HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 25/NQ-HĐND
|
Bến Tre, ngày
05 tháng 12 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
KẾT QUẢ GIÁM SÁT TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 35/NQ-CP NGÀY
16/5/2016 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ HỖ TRỢ VÀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP ĐẾN NĂM 2020
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
KHOÁ IX - KỲ HỌP THỨ 6
Căn cứ Luật
tổ
chức chính quyền địa phương ngày 19
tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5
năm 2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020;
Sau khi xem xét Báo cáo số 708/BC-HĐND ngày
15 tháng 11 năm 2017 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám sát tình hình thực hiện Nghị
quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển
doanh nghiệp đến năm 2020; Tờ trình số 709/TTr-HĐND ngày 15 tháng 11 năm 2017 của
Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông qua Nghị quyết về kết quả giám
sát tình hình thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 của
Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; ý kiến thảo luận của
đại biểu
Hội đồng
nhân dân tỉnh,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Thống nhất nội dung Báo
cáo của Đoàn giám sát Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám sát tình hình thực
hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về hỗ trợ và
phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 với những nội dung như sau:
1. Kết quả đạt
được
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã triển khai
cụ thể hóa Nghị quyết số 35/NQ-CP bằng Chương trình hành động số 4179/CTr-UBND
ngày 15 tháng 8 năm 2016, phân công nhiệm vụ cho từng sở, ngành, Uỷ ban nhân
dân các huyện, thành phố và từng lúc có chỉ đạo kịp thời để các ngành, địa
phương thực hiện các nhiệm vụ được giao. Nhìn chung, sau một năm triển khai,
cùng với chương trình Đồng Khởi khởi nghiệp, việc triển khai Chương trình hành
động của Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP thể hiện rõ quyết
tâm của chính quyền địa phương về chuyển nền hành chính từ quản lý sang phục vụ,
xây dựng và kiến tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.
Công tác cải cách hành chính, tạo môi
trường thuận lợi cho doanh nghiệp được quan tâm chỉ đạo thường xuyên, các thủ tục
hành chính được công khai, thời gian giải quyết một số thủ tục đã được rút ngắn
đáng kể, góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp (đã rút ngắn
thời gian cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp xuống còn 1-2 ngày (thời
gian qui định là 03 ngày), Quyết định chủ trương đầu tư từ 35 ngày xuống còn 22
ngày). Lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ngành, địa phương có những cách
thức đa dạng để tiếp xúc, đối thoại, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho
doanh nghiệp. Tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm tạo dựng môi trường đầu tư
kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp như hỗ trợ doanh nghiệp
xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, đào tạo, bồi dưỡng cho doanh nghiệp về
kiến thức quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính, quản trị nguồn nhân lực,
tiếp cận vốn, thị trường… Các chính sách ưu đãi về tín dụng, các chính sách hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp của Trung ương được triển khai tương đối đầy đủ.
Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã kịp thời trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban
hành chính sách về khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến
Tre; Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng và kinh
doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Các địa phương tập
trung vận động, hỗ trợ các hộ kinh doanh cá thể đủ điều kiện chuyển đổi lên
doanh nghiệp.
Đến cuối tháng 9 năm 2017, toàn tỉnh
có khoảng 400 doanh nghiệp mới được thành lập, tăng 55% so cùng kỳ, vốn đăng ký
ban đầu gấp 2,3 lần so cùng kỳ, suất đầu tư tăng từ 5,3 tỷ đồng/doanh nghiệp
lên 6,42 tỷ đồng/doanh nghiệp; số lượng doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ giảm dần.
Doanh nghiệp ngày càng quan tâm hơn đến việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công
nghệ vào quản lý, sản xuất, kinh doanh để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
2. Những khó
khăn, hạn chế:
- Về đất đai: hiện tại tỉnh chưa
có quỹ đất sạch để thu hút đầu tư; một số cụm công nghiệp được quy hoạch chưa
giải phóng mặt bằng. Một số nhà đầu tư mua đất của dân, sau đó, xin chuyển mục
đích sử dụng đất gặp khó khăn do đất không nằm trong quy hoạch sản xuất công
nghiệp (thành phố Bến Tre hiện còn vướng khoảng 30 trường hợp); đồng thời vẫn
còn tình trạng doanh nghiệp nhận chuyển quyền sử dụng đất của dân không đăng ký
với cơ quan có thẩm quyền.
