ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH THUẬN
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
16/2010/QĐ-UBND
|
Phan
Thiết, ngày 12 tháng 4 năm 2010
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, CỦNG CỐ, PHÁT TRIỂN
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TẬP THỂ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2011 – 2015
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Hợp tác xã ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về một
số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã;
Căn cứ Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn;
Căn cứ Thông tư số 66/2006/TT-BTC ngày 17 tháng 7 năm 2006 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
về chế độ tài chính hỗ trợ các sáng lập viên hợp tác xã chuẩn bị thành lập, các
đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của hợp tác xã;
Theo đề nghị của Liên minh Hợp tác xã Bình Thuận tại Tờ trình số
04/2010/TTr-LMHTX ngày 01 tháng 4 năm 2010,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình tiếp tục đổi mới, củng cố, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 -
2015.
Điều 2.
Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3.
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Giám đốc
Sở Tài chính, Giám đốc Sở Công thương, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường,
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giám đốc Sở Khoa học và Công
nghệ, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Liên minh Hợp tác
xã Bình Thuận, Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bình Thuận, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước
- Chi nhánh tỉnh Bình Thuận, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành
phố và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có liên quan căn cứ Quyết định thi
hành./.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Huỳnh Tấn Thành
|
CHƯƠNG TRÌNH
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, CỦNG CỐ, PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH TẾ TẬP THỂ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2011 – 2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 16/2010/QĐ-UBNDngày 12 tháng 4 năm 2010
của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận)
I. THỰC TRẠNG
KINH TẾ TẬP THỂ TỈNH BÌNH THUẬN
Thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU
của Tỉnh ủy; ngày 06 tháng 5 năm 2003, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã ban
hành Quyết định số 26/2003/QĐ-UBBT về Chương trình hành động về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đến năm 2010; trong đó, tập trung củng
cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hợp tác xã (viết tắt là HTX) hiện có,
bảo đảm theo đúng nguyên tắc, các quy định của Luật Hợp tác xã 2003. Tích cực vận
động phát triển kinh tế tập thể đa dạng và hoạt động có hiệu quả trong tất cả
các ngành, lĩnh vực.
Chương trình hành động của Ủy
ban nhân dân tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU của Tỉnh ủy đã được các ngành,
các cấp tiến hành cụ thể hóa và triển khai thực hiện đã có những tác động quan
trọng đến nhiều lĩnh vực của kinh tế tập thể. Tổng số HTX toàn tỉnh hiện có là
148, gồm: nông nghiệp 59; công nghiệp - xây dựng 14; thương mại - dịch vụ 5; vận
tải 14; thủy sản 35 và 21 quỹ tín dụng nhân dân. Tình hình hoạt động của kinh tế
tập thể đã có một số chuyển biến, cá biệt có nơi chuyển biến tích cực, thể hiện
ở chỗ tiếp tục giải thể lại những HTX yếu kém, hình thành một số HTX. Các HTX
đã tự lựa chọn các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh phù hợp với mình và có nhiều
cải tiến trong công tác tổ chức, quản lý, mở rộng dịch vụ, phát triển thêm
ngành nghề, làm đầu mối tiếp nhận các chương trình chuyển giao kỹ thuật và các
nguồn vốn phục vụ trực tiếp cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng. Một số HTX đã mạnh dạn huy động vốn, trang bị thêm tài sản cố định,
đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn. Đội ngũ cán bộ cũng có sự phát
triển nhất định.
Nhận thức của cán bộ, Đảng viên
và nhân dân về kinh tế tập thể được nâng lên một bước, hiểu rõ hơn vị trí, vai
trò của kinh tế tập thể đối với phát triển kinh tế hộ trong cơ chế thị trường.
Các cấp ủy, chính quyền địa phương phần nào khắc phục được sự buông lỏng, lúng
túng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước về HTX.
