tổ 1, ấp 2A, xã Hoà Phú
|
29
|
An Nhơn Tây
|
5 - 10 heo
|
8 heo
|
|
x
|
|
Tổ 7, ấp Chợ Cũ 2, xã An Nhơn Tây
|
30
|
An Phú
|
5 -10 heo
|
6 heo
|
|
x
|
|
ấp Phú Bình, xã An Phú
|
|
Quận 7
|
|
|
|
|
|
|
31
|
Tân Thuận Đông
|
30 - 40 heo
|
20 -30 heo
|
|
|
x
|
KP2, P. Tân Thuận Đông
|
32
|
Tân Quy (dê)
|
20-30 dê
|
20 dê
|
x
|
|
|
86/20 KP2, P. Tân Quy
|
|
Huyện Nhà Bè
|
|
|
|
|
|
|
33
|
Thị trấn Nhà Bè
|
100 heo
|
80 -100 heo
|
x
|
|
|
Khu phố 4 Thị trấn Nhà Bè
|
34
|
Phước Kiểng
|
200 heo
|
55 heo
|
|
x
|
|
15 B Lê Văn Lương, ấp 5, xã Phước Kiểng
|
|
Huyện Cần Giờ
|
|
|
|
|
|
|
35
|
Cần Thạnh
|
|
9 - 15 heo
|
|
|
x
|
ấp Hưng Thạnh, Cần Thạnh
|
36
|
Bình Khánh (3 điểm)
|
1 - 2 heo/ điểm
|
7 heo
|
x
|
|
|
|
37
|
An Thới Đông (3 điểm)
|
1 - 2 heo/ điểm
|
5 heo
|
x
|
|
|
|
Tổng cộng: 41 cơ sở
|
|
|
25
|
10
|
6
|
|