- Về thủ tục hành chính: thời gian
thực hiện thủ tục hành chính trên từng lĩnh vực có được cắt giảm nhưng tổng thời
gian cho một dự án từ lúc được cấp phép đầu tư đến khi chính thức đi vào hoạt động
vẫn còn dài, trong đó, tốn nhiều thời gian nhất là các thủ tục cho thuê đất,
đánh giá tác động môi trường và phòng cháy chữa cháy. Tính công khai, minh bạch
của các quy hoạch, các thủ tục hành chính vẫn chưa được người dân và doanh nghiệp
đánh giá cao.
- Việc tiếp cận các nguồn lực và
cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn chưa đảm bảo tính bình đẳng. Công
tác tổ chức cho các doanh nghiệp đấu thầu, nhất là đấu thầu xây dựng trong lĩnh
vực nông nghiệp và phát triển nông thôn còn có biểu hiện thiếu minh bạch, chưa
bảo đảm cạnh tranh công bằng. Nguồn vốn hỗ trợ khoa học công nghệ còn hạn chế,
chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
- Một số cơ chế, chính sách của tỉnh
về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp đã được
Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nhưng việc triển khai thực hiện ở các địa
phương còn chậm như: Nghị quyết số 17/2015/NQ-HĐND ngày 4 tháng 12 năm 2015 của
HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ, phát triển Hợp tác xã, liên kết sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm, xây dựng cánh đồng lớn trên địa bàn tỉnh Bến Tre, Nghị quyết số
08/2016/NQ-HĐND ngày 03 tháng 8 năm 2016 của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ hợp
tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản gắn với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Bến Tre. Việc chậm triển khai các cơ chế, chính sách này đã ảnh hưởng đến việc
mời gọi doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Hệ thống chính sách chưa đồng bộ,
du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn nhưng chưa có chính sách ưu đãi
đặc thù nào cho doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này. Chưa có chính sách ưu
tiên thu hút, phát triển doanh nghiệp công nghệ cao.
- Ý thức chấp hành pháp luật,
trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp vẫn còn hạn
chế. Nhiều doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động
trong thời gian dài, làm thiệt hại đến quyền lợi của người lao động, chưa thực
hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, sản xuất kinh doanh còn gây ô nhiễm môi trường, báo
cáo tài chính chưa minh bạch.
- Việc chuyển đổi hộ kinh doanh cá
thể lên doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, đa số hộ chưa muốn chuyển lên
doanh nghiệp do ngại phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, phải có kế toán, có
hóa đơn đầu vào đầu ra, phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động...
- Việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
doanh nghiệp trên thực tế gặp khó khăn, một số trường hợp thi hành án cho doanh
nghiệp kéo dài, còn 223 việc án có điều kiện nhưng chưa được thi hành, đã ảnh
hưởng đến quyền lợi của doanh nghiệp.
- Việc phối hợp thực hiện công tác
thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng đối với doanh nghiệp chưa tốt,
theo phản ánh của doanh nghiệp vẫn còn sự trùng lắp, nhất là đối với các doanh
nghiệp hoạt động nhiều ngành nghề, lĩnh vực.
- Việc cam kết giữa Ủy ban nhân
dân tỉnh với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chưa được các
ngành tham mưu thực hiện nghiêm túc.
3. Nguyên nhân
của hạn chế, bất cập:
a) Nguyên nhân khách quan:
- Sức thu hút, hấp dẫn nhà đầu tư
của tỉnh chưa cao do môi trường đầu tư kinh doanh chưa đồng bộ, đặc biệt là thiếu
quỹ đất sạch để kêu gọi đầu tư, cơ sở hạ tầng giao thông, việc cung cấp điện,
nước sạch, xử lý rác thải...ở nhiều địa phương vẫn còn khó khăn chưa đáp ứng
yêu cầu sản xuất.
-Việc xét xử, thi hành án, cưỡng
chế, kê biên, bán đấu giá tài sản nhiều trường hợp gặp sự chống đối quyết liệt
của người phải thi hành án, sự bất hợp tác của người có quyền lợi liên quan hoặc
do sai sót của hai bên khi ký kết hợp đồng giao dịch...dẫn đến tình trạng một số
việc thi hành án kéo dài.
b) Nguyên nhân chủ quan
- Công tác
tuyên truyền chưa sâu rộng, một bộ phận người dân, hộ kinh doanh cá thể và
doanh nghiệp vẫn chưa biết về Nghị quyết 35 cũng như các chính sách hỗ trợ của
tỉnh.