Tuy nhiên, kinh tế tập thể vẫn
còn nhiều tồn tại, yếu kém thể hiện:
- Việc củng cố, phát triển HTX
không đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra; nhiều yếu kém vẫn chưa được khắc phục, như
việc triển khai mô hình HTX kiểu mới chưa nhiều; hầu hết HTX có quy mô nhỏ, việc
huy động tăng vốn góp rất khó khăn, năng lực cạnh tranh kém, hiệu quả thấp. Việc
củng cố, đổi mới nội dung hoạt động số HTX cũ, xử lý tồn tại, khắc phục yếu kém
đã có nhiều cố gắng nhưng kết quả chưa cao, tỷ lệ HTX trung bình, yếu kém giảm
chậm, số HTX phải giải thể vẫn còn. Tốc độ phát triển HTX phát triển chậm, chưa
đều giữa các vùng lãnh thổ, giữa các lĩnh vực kinh tế. Kinh tế tập thể phát triển
thiếu vững chắc;
- Tổ chức quản lý, điều hành HTX
còn nhiều bất cập, điều lệ của hầu hết HTX còn chung chung, thiếu cụ thể làm hạn
chế tính năng động sáng tạo của người điều hành. Phương án sản xuất kinh doanh
chưa khả thi, quản lý tài chính ở nhiều HTX chưa được minh bạch; công tác kế
toán thống kê còn nhiều yếu kém. Bên cạnh đó, tình trạng cấp ủy, chính quyền địa
phương còn giao cho cán bộ quản lý HTX kiêm nhiệm nhiều công tác chính quyền,
đoàn thể.
Một bộ phận xã viên và cán bộ
HTX nhận thức chưa đầy đủ về mô hình HTX kiểu mới, chưa coi HTX như là một loại
hình doanh nghiệp, lấy lợi ích kinh tế làm chính nên ỷ lại, thiếu quan tâm xây
dựng HTX, cố tình để nợ đọng dây dưa, thiếu gắn bó với HTX, nhất là trong các
HTX nông nghiệp;
- Việc thực hiện các chính sách
khuyến khích phát triển HTX còn nhiều lúng túng, bất cập:
+ Về đất đai: việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã được triển khai tích cực và đạt kết quả đối với HTX
hiện đang sử dụng đất, còn một số HTX do nhận thức đất giao theo hình thức
không thu tiền, nên không được thế chấp để đảm bảo tiền vay nên chưa làm;
+ Tài chính tín dụng: chưa hình
thành được Quỹ hỗ trợ phát triển HTX. Ngân hàng cho vay yêu cầu thế chấp tài sản,
trong khi HTX không có tài sản nên việc vay vốn gặp khó khăn. Hoạt động tín dụng
nội bộ HTX theo Thông tư 06 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước còn yếu. Quỹ quốc
gia hỗ trợ việc làm (Quỹ 120) chỉ cho vay đối với những dự án có tài sản thế chấp
và số tiền vay dựa vào số lao động thu hút theo dự án nên phần lớn các HTX
không vay được;
+ Về khoa học công nghệ: chưa tạo
được mối quan hệ liên kết giữa các đơn vị nghiên cứu, triển khai ứng dụng với
các HTX để thực hiện chuyển giao các thành tựu khoa học công nghệ mới. Việc lựa
chọn một số HTX tiên tiến làm hạt nhân chuyển giao kỹ thuật, công nghệ trên thực
tế còn hạn chế vì HTX thiếu lực lượng cán bộ tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới.
Việc khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước bán máy móc thiết bị cho các HTX
theo phương thức trả chậm trong thực tế không mang tính khả thi. Các Trung tâm
Khuyến nông - Khuyến ngư, Khuyến công... có triển khai việc chuyển giao thành tựu
khoa học công nghệ cho các HTX nhưng kết quả chưa như mong muốn;
+ Về chính sách cán bộ và nguồn
nhân lực: việc tăng cường và thu hút sinh viên ra trường về làm việc cho HTX
theo Quyết định số 1809/QĐ-UBBT chưa thực hiện được. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ tuy đã được triển khai tích cực nhưng chưa đạt được theo yêu cầu, chủ yếu
là thực hiện các đợt bồi dưỡng ngắn ngày, các lớp đào tạo dài ngày chưa thu hút
được nhiều người học; đồng thời một số khoản chi phí hỗ trợ đào tạo theo Quyết
định số 1809/QĐ-UBBT còn quá thấp so với tình hình thực tế.
Việc hỗ trợ thành lập mới chưa
được cụ thể, mới chỉ hỗ trợ tuyên truyền thông qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày;
các hỗ trợ khác chưa thực hiện;
+ Về hỗ trợ tiếp thị thông tin
thị trường: chưa đạt yêu cầu, mới chỉ hỗ trợ một số đơn vị kinh tế tập thể tham
gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài tỉnh, các hoạt động xúc tiến thương mại,
tìm kiếm thị trường, giới thiệu sản phẩm triển khai chưa nhiều, kết quả đạt
chưa cao;
+ Về hỗ trợ ưu đãi, khuyến khích
đầu tư: triển khai thực hiện vẫn có nhiều vướng mắc, chưa có HTX được hưởng;
+ Công tác quản lý Nhà nước đối
với kinh tế tập thể: công tác quản lý kinh tế tập thể ở các sở, ngành và chính
quyền các cấp chưa được tiến hành thường xuyên liên tục, thậm chí có lúc còn
buông lỏng, đến nay mới có 2 đơn vị thành lập phòng quản lý kinh tế tập thể là:
Chi cục Phát triển nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
Phòng Tổng hợp thuộc Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh tỉnh Bình Thuận, các sở,
ngành còn lại, bố trí biên chế quản lý kinh tế tập thể trong các phòng, ban trực
thuộc, cụ thể Sở Công thương bố trí 1 cán bộ chuyên trách; Sở Giao thông vận tải
giao nhiệm vụ quản lý kinh tế tập thể cho Phòng Quản lý vận tải - Người lái phụ
trách… Còn lại hầu hết là cử cán bộ kiêm nhiệm công tác kinh tế tập thể. Đối với
các huyện, thành phố chủ yếu phân công Phòng Tài chính - Kế hoạch hoặc Phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phụ trách kinh tế tập thể. Xã, phường, thị
trấn hầu như chưa bố trí cán bộ kiêm nhiệm theo dõi kinh tế tập thể, vì vậy,
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tập thể chưa được
phổ biến sâu rộng.
Nhìn chung, việc kết quả thực hiện
Quyết định số 26/2003/QĐ-UBBT chưa đạt yêu cầu đã đề ra.
Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Một số chính sách chậm ban
hành và cụ thể hóa từ Trung ương; chủ trương hoàn trả chi phí đầu tư tôn tạo mặt
bằng khi chuyển sang thuê đất đối với HTX phi nông nghiệp đến nay vẫn chưa cụ
thể hóa; đối tượng và thủ tục hưởng hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX theo
Nghị định số 88/2005/NĐ-CP hầu hết các HTX khó đáp ứng về độ tuổi và trình độ đầu
vào và mức hỗ trợ (Thông tư số 66/2006/TT-BTC) cũng thấp hơn mức theo đề án đào
tạo 2 năm 2004 - 2005 của Chính phủ (Thông tư số 22/2004/TT-BTC) một số thủ tục
thực hiện các chính sách còn nhiều rắc rối;
- Việc triển khai chính sách chỉ
mới tập trung ở khâu xây dựng và cụ thể hóa, chưa tập trung vào việc tổ chức thực
hiện chính sách;
- Nhận thức về vị trí vai trò của
kinh tế tập thể trong các ngành, các cấp chưa thật đầy đủ, từ đó thiếu quan tâm
chỉ đạo, quản lý điều hành và tạo điều kiện để phát triển kinh tế tập thể. Vai
trò tham mưu, quản lý Nhà nước của các ngành, các huyện, thị, thành chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển của kinh tế tập thể; chưa chú ý phát hiện và nhân rộng những
nhân tố mới. Sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể thiếu thường xuyên. Cán bộ và
kinh phí đảm bảo cho hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể còn hạn chế;
- Năng lực nội tại của kinh tế tập
thể còn nhiều yếu kém, bất cập, nguồn vốn kinh doanh quá nhỏ bé; việc hạch toán
chưa rõ ràng, minh bạch; chưa đề ra được những định hướng, kế hoạch phát triển
sản xuất kinh doanh cụ thể và khả thi.
II. MỤC TIÊU
VÀ YÊU CẦU CỦA CHƯƠNG TRÌNH
1. Mục tiêu tổng
quát:
Đẩy mạnh xây dựng và củng cố,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
kinh tế tập thể trong việc phát triển kinh tế hộ, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn...
Tăng cường phổ biến, tuyên truyền
pháp luật về kinh tế tập thể, tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách khuyến
khích, hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển vững mạnh,
đưa kinh tế tập thể trở thành thành phần kinh tế có vai trò quan trọng trong việc
giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và có đóng góp tích cực vào quá trình
xây dựng và phát triển tỉnh nhà.