- Công tác tổ chức triển khai thực
hiện Nghị quyết 35 của Chính phủ và một số Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh
được Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo khá quyết liệt nhưng việc thực hiện của một số
ngành và cấp huyện vẫn còn chậm.
Điều 2.
Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành trong việc tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 35/NQ-CP:
1. Trên cơ sở kết quả giám sát, Hội
đồng nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung thực hiện một số giải
pháp sau:
a) Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã được phê duyệt, Ủy ban nhân dân tỉnh sớm quyết định thành lập Quỹ
phát triển đất theo quy định tại Điều 111 Luật Đất đai năm 2013. Hàng năm, tham
mưu cho Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét phân bổ ngân sách hợp lý để có nguồn tài
chính cho Quỹ phát triển đất của địa phương, từ đó hình thành quỹ đất sạch phục
vụ doanh nghiệp đầu tư.
b) Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải
cách thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục cho thuê đất, đánh giá tác động
môi trường và phòng cháy chữa cháy. Công khai, minh bạch về các quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch sử dụng đất của địa
phương để doanh nghiệp biết, tránh tình trạng doanh nghiệp mua và sử dụng đất
không đúng quy hoạch. Chỉ đạo rà soát, giải quyết các trường hợp vướng mắc về
chuyển mục đích sử dụng đất của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Bến Tre.
c) Chấn chỉnh công tác quản lý nhà
nước về đấu thầu trên tất cả các lĩnh vực, đảm bảo đúng quy định của pháp luật,
minh bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng. Nghiên cứu tăng
cường quỹ phát triển khoa học công nghệ hàng năm để đáp ứng nhu cầu hỗ trợ đổi
mới công nghệ của các doanh nghiệp.
d) Tập trung triển khai thực hiện
tốt Nghị quyết số 17/2015/NQ-HĐND , Nghị quyết số 08/2016/NQ-HĐND của Hội đồng
nhân dân tỉnh để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và phát triển
nông thôn và các văn bản khác do Hội đồng nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh
ban hành liên quan đến khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn tỉnh Bến
Tre.
đ) Rà soát các cơ chế, chính sách
về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp để kiến nghị các cơ quan Trung ương sửa đổi,
bổ sung các chính sách còn thiếu, chưa đồng bộ, đang vướng mắc, nhất là chính
sách, thủ tục trên lĩnh vực đất đai và việc tiếp cận các nguồn lực. Nghiên cứu
xây dựng chính sách ưu đãi doanh nghiệp đầu tư phát triển lĩnh vực du lịch và
thu hút, phát triển doanh nghiệp công nghệ cao.
e) Thực hiện nghiêm Chỉ thị số
20/CT-TTg ngày 17 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh
hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, các cơ quan có chức năng
thanh tra, kiểm tra tăng cường phối hợp thực hiện đúng quy định thanh tra, kiểm
tra không quá một lần/doanh nghiệp/năm.
g) Duy trì và đổi mới các hình thức
tiếp xúc, đối thoại giữa lãnh đạo địa phương với cộng đồng doanh nghiệp. Tiếp tục
tuyên truyền sâu rộng về Nghị quyết số 35/NQ-CP và các chính sách hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp của tỉnh đến người dân, hộ kinh doanh và doanh nghiệp.
h) Chỉ đạo các ngành thực hiện nội
dung cam kết giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam.
i) Tăng cường giáo dục, tuyên truyền
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm xã hội của doanh nhân, đồng thời,
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về lao động, kinh doanh, vi phạm
nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp.
2. Đề nghị Cục Thi hành án dân sự
tỉnh tăng cường phối hợp với các cơ quan có liên quan đẩy nhanh tiến độ thi
hành án đối với 223 việc án có điều kiện nhưng chưa thi hành để đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của doanh nghiệp.
Điều 3. Tổ
chức thực hiện
1. Ủy ban nhân dân tỉnh, Cục Thi
hành án dân sự tỉnh tổ chức triển khai việc thực hiện Nghị quyết, báo cáo kết
quả thực hiện vào Kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh cuối năm 2019.
3. Thường trực Hội đòng nhân dân tỉnh,
các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc
thực hiện nghị quyết.
Nghị quyết này đã được Hội đồng
nhân dân tỉnh, Khóa IX, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 05 tháng 12 năm 2017 và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua./.