2. Mục tiêu cụ
thể đến năm 2015:
* Giai đoạn đến năm 2011:
- Đổi mới tư duy, chấn chỉnh lại
nhận thức về HTX, tạo ra sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thống nhất về bản chất,
mô hình HTX kiểu mới, làm rõ lợi thế, tiềm năng riêng có và lợi ích của mô hình
HTX đối với xã viên;
- Xây dựng và kiện toàn bộ máy
quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể: tập trung tổ chức bộ máy ở các ngành kế hoạch
và đầu tư, nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng Nhà nước, công
thương; ở những ngành có số HTX không nhiều thì bố trí cán bộ chuyên trách về
kinh tế tập thể. Cấp huyện có cán bộ chuyên trách và cấp xã có cán bộ bán
chuyên trách;
- Rà soát các HTX đã đăng ký và
đang hoạt động, tiến hành giúp đỡ các HTX tổ chức lại theo quy định HTX kiểu mới;
kiên quyết xử lý các hợp tác xã hình thức, không đúng bản chất của hợp tác xã;
phát hiện và tổng kết các điển hình tiên tiến, rút ra các bài học, tuyên truyền,
phổ biến rộng điển hình tiên tiến và nhân rộng các loại hình HTX kiểu mới trong
từng ngành, địa phương;
- Vận động tổ hợp tác đủ điều kiện
chuyển thành HTX. Đồng thời, khuyến khích phát triển các tổ hợp tác. Vận động
giải thể và thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp đối với những HTX
không thể tổ chức lại theo quy định HTX kiểu mới.
* Giai đoạn từ năm 2012 đến năm
2015:
- Triển khai phát triển theo chiều
rộng các mô hình kinh tế tập thể phù hợp theo các đặc trưng bản chất của HTX và
hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích việc sáp nhập hoặc hợp nhất các
HTX để thành lập các HTX có quy mô lớn nhằm hình thành những HTX mạnh thực sự về
tiềm lực kinh tế và sức cạnh tranh;
- Phát triển mô hình tổ chức
liên kết kinh tế HTX theo ngành dọc nhằm đáp ứng các nhu cầu chung của các HTX
thành viên hiệu quả hơn so với từng HTX thành viên tự đáp ứng riêng lẻ và được
tổ chức hoạt động theo các giá trị và nguyên tắc hợp tác;
- Hình thành một số HTX, liên hiệp
HTX, hoặc tổ chức liên kết kinh tế HTX mạnh, có sức cạnh tranh cao, thu hút các
doanh nghiệp tham gia với tư cách là thành viên;
- Thu hút đại bộ phận hộ nông
dân và các cơ sở sản xuất nhỏ tham gia HTX;
- Khuyến khích phát triển HTX của
các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp trong thực hiện cung cấp sản
phẩm, dịch vụ chung cho các doanh nghiệp thành viên.
3. Chỉ tiêu
chủ yếu đến 2015:
- Tất cả các HTX, QTDND hoạt động
đều đạt từ trung bình đến khá giỏi;
- Có ít nhất 50% cán bộ quản lý,
chuyên môn nghiệp vụ của HTX đạt trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học.
III. CÁC GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
1. Tiếp tục đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật:
Liên minh HTX phối hợp cùng các
sở, ngành, đoàn thể và Ủy ban nhân dân các địa phương tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về kinh
tế tập thể để nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân; tạo tâm lý xã hội ủng
hộ mạnh mẽ các hình thức kinh tế tập thể ở các ngành, lĩnh vực kinh tế; chú trọng
nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp,
các ngành và nhân dân trong tỉnh.
2. Kiên quyết
giải thể các HTX yếu kém, tồn tại hình thức không có khả năng và điều kiện củng
cố, phát triển; chấn chỉnh các HTX, tổ hợp tác hoạt động không đúng theo luật
HTX quy định:
Ủy ban nhân dân các huyện, thị
xã, thành phố phối hợp cùng với Liên minh HTX và các sở, ngành có liên quan tiến
hành công tác củng cố, chấn chỉnh các HTX, tổ hợp tác yếu kém, tồn tại hình thức
theo hướng: đối với các HTX chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hoặc hoạt động không
đúng nguyên tắc, bản chất HTX và các HTX yếu kém, kinh doanh thua lỗ kéo dài,
không còn vai trò hỗ trợ cho kinh tế hộ xã viên, đang hoạt động cầm chừng, cần
tiến hành khảo sát, đánh giá lại một cách đầy đủ về tài sản, vốn, quỹ và công nợ
HTX nếu nhận thấy không thể củng cố được nữa thì kiên quyết tiến hành giải thể
HTX dứt điểm.
Cần coi đây là bước đột phá,
kiên quyết thực hiện để không còn HTX hình thức, gây trì trệ kéo dài đối với sự
phát triển của HTX. Đi cùng với công tác này là làm tốt công tác tuyên truyền vận
động, tạo điều kiện phát triển các loại hình kinh tế tập thể mới phù hợp, hiệu
quả hơn trong nông nghiệp, nông thôn.
3. Đổi mới tổ
chức quản lý hoạt động HTX:
- Các HTX chủ động sắp xếp bộ
máy quản lý HTX hợp lý, gọn nhẹ trên cơ sở nâng cao chất lượng và trẻ hóa cán bộ
quản lý HTX, tổ chức phân công trách nhiệm rõ ràng và bảo đảm sự phối hợp chặt
chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mạnh dạn phân công nhiệm vụ cho cán bộ trẻ để qua đó đào tạo thay thế
các đồng chí lớn tuổi. Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề
cho cán bộ quản lý và người lao động trong HTX. Ở những HTX có điều kiện nên tổ
chức cho cán bộ, xã viên tham quan, học tập kinh nghiệm các đơn vị bạn để về áp
dụng tại HTX;
- Xây dựng phương án sản xuất
kinh doanh, dịch vụ khả thi, chú trọng đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ
trong sản xuất để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Xử lý công nợ làm
lành mạnh tài chính, đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh; có biện pháp tiết kiệm
chi phí để hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ, đồng thời chú ý, quan tâm đến công
tác an toàn lao động, bảo vệ môi trường. Bổ sung, sửa đổi phương án phân phối đảm
bảo hài hòa giữa lợi ích tập thể, lợi ích của xã viên và người lao động. Nghiên
cứu thực hiện chế độ bảo hiểm cho cán bộ xã viên và người lao động (như BHXH, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động ...) nhằm tạo điều kiện cho họ an
tâm sản xuất, gắn bó với HTX;
- Tích cực tìm kiếm, khai thác
thị trường, mở rộng liên kết kinh tế giữa các HTX với nhau và giữa HTX với
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế để cung ứng nguyên vật liệu, gia công
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhằm hỗ trợ nhau cùng phát triển nhằm tăng khả năng
cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. Thực hiện việc xây dựng thương hiệu, đăng ký
nhãn mác sản phẩm hàng hóa nhằm quảng cáo các mặt hàng chủ lực, truyền thống của
HTX.
4. Thực hiện
các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Bình Thuận:
4.1. Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực:
a) Hỗ trợ thành lập mới HTX, tổ
hợp tác; đối với HTX, các sáng lập viên thành lập HTX có đơn đề nghị hỗ trợ
thành lập HTX có xác nhận của xã, phường, thị trấn nơi HTX sẽ đóng trụ sở gửi đến
Liên minh Hợp tác xã tỉnh thẩm định sẽ được ngân sách tỉnh hỗ trợ 30.000.000 đồng
(ba mươi triệu đồng). Đây là nguồn vốn công trợ, vốn không chia của HTX, hỗ trợ
ban đầu cho HTX để tìm hiểu thông tin, nghiên cứu Luật Hợp tác xã và các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan, xây dựng Điều lệ, kế hoạch dự án sản xuất kinh
doanh, tổ chức Hội nghị thành lập HTX, trang bị phương tiện văn phòng. Đối với
Tổ hợp tác thành lập mới mức hỗ trợ bằng 50% mức hỗ trợ HTX thành lập mới;
b) Tuyên truyền, tập huấn về Luật
HTX và chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể:
Việc tuyên truyền, tập huấn về
kinh tế tập thể được triển khai rộng rãi đến toàn thể nhân dân trong tỉnh,… được
hỗ trợ toàn bộ chi phí về tài liệu, báo cáo viên, tiền ăn, công tác tổ chức lớp
(theo quy định như Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày quy định tại khoản c.1, mục
c) đào tạo, bồi dưỡng.
c) Đào tạo, bồi dưỡng:
Các chức danh trong Ban quản trị,
Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm, Kế toán trưởng, Trưởng Ban Kiểm soát và cán bộ chuyên
môn nghiệp vụ của hợp tác xã khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng được ngân sách Nhà
nước chi hỗ trợ một phần kinh phí, cụ thể:
c.1. Về bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn
ngày: (áp dụng cho các lớp từ 15 ngày trở xuống):
- Hỗ trợ 100% tiền mua tài liệu
chính khóa;
- Hỗ trợ 100% chi phí tổ chức lớp
học theo quy định tại Thông tư số 66/2006/TT-BTC ngày 17 tháng 7 năm 2006;
- Tiền tàu xe: hỗ trợ 01 lượt đi
và về mức chi áp dụng theo chế độ công tác phí hiện hành của tỉnh;
- Tiền ăn, nghỉ: chỉ hỗ trợ các
trường hợp khoảng cách từ trụ sở làm việc đến cơ sở đào tạo từ 10 km trở lên đối
với miền núi, hải đảo; từ 15 km trở lên đối với các vùng còn lại; cụ thể mức hỗ
trợ:
+ Các lớp trong tỉnh:
Tiền ăn: 30.000 đồng/ngày/người.
Tiền nghỉ: 80.000 đồng/ngày/người.
+ Các lớp mở ngoài tỉnh:
Tiền ăn: 70.000 đồng/ngày/người.
Tiền nghỉ: 150.000 đồng/ngày/người.
c.2. Về đào tạo dài hạn:
Các đối tượng quy định nêu trên
khi được hợp tác xã cử đi đào tạo từ đại học, cao đẳng đến trung học chuyên
nghiệp và các trường dạy nghề sẽ được hỗ trợ:
- Tiền học phí 100% cho toàn
khóa học;
- Tiền tài liệu hỗ trợ 100% tiền
tài liệu chính khóa;
- Tiền tàu xe đi và về: hỗ trợ
vào các dịp khai giảng, bế giảng, nghỉ lễ, tết mỗi năm không quá 4 đợt. Mức chi
áp dụng theo chế độ công tác phí hiện hành của tỉnh.
* Đồng thời phải đáp ứng các điều
kiện sau:
- Tuổi không quá 45;
- Đủ điều kiện tuyển sinh do Bộ
Giáo dục và Đào tạo yêu cầu;
- Có quyết định cử đi học của
Ban Quản trị hợp tác xã;
- Có cam kết bằng văn bản làm việc
cho hợp tác xã ít nhất 05 năm sau khi tốt nghiệp.
d) Phối hợp với ngành lao động -
thương binh và xã hội triển khai thực hiện kế hoạch dạy nghề cho xã viên, người
lao động trong HTX nhằm nâng cao chất lượng lao động:
Thực hiện tuyên truyền, phổ biến
Bộ Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội đến từng xã viên, lao động làm việc
trong HTX nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật lao động. Thực hiện tốt
nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ
lao động. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa.
đ) Nghiên cứu có cơ chế điều động
cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật đang công tác tại các cơ quan Nhà nước
về làm việc tại các HTX theo yêu cầu của cơ sở. Trong thời gian điều động, được
giữ nguyên lương, đóng BHXH và các chế độ khác. Ngoài ra, tùy theo kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của HTX, HTX chi trả thêm phần phụ cấp cho cán bộ nói
trên. Sau thời gian 3 đến 5 năm điều động, nếu đạt hiệu quả cao trong thời gian
công tác ở cơ sở, cơ quan có cán bộ được điều động có thể cân nhắc đề bạt cán bộ
đó ở vị trí công tác cao hơn.
4.2. Chính sách về tín dụng:
- Đối với một số dự án mà chủ đầu
tư là HTX có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh nằm
trong danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư (ban hành kèm theo Nghị định số
151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ) mà chưa được tiếp cận với
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thì đề nghị Ngân hàng Phát triển
- Chi nhánh Bình Thuận xem xét hướng dẫn trình tự thủ tục cho vay. Hỗ trợ lãi
suất sau đầu tư cho các dự án thuộc danh mục A - Nghị định số 51/1999/NĐ-CP
ngày 08 tháng 7 năm 1999 Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) mà các
HTX đã vay vốn của các tổ chức tín dụng hợp pháp trên địa bàn tỉnh để đầu tư,
đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay (điều kiện để được hỗ
trợ lãi suất sau đầu tư, trình tự và thủ tục hỗ trợ lãi suất, mức hỗ trợ, cách
xác định mức hỗ trợ có phụ lục kèm theo);
- Đối với các HTX có những dự án
có hiệu quả và giải quyết được nhiều lao động tại địa phương, đề nghị Ngân hàng
Chính sách xã hội và các cơ quan chức năng ưu tiên bố trí nguồn vốn vay từ nguồn
vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm nếu đủ các điều kiện về thủ tục vay.
4.3. Chính sách thuế:
Ngành thuế chủ trì, phối hợp
cùng Liên minh HTX, Sở Tài chính và các sở quản lý ngành triển khai thực hiện đầy
đủ các chính sách ưu đãi về thuế đối với HTX theo hướng tạo điều kiện thuận lợi
cho các HTX áp dụng.
4.4. Chính sách về đất đai:
Tiến hành kiểm kê quỹ đất các
HTX đang quản lý và đẩy mạnh việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho các HTX nông nghiệp có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng trụ sở, nhà kho,
sân phơi, cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ xã viên sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản; các ngành, địa phương có trách nhiệm hướng dẫn HTX
nông nghiệp sử dụng hợp pháp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phục vụ hoạt động
sản xuất kinh doanh của HTX. Việc thu hồi và tái bố trí đất đối với các HTX
nông nghiệp phải thực hiện công bằng như các doanh nghiệp khác.
Tạo điều kiện cho HTX phi nông
nghiệp được thuê đất dài hạn theo các quy định ưu đãi của Nhà nước.
4.5. Chính sách về khoa học công
nghệ và xúc tiến thương mại:
- Tiếp tục thực hiện Quyết định
số 1539/QĐ-UBND ngày 06 tháng 6 năm 2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh về Chương
trình hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế tập thể về khoa học công nghệ đến
năm 2010;
- HTX được hỗ trợ kinh phí dự án
trong chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ
phù hợp với quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo định mức các đề
tài khoa học hoặc chương trình hỗ trợ ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ
mà tỉnh đã ban hành;
- Tỉnh dùng nguồn kinh phí cần
thiết thông qua hệ thống khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và vốn
sự nghiệp khoa học công nghệ để hỗ trợ trực tiếp cho các HTX trong việc ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao
chất lượng và xây dựng thương hiệu sản phẩm; tham quan, học tập các mô hình sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả trong và ngoài tỉnh;
- Ngân sách Nhà nước hỗ trợ kinh
phí cho các HTX tham gia hội chợ triển lãm, tìm kiếm, mở rộng thị trường, xây dựng
và quảng bá thương hiệu, tham gia xuất khẩu...;
- HTX khu vực nông thôn được hỗ
trợ toàn bộ kinh phí đào tạo nghề cho xã viên, người lao động;
- Đối với những HTX nông nghiệp
có đủ điều kiện tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh giao các sở, ngành tiếp tục giao trách
nhiệm cho các HTX này và sẽ xây dựng cơ chế riêng cho các HTX khi tham gia vào
các chương trình trên.
4.6. Chính sách về đầu tư hạ tầng
kỹ thuật của Nhà nước đối với nông thôn, miền núi:
Hàng năm, tỉnh cân đối ngân sách
hỗ trợ đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, nhất là những công trình thiết yếu
phục vụ sản xuất nông nghiệp; đồng thời, ưu tiên hỗ trợ các HTX có đủ điều kiện
tham gia xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trên địa bàn và quản lý công
trình sau khi hoàn thành, kể cả các công trình hạ tầng phục vụ phát triển cụm
công nghiệp và làng nghề ở nông thôn; các dự án, chương trình phát triển kinh tế
- xã hội khác trên địa bàn phù hợp với khả năng của HTX.
Thời hiệu thực hiện các chính
sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh đến năm 2015.
Trường hợp quy định mới của Chính phủ có những ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi
hơn so với những ưu đãi mà các hợp tác xã đang được hưởng theo Chương trình này
thì được hưởng theo quy định của Trung ương.
5. Nâng cao hiệu
lực quản lý Nhà nước đối với kinh tế tập thể:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
quản lý Nhà nước đối với kinh tế tập thể từ tỉnh đến xã, phường theo Quyết định
số 272/2005/QĐ-TTg ngày 31 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện
nghiêm túc vai trò quản lý Nhà nước theo quy định tại Nghị định số
177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 về quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Hợp tác xã năm 2003. Triển khai đầy đủ các chính sách đã ban hành
đối với kinh tế tập thể;
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành
chính, nhất là trong việc thành lập mới, cấp đăng ký kinh doanh, giải quyết đất
đai, mặt bằng sản xuất… đối với HTX. Xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo
cán bộ tăng cường cho khu vực kinh tế tập thể, xem xét hỗ trợ kinh phí đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX, tổ hợp tác.
6. Nâng cao hiệu
quả hoạt động của Liên minh HTX:
- Đổi mới phương thức hoạt động
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cả về số lượng, năng lực, trình độ nghiệp
vụ chuyên môn, đi sát cơ sở, am hiểu và nhiệt tình với phong trào kinh tế tập
thể, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới;
- Đẩy mạnh hoạt động của Trung
tâm Tư vấn - Hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể nhằm thực hiện công tác tư vấn về
thành lập mới các HTX, tổ hợp tác, xây dựng các dự án đầu tư, tư vấn về khoa học
công nghệ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đào tạo nghề.... hỗ trợ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của kinh tế tập thể;
- Mở rộng hợp tác với các tổ chức
trong và ngoài nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất, kinh nghiệm
để phát triển kinh tế tập thể. Tổ chức các hoạt động tham quan, trao đổi kinh
nghiệm để nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn kinh tế tập thể của tỉnh và tạo điều
kiện cho các HTX liên kết, hợp tác kinh tế với các địa phương bạn, mở rộng thị
trường trong nước và xuất khẩu;
- Tích cực vận động phát triển
thành viên Liên minh HTX, tăng cường mối quan hệ trực tiếp với các HTX thông
qua sự phân công thành viên Ban Chấp hành Liên minh HTX để kịp thời tư vấn, hướng
dẫn, hỗ trợ các HTX hoạt động theo đúng pháp luật.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Ở tỉnh:
Thành lập Ban Chỉ đạo triển khai
thực hiện Chương trình, do một đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh làm
Trưởng ban, một đồng chí lãnh đạo Liên minh Hợp tác xã Bình Thuận làm Phó ban
thường trực, lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn làm Phó ban và các sở, ngành liên quan làm thành viên.
Ban Chỉ đạo tham mưu giúp Ủy ban
nhân dân tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo, xây dựng kế hoạch triển khai, hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện Chương trình.
Hàng năm, tổ chức sơ kết, tổng kết
và đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình
triển khai thực hiện.
Giúp việc cho Ban Chỉ đạo có Tổ
công tác thực hiện Chương trình, gồm chuyên viên các đơn vị tham gia Ban Chỉ đạo
thực hiện chương trình.
2. Ở huyện:
Ủy ban nhân dân các huyện, thị
xã, thành phố phân công đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách chỉ đạo
phát triển kinh tế tập thể. Mỗi huyện, thị xã, thành phố thành lập tổ công tác
thực hiện Chương trình.
3. Sở Tài
chính: chủ trì, phối hợp với các sở, ngành có liên quan tham mưu Ủy ban nhân
dân tỉnh về kinh phí triển khai thực hiện Chương trình.
4. Liên minh
Hợp tác xã Bình Thuận:
- Giao Liên minh Hợp tác xã Bình
Thuận rà soát lại Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
tập thể trước đây; từ đó, Liên minh làm việc thống nhất với Sở Nội vụ để điều
chỉnh, bổ sung thành viên Ban Chỉ đạo hoặc đề xuất thành lập Ban Chỉ đạo mới nhằm
thực hiện tốt Chương trình này, trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định;
- Có trách nhiệm phối hợp với
các sở, ngành, địa phương liên quan tổ chức tuyên truyền sâu rộng các nội dung
của Chương trình, nhằm tổ chức thực hiện tốt nhất nội dung Chương trình đã đề
ra;
- Là cơ quan thường trực, thường
xuyên theo dõi, đôn đốc việc triển khai Chương trình này của các sở, ngành, địa
phương;
- Định kỳ 6 tháng, báo cáo tình
hình và kết quả triển khai các nội dung trong Chương trình này cho Ủy ban nhân
dân tỉnh theo dõi.
5. Sở Kế hoạch
và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các sở, ngành liên quan và Ủy
ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố theo chức năng, nhiệm vụ của ngành,
đơn vị mình chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công.
Trong quá trình triển khai thực
hiện Chương trình, nếu có vướng mắc, các sở, ngành và địa phương phản ảnh về
Liên minh Hợp tác xã Bình Thuận để tổng hợp, tham mưu, đề xuất ý kiến, báo cáo Ủy
ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định./.